Bản án số 584/2024/DS-PT ngày 21/11/2024 của TAND tỉnh Bình Dương về tranh chấp hợp đồng thuê tài sản
- Thuộc tính
- Nội dung
- VB gốc
- VB liên quan
- Lược đồ
- Đính chính
- Án lệ
- BA/QĐ cùng nội dung
- Tải về
Tải văn bản
-
Bản án số 584/2024/DS-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
-
Bản án số 584/2024/DS-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Báo lỗi
Thuộc tính Bản án 584/2024/DS-PT
Tên Bản án: | Bản án số 584/2024/DS-PT ngày 21/11/2024 của TAND tỉnh Bình Dương về tranh chấp hợp đồng thuê tài sản |
---|---|
Quan hệ pháp luật: | Tranh chấp hợp đồng thuê tài sản |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Tòa án xét xử: | TAND tỉnh Bình Dương |
Số hiệu: | 584/2024/DS-PT |
Loại văn bản: | Bản án |
Ngày ban hành: | 21/11/2024 |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Áp dụng án lệ: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Đính chính: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Thông tin về vụ/việc: | Tranh chấp hợp đồng thuê tài sản Q-A |
Tóm tắt Bản án
Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!
Tải văn bản
TÒA ÁN NHÂN DÂN
TỈNH BÌNH DƯƠNG
Bản án số: 584/2024/DS-PT
Ngày 21-11-2024
V/v tranh chấp hợp đồng thuê tài
sản
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH BÌNH DƯƠNG
- Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa:
Các Thẩm phán:
Bà Đinh Thị Mộng Tuyết.
Bà Trần Thị Thanh Trúc;
Bà Nguyễn Thị Duyên Hằng.
- Thư ký phiên tòa: Bà Nguyễn Thị Hồng Xuân - Thư ký Tòa án nhân
dân tỉnh Bình Dương.
- Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân tỉnh Bình Dương tham gia phiên
tòa: Bà Trần Thị Phước – Kiểm sát viên.
Trong các ngày 31 tháng 10 và ngày 21 tháng 11 năm 2024, tại trụ sở Tòa
án nhân dân tỉnh Bình Dương xét xử phúc thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số
407/2024/TLPT-DS ngày 08 tháng 10 năm 2024 về việc “Tranh chấp hợp đồng
thuê tài sản”.
Do Bản án dân sự sơ thẩm số 49/2024/DS-ST ngày 20 tháng 5 năm 2024
của Tòa án nhân dân thành phố B, tỉnh Bình Dương bị kháng cáo, kháng nghị.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số 400/2024/QĐ-PT ngày
14 tháng 10 năm 2024; Quyết định tạm ngừng phiên tòa số 76/2024/QĐPT-DS
ngày 31 tháng 10 năm 2024 và Thông báo về việc mở lại phiên tòa số
54/2024/TB-TA ngày 06 tháng 11 năm 2024, giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Ông Vũ Văn Q, sinh năm 1965; địa chỉ: số E, đường P,
phường Đ, thành phố P, tỉnh Gia Lai.
Người đại diện hợp pháp của nguyên đơn: Ông Lê Văn B, sinh năm 1996;
địa chỉ: thôn C, xã M, huyện B, tỉnh Bình Phước và bà Lê Thị Hoài Q1, sinh
năm 1991; địa chỉ: số A, đường H, khu phố C, phường P, thành phố T, tỉnh Bình
Dương; ông B và bà Q1 cùng địa chỉ liên hệ: số A, đường H, khu phố C, phường
P, thành phố T, tỉnh Bình Dương, là người đại diện theo ủy quyền (Văn bản ủy
quyền ngày 31/10/2023), ông B và bà Q1 có mặt.
2
- Bị đơn: Ông Trần Thế A, sinh năm 1978; địa chỉ: số C, khu phố A,
phường A, thành phố T, tỉnh Bình Dương địa chỉ liên hệ: căn số A66, đường N,
khu B, khu phố H, phường C, thành phố B, tỉnh Bình Dương.
Người đại diện hợp pháp của bị đơn: Công ty Cổ phần D1.
Người đại diện theo pháp luật: Ông Phan Quốc T – Chức vụ: Giám đốc,
là người đại diện theo ủy quyền (Văn bản ủy quyền ngày 14/5/2024).
Người đại diện hợp pháp của Công ty Cổ phần D1: Ông Trương Minh
Cát N, sinh năm 1971 hoặc ông Nguyễn Ngọc T1, sinh năm 1987 hoặc bà Văn
Thị Yến N1, sinh năm 1998 hoặc bà Nguyễn Võ Thiên D, sinh năm 1987; ông
N, ông T1, bà N1 và bà D cùng địa chỉ liên hệ: tầng 6, C, Tòa nhà R, số A, B,
Phường F, Quận D, Thành phố Hồ Chí Minh, là người đại diện theo ủy quyền
(Văn bản ủy quyền ngày 14/5/2024), ông T1 có mặt.
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
1. Bà Phạm Thúy H, sinh năm 1991; địa chỉ: tổ E, khu phố H, phường C,
thành phố B, tỉnh Bình Dương, có đơn yêu cầu giải quyết vắng mặt.
2. Bà Dương Thị Thu E, sinh năm 1960; địa chỉ: ấp A, xã P, huyện T, tỉnh
Đồng Tháp, có đơn yêu cầu giải quyết vắng mặt.
- Người kháng cáo: nguyên đơn ông Vũ Văn Q.
- Viện Kiểm sát kháng nghị: Viện trưởng Viện Kiểm sát nhân dân thành
phố B, tỉnh Bình Dương theo Quyết định kháng nghị phúc thẩm số 11/QĐKN-
VKS-DS ngày 03/6/2024.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
- Nguyên đơn ông Vũ Văn Q và người đại diện hợp pháp của nguyên đơn
là ông Lê Văn B và bà Lê Thị Hoài Q1 thống nhất trình bày:
Ngày 06/4/2023, ông Vũ Văn Q và ông Trần Thế A có ký Hợp đồng thuê
ki ốt có diện tích 17,5m
2
(ô số 14), và ki ốt có diện tích 17,5m
2
(ô số 15) thuộc
thửa đất số 622, tờ bản đố số 19 tọa lạc tại khu phố A, phường H, thị xã (nay là
thành phố ), tỉnh Bình Dương (theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền
sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất số vào sổ CH04092 do Ủy ban
nhân dân huyện (nay là thành phố) B, tỉnh Bình Dương cấp ngày 24/9/2012
đứng tên Lê Thành T2) để kinh doanh; giá thuê 1.000.000 đồng/tháng; thời hạn
thuê là 36 tháng, tính từ ngày 06/4/2023 đến ngày 06/4/2026. Ông Vũ Văn Q đã
đặt cọc cho ông Trần Thế A số tiền 100.000.0000 đồng. Các khoản tiền này sẽ
được bên cho thuê (ông A) trả lại cho bên thuê (ông Q) khi hai bên chấm dứt
hợp đồng theo đúng quy định, hợp đồng không có công chứng. Quá trình thuê ki
ốt, ông Q có gắn 02 cửa cuốn đối với ô 14 và ô 15. Quá trình thuê từ ngày
06/4/2023 đến nay ông Q chưa thanh toán tiền thuê ki ốt số 14 và ki ốt số 15 cho
ông A.
3
Tuy nhiên, theo Giấy chứng nhận đăng ký hộ kinh doanh số 46C8034761
thì chủ thể thành lập và đại điện hộ kinh doanh – chợ tạm An Hòa tại vị trí thửa
đất số 622, 621, 620; tờ bản đồ số 19 tọa lạc tại khu phố A, phường H, thành
phố B, tỉnh Bình Dương là bà Phạm Thúy H. Do đó, hợp đồng thuê ki ốt chợ của
ông G với ông A là vô hiệu.
Nguyên đơn khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết:
+ Tuyên Hợp đồng thuê ki ốt chợ được ký kết giữa ông Vũ Văn Q với ông
Trần Thế A đề ngày 06/4/2023 đối với ki ốt (ký hiệu ô 14, 15) là vô hiệu.
+ Buộc ông Trần Thế A phải trả lại cho ông Vũ Văn Q số tiền đặt cọc là
100.000.000 đồng (một trăm triệu đồng).
- Bị đơn Trần Thế A và người đại diện hợp pháp của ông Thế A là ông
Nguyễn Ngọc T1 thống nhất trình bày:
Bà Phạm Thúy H là chủ đầu tư chợ tạm An Hòa tại địa chỉ thửa đất số
620, 621, 622 tọa lạc tại khu phố A, phường H, thành phố B, tỉnh Bình Dương
theo Công văn số 163/UBND-KT ngày 18/01/2023 của Ủy ban nhân dân thị xã
(nay là thành phố ), tỉnh Bình Dương về việc thống nhất chủ trương xây dựng
chợ tạm.
Từ ngày chợ được cấp giấy phép chủ trương đi vào xây dựng thì bà H đã
giao cho ông A, là người trực tiếp quản lý việc xây dựng tại chợ và thực hiện
các công việc phát sinh tại chợ T4 theo Giấy ủy quyền ngày 25/3/2023.
Ngày 06/4/2023, ông A và ông Q đã ký kết hợp đồng thuê ki ốt chợ. Theo
đó, ông A đồng ý cho ông Q thuê ki ốt số 14 và ki ốt số 15 địa điểm tại chợ T4
(thuộc thửa đất số 622). Thời hạn thuê là 36 tháng, tính từ ngày 06/4/2023 đến
ngày 06/4/2026. Ông A có nhận số tiền 100.000.000 đồng tiền cọc của ông Q và
đã giao lại cho bà H. Việc giao nhận không lập thành văn bản. Thực tế, ông
Quảng nhận ki ốt số 14 và ki ốt số 15 từ ngày 06/4/2023 và chứa hàng hóa để
kinh doanh. Từ tháng 5/2023 đến nay, ông Q tự ý đóng cửa không báo lại với
ông A, bà H hoặc người quản lý chợ về việc tạm ngừng kinh doanh tại chợ và
không có bàn giao trả lại mặt bằng cho ông A, bà H. Từ ngày nhận ki ốt số 14
và ki ốt số 15 đến nay, ông Q chưa trả tiền thuê ki ốt số 14 và ki ốt số 15, tiền
điện, tiền nước. Tuy nhiên, ông A không yêu cầu Tòa án xem xét giải quyết đối
với tiền thuê ki ốt số 14 và ki ốt số 15, tiền điện, tiền nước của ông Q đối với ki
ốt số 14 và ki ốt số 15.
Khi ký kết hợp đồng, ông A có thông báo cho tiểu thương về việc bà H là
chủ đầu tư chợ tạm A và ông A là người được ủy quyền ký kết hợp đồng với
tiểu thương.
Đến ngày 27/5/2023, sau khi chợ đi vào hoạt động. Bà H đã trực tiếp ký
kết lại hợp đồng với tất cả tiểu thương đã ký hợp đồng thuê với ông A trước đó.
Nội dung trong hợp đồng giữ nguyên như cũ chỉ thay đổi tên của người cho thuê
là ông Trần Thế A sang tên bà Phạm Thúy H. Bà H nhiều lần đề nghị ông Q ký
4
kết lại hợp đồng với tên người cho thuê là bà Phạm Thúy H thì ông Q không
thực hiện việc ký kết và vẫn hoạt động buôn bán bình thường tại ki ốt của mình.
Nay ông Q khởi kiện, ông A hoàn toàn không đồng ý đối với các yêu cầu
khởi kiện của ông Q. Hợp đồng thuê ki ốt chợ giữa ông A với ông Q có hiệu lực
pháp luật và chỉ chấm dứt khi hết thời hạn ghi trong hợp đồng. Do đó, số tiền
100.000.000 đồng đặt cọc chỉ trả lại khi hết hạn hợp đồng là ngày 06/4/2026 sau
khi trừ các chi phí phát sinh theo đúng nội dung thỏa thuận giữa hai bên.
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà Phạm Thúy H trình bày:
Bà H thống nhất với lời trình bày của ông Trần Thế A. Bà H có ủy quyền
cho ông A ký kết các hợp đồng cho thuê ki ốt chợ đối với các tiểu thương bằng
Giấy ủy quyền ngày 25/3/2023. Giấy ủy quyền ngày 25/3/2023, giữa bà H với
ông A không công chứng, chứng thực. Bà H có nhận số tiền 100.000.000 đồng
tiền đặt cọc thuê ki ốt số 14 và ki ốt số 15 của ông Q do ông Trần Thế A giao
lại, việc giao nhận tiền không lập thành văn bản.
Ngày 24/3/2024, bà H nộp đơn yêu cầu độc lập, đề nghị Tòa án buộc ông
Q thanh toán số tiền thuê ki ốt còn thiếu từ ngày 06/6/2023 cho đến ngày giải
quyết xong vụ án với tổng số tiền tạm tính là 22.000.000 đồng, cụ thể: 1.000.000
đồng/ki ốt/tháng x 02 ki ốt x 06 tháng chưa trả; 2.500.000 đồng/ki ốt/tháng x 02
ki ốt từ ngày 06/12/2023 đến ngày giải quyết xong vụ án.
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà Dương Thị Thu E trình bày:
Bà E là người đang quản lý, sử dụng ki ốt số 14, thuộc thửa đất số 622, tờ
bản đồ số 19 tọa lạc tại khu phố A, phường H, thành phố B, tỉnh Bình Dương từ
tháng 12/2023 đến nay. Bà E không có xây dựng, tu tạo bất kỳ tài sản gì gắn liền
trên ki ốt số 14. Bà E chỉ ở nhờ trên ki ốt số 14 của bà H. Đối với yêu cầu khởi
kiện của nguyên đơn, bà E không có ý kiến. Trường hợp, Tòa án giải quyết vụ án
thì bà E đồng ý dọn đi khỏi ki ốt số 14, không yêu cầu bồi thường thiệt hại gì. Bà
H chỉ cho bà E ở nhờ, không có thu tiền thuê. Bà E xin Tòa án cho bà E được
vắng mặt trong suốt quá trình giải quyết vụ án. Bà E cam kết không có khiếu nại
gì sau này.
Tại phiên tòa sơ thẩm,
+ Người đại diện hợp pháp của nguyên đơn trình bày ý kiến tranh luận:
Tại thời điểm ký kết hợp đồng, bị đơn không cung cấp giấy tờ, tài liệu để chứng
minh tư cách chủ thể của bên cho thuê là lừa dối. Giấy ủy quyền giữa ông A với
bà H là không hợp lệ, không có chứng thực chữ ký, nội dung ủy quyền liên quan
đến chợ T4 chứ không phải chợ T4 (nơi ông Q thuê ki ốt số 14 và ki ốt số 15).
Tại thời điểm ký hợp đồng, ông A không đưa giấy ủy quyền và các tài liệu về
tính pháp lý của chợ T4 cho ông Quảng C. Trong hợp đồng không thể hiện nội
dung ông A được bà H ủy quyền cho thuê ô, sạp, ki ốt tại chợ T4. Văn bản của
cơ quan có thẩm quyền xác định chợ T4 đủ điều kiện đi vào hoạt động từ tháng
8/2023 nhưng bà H ủy quyền cho ông A từ ngày 25/3/2023, ông A cho ông Q
thuê từ tháng 4/2023 là không phù hợp. Do đó, đề nghị Hội đồng xét xử xem xét
5
chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn căn cứ vào quy định tại
điểm a khoản 1 Điều 117, Điều 122 của Bộ luật Dân sự năm 2015.
Nguyên đơn không đồng ý toàn bộ yêu cầu độc lập của người có quyền
lợi, nghĩa vụ liên quan bà Phạm Thúy H.
+ Người đại diện hợp pháp của bị đơn trình bày ý kiến tranh luận: Nguyên
đơn cho rằng người ký hợp đồng cho thuê ki ốt chợ với nguyên đơn không có
năng lực chủ thể là không đúng vì ông A có đầy đủ năng lực chủ thể, ông A
được sự ủy quyền của bà H để ký hợp đồng trên. Tại phiên tòa hôm nay, có mặt
bà H, bà H thừa nhận có việc ủy quyền, xác nhận nội dung ủy quyền. Ông A
hoàn toàn không lừa dối ông Q khi giao kết hợp đồng. Trong hợp đồng không có
nội dung nào thể hiện ông A là chủ các ô/sạp ki ốt cho thuê tại chợ T4. Ngoài
chợ tạm A, bà H không có kinh doanh chợ nào khác trên địa bàn phường H. Do
đó, nội dung giấy ủy quyền thể hiện chợ T4 chính là chợ T4 (nơi cho thuê ô/sạp
ki ốt chợ và phát sinh tranh chấp). Từ các lập luận trên cho thấy, không có cơ sở
nào xác định hợp đồng thuê ki ốt chợ giữa ông A với ông Q là vô hiệu. Do đó, đề
nghị Hội đồng xét xử căn cứ các Điều 142, Điều 143 Bộ luật Dân sự không
tuyên hợp đồng thuê ki ốt chợ được ký kết giữa ông A với ông Q là vô hiệu.
+ Bị đơn Trần Thế A trình bày: Các tiểu thương tự tìm đến ông A và bà H
để ký kết hợp đồng thuê chợ, biết rõ bà H là chủ chợ T4 nhưng vẫn đồng ý ký
kết nên không thể trình bày là bị lừa dối ký kết hợp đồng.
+ Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà Phạm Thúy H trình bày tranh
luận: Yêu cầu Tòa án giải quyết vụ án theo quy định của pháp luật. Hợp đồng ký
kết, ông A đã giao mặt bằng cho ông Q vào ngày 06/4/2023. Nội dung hợp đồng
có điều khoản là bên cho thuê miễn tiền thuê 02 tháng đầu. Do đó, bà H yêu cầu
Tòa án buộc ông Q trả tiền thuê từ ngày 06/6/2023 đến thời điểm giải quyết
xong vụ án theo giá thuê đã thỏa thuận tại hợp đồng. Bà H cũng không có ý kiến
yêu cầu bà E di dời trả lại ki ốt cho bà H.
Tại Bản án dân sự sơ thẩm số 49/2024/DS-ST ngày 20 tháng 5 năm 2024
của Tòa án nhân dân thành phố B, tỉnh Bình Dương đã quyết định:
1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn ông Vũ Văn Q đối với bị
đơn ông Trần Thế A về việc “Tranh chấp hợp đồng thuê tài sản”.
1.1. Tuyên bố Hợp đồng thuê ki ốt chợ ngày 06/4/2023 giữa ông Vũ Văn
Q với ông Trần Thế A về việc cho thuê ki ốt chợ (ki ốt số 14 và số A) tại chợ T4
là vô hiệu.
1.2. Buộc ông Trần Thế A có trách nhiệm hoàn trả cho ông Vũ Văn Q số
tiền 100.000.000 đồng (một trăm triệu đồng).
1.3. Buộc ông Vũ Văn Q trả cho bà Phạm Thúy H ki ốt số 15 tại chợ T4
thuộc thửa đất số 622, tờ bản đồ số 19 tọa lạc tại khu phố A, phường H, thành
phố B, tỉnh Bình Dương, hiện trạng như sau: diện tích: 17,5m
2
; có tứ cận: các
hướng Đông, T3, N2, B1 giáp đường lòng chợ; kết cấu: nền lát gạch, mái lợp
tole, cột sắt thép.
6
Ông Vũ Văn Q tự tháo dở, di dời các tài sản, công trình, vật kiến trúc gắn
liền với ki ốt số 14 và số 15 gồm có: 01 cửa cuốn gắn tại ki ốt số 14; 01 cửa
cuốn gắn tại ki ốt số 15.
2. Chấp nhận yêu cầu độc lập của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan
Phạm Thúy H đối với nguyên đơn ông Vũ Văn Q về việc yêu cầu ông Vũ Văn Q
trả tiền thuê.
Buộc ông Vũ Văn Q thanh toán cho bà Phạm Thúy H số tiền 25.000.000
đồng (hai mươi lăm triệu đồng).
Ngoài ra, bản án còn quyết định về nghĩa vụ chậm trả theo quy định tại
khoản 2 Điều 468 của Bộ luật Dân sự, án phí và quyền kháng cáo.
Sau khi xét xử sơ thẩm, ngày 31/5/2024, nguyên đơn ông Vũ Văn Q có
đơn kháng cáo toàn bộ bản án sơ thẩm.
Ngày 03/6/2024, Viện trưởng Viện Kiểm sát nhân dân thành phố B, tỉnh
Bình Dương ban hành Quyết định kháng nghị phúc thẩm số 11/QĐKN-VKS-DS
kháng nghị đối với bản án sơ thẩm nêu trên theo hướng sửa bản án sơ thẩm.
Tại phiên tòa phúc thẩm, người đại diện hợp pháp của nguyên đơn xác
định chỉ kháng cáo đối với phần quyết định của bản án sơ thẩm về việc chấp
nhận yêu cầu độc lập của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà Phạm Thúy
H đối với nguyên đơn ông Vũ Văn Q về việc buộc ông Q trả tiền thuê. Phần
tuyên hợp đồng vô hiệu và buộc ông A trả số tiền 100.000.000 đồng cho ông Q
thì ông Q không kháng cáo. Đối với phần tuyên buộc ông Q trả lại ki ốt thì đề
nghị Hội đồng xét xử xem xét vì ông Q không quản lý, sử dụng ki ốt và theo kết
quả xác minh của Tòa án hiện trạng khu chợ tạm A đã tháo dỡ toàn bộ không
còn tồn tại bất kỳ ki ốt nào.
Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân tỉnh Bình Dương vẫn giữ nguyên quyết
định kháng nghị.
Các đương sự không tự thỏa thuận với nhau về việc giải quyết vụ án.
Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân tỉnh Bình Dương phát biểu quan điểm:
- Về tố tụng: Những người tiến hành tố tụng và tham gia tố tụng đã thực
hiện đúng quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự tại Tòa án cấp phúc thẩm.
- Về nội dung: Quyết định kháng nghị của Viện trưởng Viện Kiểm sát
nhân dân thành phố B, tỉnh Bình Dương là có căn cứ nên đề nghị Hội đồng xét
xử chấp nhận quyết định kháng nghị, chấp nhận kháng cáo của nguyên đơn. Tuy
nhiên, theo kết quả xác minh của Tòa án nhân dân tỉnh Bình Dương thì hiện
trạng chợ T4 đã được tháo dỡ toàn bộ nên việc tuyên buộc ông Q phải trả lại các
ki ốt thuê là không còn phù hợp nên cần sửa án sơ thẩm điều chỉnh lại cho phù
hợp.
Sau khi nghiên cứu tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra
tại phiên tòa, căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, lời trình bày của các
đương sự, ý kiến của Kiểm sát viên,
7
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
[1] Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà Phạm Thúy H và bà Dương
Thị Thu E có đơn yêu cầu giải quyết vắng mặt. Do đó, Hội đồng xét xử căn cứ
vào Điều 296 của Bộ luật Tố tụng dân sự tiến hành xét xử vắng mặt các đương
sự có tên trên.
[2] Tại phiên tòa, người đại diện hợp pháp của nguyên đơn xác định chỉ
kháng cáo đối với phần quyết định của bản án sơ thẩm về việc chấp nhận yêu
cầu độc lập của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà Phạm Thúy H đối với
nguyên đơn ông Vũ Văn Q về việc buộc ông Q trả tiền thuê ki ốt cho bà H và
việc tuyên buộc ông Q trả ki ốt cũng như tháo dỡ tài sản. Các phần quyết định
còn lại của bản án sơ thẩm, nguyên đơn không kháng cáo; quyết định kháng
nghị của Viện trưởng Viện Kiểm sát nhân dân thành phố B, tỉnh Bình Dương chỉ
kháng nghị một phần nội dung bản án sơ thẩm đối với phần yêu cầu độc lập của
bà H. Như vậy, phần quyết định của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng
nghị đã phát sinh hiệu lực pháp luật. Căn cứ Điều 293 Bộ luật Tố tụng dân sự,
Tòa án cấp phúc thẩm xem xét giải quyết trong phạm vi nội dung kháng cáo nêu
trên.
[3] Ngày 18/01/2023, Ủy ban nhân dân thị xã (nay là thành phố ), tỉnh
Bình Dương ban hành Công văn số 163/UBND-KT về việc thống nhất chủ
trương xây dựng chợ tạm của bà Phạm Thúy H, phường H. Nội dung công văn
thể hiện được đầu tư chợ tạm tại thửa đất số 622, 621, 620; tờ bản đồ số 19 tọa
lạc tại khu phố A, phường H, thành phố B, tỉnh Bình Dương. Thời gian hoạt
động 03 năm kể từ khi có văn bản chấp thuận chủ trương của Ủy ban nhân dân
thị xã (nay là thành phố ), tỉnh Bình Dương. Trường hợp, trong quá trình hoạt
động chủ đầu tư vi phạm các quy định về xây dựng, đất đai, an ninh trật tự, vệ
sinh môi trường, an toàn thực phẩm, phòng cháy chữa cháy, địa điểm hoạt
động... thì sẽ chấm dứt hoạt động chợ T4; chủ đầu tư (bà Phạm Thúy H) phải tự
tháo dỡ và không yêu cầu bồi thường trong vòng 30 ngày kể từ ngày nhận được
văn bản yêu cầu chấm dứt chợ tạm của Ủy ban nhân dân thị xã (nay là thành phố
), tỉnh Bình Dương.
[4] Giấy chứng nhận đăng ký hộ kinh doanh số 46C8034761, đăng ký lần
đầu ngày 16/3/2022, đăng ký thay đổi lần 01 ngày 30/01/2023 do Phòng Tài
chính – Kế hoạch thị xã (nay là thành phố) Bến Cát cấp cho “Hộ kinh doanh –
Phạm Thúy H”; địa điểm kinh doanh: thửa đất số 622, 621, 620, tờ bản đồ số 19
tọa lạc tại khu phố A, phường H, thành phố B, tỉnh Bình Dương; ngành nghề
kinh doanh: mua bán tạp hóa, kinh doanh chợ tạm... Tại mục 6 văn bản này ghi
rõ: “6. Thông tin về đại diện hộ kinh doanh: Họ và tên: Phạm Thúy H”
[5] Như vậy, chợ tạm An Hòa do bà Pham Thúy H1 là chủ đầu tư được
chấp thuận chủ trương từ ngày 18/01/2023 và bà Phạm Thúy H là người được
cấp giấy phép kinh doanh chợ tạm A, là người đại diện hợp pháp cho hộ kinh
doanh.
8
[6] Ngày 06/4/2023, ông Trần Thế A ký hợp đồng cho thuê ki ốt chợ đối
với ông Vũ Văn Q; theo nội dung hợp đồng ông A cho ông Q thuê 02 ki ốt số 14
và số 15 thuộc dự án chợ T4 trên cơ sở Giấy ủy quyền ngày 25/3/2023 của bà
Phạm Thúy H. Đến ngày 22/5/2023, Phòng K (nay là thành phố) B, tỉnh Bình
Dương phối hợp cùng các đơn vị có liên quan lập biên bản khảo sát hiện trạng,
kiểm tra công trình xây dựng chợ tạm A, phường H trước khi đưa vào hoạt
động. Như vậy, có căn cứ xác định thời điểm bà H ủy quyền cho ông A cũng
như ông A giao kết hợp đồng thuê ki ốt với ông Q thì công trình chợ tạm An
Hòa do bà H làm chủ đầu tư chưa đủ điều kiện đưa vào hoạt động nên Tòa án
cấp sơ thẩm tuyên hợp đồng thuê ki ốt giữa ông Q với ông A vô hiệu là có căn
cứ. Đối với phần tuyên hợp đồng vô hiệu và tuyên buộc ông A trả cho ông Q số
tiền 100.00.000 đồng, đương sự không kháng cáo, Viện Kiểm sát không kháng
nghị nên đã phát sinh hiệu lực pháp luật.
[7] Đối với yêu cầu độc lập của bà H. Như trên đã phân tích, thời điểm
giao kết hợp đồng chợ T4 chưa đủ điều kiện hoạt động và theo thỏa thuận tại
hợp đồng tiền thuê được miễn 02 tháng đầu tiên kể từ ngày ký kết hợp đồng.
Theo mục 2 Điều 4 của Hợp đồng thuê ki ốt chợ ngày 06/4/2023 thoả thuận
“Nếu trong quá trình bên thuê B (ông Q) bỏ ngang không buôn bán nữa thì phải
bảo cho bên A (ông Thế A), lúc này bên A sẽ lấy lại ki ốt. Nếu bên B bỏ ngang
không báo cho bên A, thì sau một tháng bên B không có hoạt động buôn bán thì
bên A sẽ lấy lại ki ốt đã cho thuê”. Như vậy, thỏa thuận trên nếu ông Q không
buôn bán thì phải thông báo cho ông A mà không phải là thông báo cho bà H và
cũng theo thỏa thuận trên đã thỏa thuận ông Q có thông báo hay không thì sau
một tháng bên ông Q không có hoạt động buôn bán thì bên A sẽ lấy lại ki ốt đã
cho thuê. Quá trình tố tụng, ông Thế A thừa nhận ông Q thuê ki ốt số 14, số A
kinh doanh được một tháng thì đóng cửa không buôn bán và đến ngày
27/5/2023, chợ đi vào hoạt động thì bà H yêu cầu ông Q ký lại hợp đồng nhưng
ông Q không ký lại hợp đồng. Đối chiếu với thỏa thuận tại hợp đồng, ông Q bỏ
ngang không thông báo cho ông A thì sau một tháng bên ông Q không có hoạt
động buôn bán thì bên ông A sẽ lấy lại ki ốt đã cho thuê. Chứng cứ tại hồ sơ,
đến tháng 12/2023, bà H có cho bà Dương Thị Thu E vào ở nhờ tại ki ốt 14 và
kết quả xem xét, thẩm định tại chỗ ghi nhận bà E ở, quản lý ki ốt số 14 và số 15
là ki ốt trống không có hàng hóa hay tài sản gì của ông Q, điều này chứng minh
các ki ốt mà ông Q thuê theo hợp đồng đã được phía ông A lấy lại mà không cần
thông báo của ông Q. Do đó, Tòa án cấp sơ thẩm cho rằng ông Q không có
thông báo để buộc ông Q trả số tiền thuê các ki ốt là đánh giá không đầy đủ thỏa
thuận của đương sự cũng như chứng cứ có tại hồ sơ.
[8] Như vậy, ông Q đã không kinh doanh và sử dụng các ki ốt từ tháng
5/2023 nên việc Tòa án cấp sơ thẩm tuyên buộc ông Q trả lại ki ốt số 15 là
không phù hợp. Tuy nhiên, theo kết quả xác minh ngày 15/11/2023 của Tòa án
nhân dân tỉnh Bình Dương thể hiện toàn bộ khu đất xây dựng chợ là đất trống do
chủ đầu tư tự tháo dỡ. Do đó, phần tuyên của bản án sơ thẩm không còn phù hợp
với hiện trạng sử dụng thực tế nên cần điều chỉnh lại bản án sơ thẩm, không
9
tuyên phần trả lại ki ốt 15 cũng như tháo dỡ các cửa cuốn đã tuyên tại bản án sơ
thẩm.
[9] Từ những phân tích trên, xét thấy kháng cáo của nguyên đơn là có căn
cứ chấp nhận; quyết định kháng nghị của Viện trưởng Viện Kiểm sát nhân dân
thành phố B, tỉnh Bình Dương là phù hợp.
[10] Đề nghị của đại diện Viện Kiểm sát nhân dân tỉnh Bình Dương tại
phiên tòa là phù hợp.
[11] Về án phí sơ thẩm: Đương sự phải chịu theo quy định của pháp luật
tại Điều 147 của Bộ luật Tố tụng dân sự. Đối với phần tuyên buộc hợp đồng vô
hiệu và tuyên buộc ông A trả cho ông Q số tiền 100.00.000 đồng, đương sự
không kháng cáo, Viện Kiểm sát không kháng nghị nên đã phát sinh hiệu lực
pháp luật. Tuy nhiên, Tòa án cấp sơ thẩm chỉ tính án phí đối với số tiền ông A
phải trả lại cho ông Q mà không xem xét tính án phí đối với phần tuyên hợp
đồng vô hiệu là không phù hợp.
[12] Về chi phí tố tụng: Đương sự phải chịu chi phí xem xét, thẩm định tại
chỗ theo quy định tại Điều 158 của Bộ luật Tố tụng dân sự.
[13] Về án phí dân sự phúc thẩm: Do sửa một phần bản án sơ thẩm nên
người kháng cáo không phải chịu.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH:
- Căn cứ Điều 147, 148, 158, 293, 296, khoản 2 Điều 308, Điều 309, Điều
313 Bộ luật Tố tụng dân sự;
- Căn cứ Điều 117, Điều 122, Điều 123, Điều 131, Điều 468, Điều 472,
Điều 482 của Bộ luật Dân sự năm 2015.
- Căn cứ Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm
2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội Khóa XIV quy định về mức thu, miễn,
giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
1. Chấp nhận yêu cầu kháng cáo của nguyên đơn ông Vũ Văn Q.
2. Chấp nhận Quyết định kháng nghị phúc thẩm số 11/QĐKN-VKS-DS
ngày 03 tháng 6 năm 2024 của Viện trưởng Viện Kiểm sát nhân dân thành phố
B, tỉnh Bình Dương.
3. Sửa một phần Bản án dân sự sơ thẩm số 49/2024/DS-ST ngày 20 tháng
5 năm 2024 của Tòa án nhân dân thành phố B, tỉnh Bình Dương, như sau:
3.1. Không chấp nhận yêu cầu độc lập của người có quyền lợi, nghĩa vụ
liên quan bà Phạm Thúy H đối với nguyên đơn ông Vũ Văn Q về việc yêu cầu
ông Vũ Văn Q trả tiền thuê ki ốt 14 và số 15 theo Hợp đồng thuê ki ốt chợ ngày
06/4/2023.
3.2. Án phí dân sự sơ thẩm:
10
Bà Phạm Thúy H phải chịu số tiền 1.250.000 đồng (một triệu hai trăm
năm mươi nghìn đồng) án phí dân sự sơ thẩm, được khấu trừ vào số tiền
550.000 đồng (năm trăm năm mươi nghìn đồng) tạm ứng án phí đã nộp tại Biên
lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0001011 ngày 19 tháng 4 năm 2024 của
Chi cục Thi hành án dân sự thành phố B, tỉnh Bình Dương. Bà H còn phải nộp
số tiền 700.000 đồng (bảy trăm nghìn đồng).
Hoàn trả cho ông Vũ Văn Q số tiền 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng)
tạm ứng án phí đã nộp tại Biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0002117
ngày 01/12/2023 của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố B, tỉnh Bình Dương
(do ông Lê Văn B nộp thay).
Ông Trần Thế A phải chịu số tiền 5.300.000 đồng (năm triệu ba trăm
nghìn đồng).
4. Một phần Bản án dân sự sơ thẩm số 49/2021/DS-ST ngày 20 tháng 5
năm 2021 của Tòa án nhân dân thành phố B, tỉnh Bình Dương đã có hiệu lực
pháp luật, như sau:
4.1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn ông Vũ Văn Q đối với
bị đơn ông Trần Thế A về việc “Tranh chấp hợp đồng thuê tài sản”.
- Tuyên bố Hợp đồng thuê ki ốt chợ ngày 06/4/2023 giữa ông Vũ Văn Q
với ông Trần Thế A về việc cho thuê ki ốt chợ (ki ốt số 14 và số A) tại chợ T4 là
vô hiệu.
Buộc ông Trần Thế A có trách nhiệm hoàn trả cho ông Vũ Văn Q số tiền
100.000.000 đồng (một trăm triệu đồng).
Khi Bản án có hiệu lực pháp luật, kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án
của ông Vũ Văn Q cho đến khi thi hành án xong, ông Trần Thế A còn phải chịu
khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại
Điều 357, Điều 468 của Bộ luật Dân sự năm 2015.
4.2. Về chi phí tố tụng (chi phí xem xét, thẩm định tại chỗ): Ông Trần Thế
A phải chịu số tiền 1.000.000 đồng (một triệu đồng).
Do ông Vũ Văn Q đã tạm ứng số tiền 1.000.000 đồng chi phí xem xét,
thẩm định tại chỗ nên ông Trần Thế A có trách nhiệm hoàn lại số tiền 1.000.000
đồng (một triệu đồng) cho ông Vũ Văn Q.
5. Về án phí dân sự phúc thẩm: Nguyên đơn ông Vũ Văn Q không phải
chịu. Hoàn trả cho ông Vũ Văn Q số tiền 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng)
tạm ứng án phí đã nộp tại Biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0003328
ngày 06 tháng 6 năm 2024 của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố B, tỉnh
Bình Dương (do ông Lê Văn B nộp thay).
Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2
Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành
án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện
thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9
11
Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại
Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án./.
Nơi nhận:
- VKSND tỉnh Bình Dương;
- Chi cục THADS thành phố B;
- TAND thành phố B;
- Các đương sự;
- Lưu: HCTP, HSVA, Tòa Dân sự.
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM
THẨM PHÁN - CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
(Đã ký)
Đinh Thị Mộng Tuyết
Tải về
Bản án số 584/2024/DS-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án số 584/2024/DS-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án/ Quyết định cùng đối tượng
1
Ban hành: 21/11/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
2
Ban hành: 29/09/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
3
Ban hành: 24/09/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
4
Ban hành: 19/09/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
5
Ban hành: 13/09/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
6
Ban hành: 13/09/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
7
Ban hành: 12/09/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
8
Ban hành: 12/09/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
9
Bản án số 228/2024/DS-PT ngày 12/09/2024 của TAND tỉnh Sóc Trăng về tranh chấp hợp đồng thuê tài sản
Ban hành: 12/09/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
10
Ban hành: 10/09/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
11
Ban hành: 03/09/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
12
Ban hành: 29/08/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
13
Ban hành: 26/08/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
14
Ban hành: 22/08/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
15
Ban hành: 20/08/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
16
Ban hành: 16/08/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
17
Ban hành: 15/08/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
18
Ban hành: 13/08/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
19
Ban hành: 13/08/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm