Bản án số 34/2025/DS-PT ngày 17/02/2025 của TAND tỉnh An Giang về tranh chấp hợp đồng vay tài sản

  • Thuộc tính
  • Nội dung
  • VB gốc
  • VB liên quan
  • Lược đồ
  • Đính chính
  • Án lệ
  • BA/QĐ cùng nội dung
  • Tải về
Tải văn bản
Báo lỗi
  • Gửi liên kết tới Email
  • Chia sẻ:
  • Chế độ xem: Sáng | Tối
  • Thay đổi cỡ chữ:
    17

Thuộc tính Bản án 34/2025/DS-PT

Tên Bản án: Bản án số 34/2025/DS-PT ngày 17/02/2025 của TAND tỉnh An Giang về tranh chấp hợp đồng vay tài sản
Quan hệ pháp luật: Tranh chấp hợp đồng vay tài sản
Cấp xét xử: Phúc thẩm
Tòa án xét xử: TAND tỉnh An Giang
Số hiệu: 34/2025/DS-PT
Loại văn bản: Bản án
Ngày ban hành: 17/02/2025
Lĩnh vực: Dân sự
Áp dụng án lệ:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Đính chính:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Thông tin về vụ/việc: Phan Trọng C - Nguyễn Thị Lệ T tranh chấp hợp đồng vay tài sản
Tóm tắt Bản án

Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!

Tải văn bản

TÒA ÁN NHÂN DÂN
TỈNH AN GIANG
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập Tự do Hạnh phúc
Bản án số: 34/2025/DS-PT
Ngày 17 tháng 02 năm 2025
V/v Tranh chấp hợp đồng dân sự vay
tài sản
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH AN GIANG
- Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa: Ông Trần Hoàng Vũ.
Các Thẩm phán: Bà Phạm Thị Minh Châu và bà Trịnh Ngọc Thuý.
- Thư phiên tòa: Thiều Thanh Bội Giao Thư ký Tòa án nhân
dân tỉnh An Giang.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh An Giang tham gia phiên tòa:
Nguyễn Mỹ Duyên - Kiểm sát viên.
Ngày 11 và ngày 17 tháng 02 năm 2025 tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh An
Giang xét xử phúc thẩm công khai vụ án dân sự thụ số: 429/2024/TLPT-DS
ngày 23 tháng 12 năm 2024 về việc “Tranh chấp hợp đồng dân sự vay tài sản”,
theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 425/2024/QĐ-PT ngày 27 tháng 12 năm
2024, giữa các đương sự:
1. Nguyên đơn:
1.1. Ông Phan Trọng C, sinh năm 1987;
1.2. Bà Nguyễn Thị Thanh T, sinh năm 1967;
Cùng địa chỉ trú: Số C, đường C, tổ A, khóm E, phường C, thành phố
C, tỉnh An Giang.
Người đại diện theo uỷ quyền của nguyên đơn: Ông Nguyễn Minh H,
sinh năm 1967; địa chỉ trú: Tổ A, khóm C, phường C, thành phố C, tỉnh An
Giang; địa chỉ liên lạc: Số B C, ấp V, V, thành phố C, tỉnh An Giang (theo
văn bản uỷ quyền ngày 28/12/2023). (có mặt)
2. Bị đơn: Nguyễn Thị Lệ T1, sinh năm 1963; địa chỉ trú: Số I,
đường T, khóm C, phường C, thành phố C, tỉnh An Giang. (có mặt)
Người đại diện theo uỷ quyền của bị đơn: Ông Tạ Hùng C1, sinh năm
1964; địa chỉ trú: Số D B, khu tập thể V - H, phường Ô, quận Đ, thành phố
Hà Nội (theo văn bản uỷ quyền ngày 12/4/2024). (có mặt)
- Người kháng cáo: Bị đơn bà Nguyễn Thị Lệ T1.
2
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Tại đơn khởi kiện, bản tự khai, trong quá trình giải quyết nguyên đơn ông
ông Phan Trọng C, Nguyễn Thị Thanh T do ông Nguyễn Minh H người đại
diện theo uỷ quyền trình bày như sau:
Ông Phan Trọng C Nguyễn Thị Thanh T cho Nguyễn Thị Lệ
T1 vay số tiền 6.700.000.000đ (sáu tỷ bảy trăm triệu đồng), lãi suất 3%/tháng,
cụ thể: Vay ngày 27/12/2020 2.500.000.000đ; vay ngày 28/12/2020
2.000.000.000đ. Cả hai khoản vay trên được hợp đồng tại Văn phòng C2
ngày 28/12/2020.
Sau đó, T1 vay 1.000.000.000đ từ T cả hai thống nhất nhập
1.000.000.000đ chung với hợp đồng 2.000.000.000đ ngày 28/12/2020 thành hợp
đồng mới số 644/CC ngày 08/2/2021 với số tiền vay 3.000.000.000đ hủy
bỏ hợp đồng số 243/CC ngày 28/12/2020 là 2.000.000.000đ.
Số tiền vay của 02 hợp đồng tồn tại đến ngày 08/2/2021 là 5.500.000.000đ
được công chứng gồm hợp đồng số 244/CC ngày 28/12/2020 2.500.000.000đ
và hợp đồng số 644/CC ngày 08/02/2021 là 3.000.000.000đ.
Ngày 11/6/2021, T1 vay thêm 1.200.000.000đ và lập biên nhận vay.
Tổng số tiền T1 vay 6.700.000.00đ. Quá trình vay T1 trả lãi vay qua
chuyển khoản 250.000.000đ. Cụ thể ngày 08/11/2021 trả 100.000.000đ; ngày
15/11/2021 trả 100.000.000đ; ngày 22/11/2021 trả 50.000.000đ nhưng sau đó
không tiếp tục trả vốn và lãi.
Do đó, nguyên đơn khởi kiện yêu cầu T1 trả vốn vay 6.700.000.000đ
lãi suất 20%/năm, tính từ ngày vay cho đến khi xét xử, khấu trừ số tiền lãi đã
trả 250.000.000đ. Đồng thời, T đơn yêu cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp
tạm thời. Tuy nhiên, tài sản T1 đang bị phong toả theo Quyết định số
06/2024/QĐ-BPKCTT ngày 05/8/2024 trong hồ vụ án thụ số 557/TLST-
DS-ST ngày 01/8/2024, nên 01 tài sản không áp dụng 2 lần.
Bị đơn bà Nguyễn Thị Lệ T1 do ông Tạ Hùng C1 là người đại diện theo uỷ
quyền trình bày: Đối với các hợp đồng T1 chỉ thừa nhận vay thực nhận
970.000.000đ, trả lãi 454.000.000đ. Do đó, không chấp nhận yêu cầu khởi kiện
của nguyên đơn. Đồng thời, bà T1 đơn phản tố, yêu cầu Tòa án tuyênhiệu
hủy bỏ các hợp đồng biên nhận vay tiền; chấp nhận trả số tiền vốn vay
970.000.000đ và đề nghị khấu trừ số tiền lãi đã đóng vào tiền vốn gốc.
Tại Bản án dân sự sơ thẩm số: 72/2024/DS-ST ngày 09/9/2024 của Tòa án
nhân dân thành phố Châu Đốc, tỉnh An Giang quyết định:
- Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông, Phan Trọng C, Nguyễn Thị
Thanh T.
- Buộc Nguyễn Thị Lệ T1 trách nhiệm trả cho ông, Phan Trọng
C, Nguyễn Thị Thanh T: 11.016.200.000đ. Cụ thể: vốn 6.700.000.000đ; lãi
4.316.200.000đ.
3
- Không chấp nhận yêu cầu phản tố của bà Nguyễn Thị Lệ T1 về việc yêu
cầu hủy bỏ các hợp đồng công chứng giữa bà T1 với bà T.
Kể từ ngày đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án (đối
với các khoản tiền phải trả cho người được thi hành án) cho đến khi thi hành án
xong, bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi
hành án theo mức lãi suất quy định tại Điều 468 Bộ luật Dân sự năm 2015.
Ngoài ra, bản án còn tuyên về án phí và quyền kháng cáo của đương sự.
Sau khi xét xử sơ thẩm, bị đơn bà Nguyễn Thị Lệ T1 đơn kháng cáo đề
ngày 17 tháng 9 năm 2024 kháng cáo đối với toàn bộ bản án dân sự thẩm số:
72/2024/DS-ST ngày 09/9/2024 của Tòa án nhân dân thành phố Châu Đốc, tỉnh
An Giang.
Tại phiên tòa phúc thẩm:
Người kháng cáo do ông Tạ Hùng C1 đại diện theo uquyền trình bày:
Giữ nguyên yêu cầu kháng cáo, chỉ thừa nhận bà T1 vay 970.000.000đ đã trả
lãi 454.000.000đ; việc hợp đồng vay không công chứng, không ông C
tham gia. Hợp đồng 2.500.000.000đ không đưa tiền, hợp đồng
3.000.000.000đ gộp lãi vào gốc. Đến tháng 5/2021 không trả lãi thì
không có lý do gì bà T lại tiếp tục cho vay, việc ghi biên nhận 1.200.000.000đ
để xác định tất cả các khoản vay, chính T2 đã ghi chữ “thêm” trong biên bản
này là để dẫn đến việc cho rằng vay là vay thêm. Đề nghị Toà án đưa Văn phòng
công chứng vào tham gia tố tụng và yêu cầu cung cấp toàn bộ hồ sơ công chứng,
giám định tất cả các tài liệu trong hồ công chứng giám định đối với 02
file ghi âm của nguyên đơn cung cấp.
Nguyên đơn do ông Nguyễn Minh H người đại diện theo uỷ quyền trình
bày: Giữ nguyên yêu cầu khởi kiện, không chấp nhận yêu cầu kháng cáo của bị
đơn. Thừa nhận ngoài hợp đồng 2.500.000.000đ khi công chứng ông C,
còn lại các hợp đồng khác không ông C tham gia; thừa nhận file ghi âm cung
cấp cho toà là file được cắt phần nội dung thừa nhận của bà T1 từ file khác; thừa
nhận đối với biên nhận 1.200.000.000đ thì T người ghi ch“thêm” vào
biên nhận để nghĩa hơn đối với việc vay. Đề nghị Toà án cho giám định các
nội dung theo yêu cầu của bị đơn hoặc y án sơ thẩm.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh An Giang phát biểu ý kiến:
- Về tuân theo pháp luật tố tụng: Thẩm phán, Hội đồng xét xử Thư
phiên tòa thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn theo đúng quy định của Bộ luật Tố
tụng dân sự. Những người tham gia tố tụng đã thực hiện đúng, đầy đủ quyền và
nghĩa vụ tố tụng theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự.
- Về giải quyết vụ án: Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 3 Điều 308
của Bộ luật Tố tụng dân sự, huỷ bản án sơ thẩm số 72/2024/DS-ST ngày
09/9/2024 của Tòa án nhân dân thành phố Châu Đốc, tỉnh An Giang, giao hồ
về cho Toà án cấp thẩm giải quyết lại theo thủ tục chung vì: cấp thẩm
không đưa Văn phòng công chứng Duy T3 vào tham gia tố tụng bỏ sót
4
người tham gia tố tụng; Toà án cấp thẩm sử dụng các chứng cứ bản photo
không đúng với quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự; cấp thẩm chưa thu
thập toàn bộ hồ sơ công chứng các hợp đồng vay tài sản mà xét xử là chưa đủ
sở; việc quyết định đối với việc trả lãi chưa phù hợp với Nghị quyết 01/2019 của
Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao; Toà án chấp nhận bị đơn đã trả
số tiền lãi 204.000.000đ nguyên đơn không thừa nhận nhưng không tính án
phí đối với phần này đối với nguyên đơn là chưa đúng quy định của pháp luật.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
[1] Về hình thức đơn kháng cáo: Nguyễn Thị Lệ T1 kháng cáo hợp lệ
theo quy định pháp luật. Do đó, cấp phúc thẩm giải quyết ván theo quy định
tại Điều 293 của Bộ luật Tố tụng dân sự.
[2] Về nội dung kháng cáo:
[2.1] Quá trình giải quyết vụ án cấp thẩm, bị đơn đều không thừa
nhận các hợp đồng vay tài sản được công chứng tại Văn phòng C2, không thừa
nhận có ông C tham gia các giao dịch vay tài sản. Và tại phiên toà phúc thẩm đại
diện nguyên đơn thừa nhận chỉ hợp đồng vay 2.500.000.000đ ông C
tham gia, còn các hợp đồng khác thì ông C không tham gia. Mặt khác, các
nội dung hợp đồng công chứng những điểm không chính xác về thời gian;
bị đơn có yêu cầu tuyên bố vô hiệu các hợp đồng vay có công chứng này, Toà án
cấp thẩm đã thụ nhưng không đưa Văn phòng công chứng Duy T3,
công chứng viên Duy T3 vào tham gia tố tụng bỏ sót người tham gia tố
tụng.
[2.2] Cấp thẩm chỉ lấy lời khai của ng chứng viên với cách
người làm chứng nhưng không cho tiến hành đối chất với các đương sự; không
thu thập các tài liệu bản chính toàn bộ hồ công chứng các hợp đồng
nguyên đơn xuất trình; không thu thập file ghi âm bản gốc; đồng thời chưa xem
xét đánh giá các chứng cứ để xác định xem giữa nguyên đơn bị đơn xác
lập các hợp đồng vay có công chứng hay không?; đánh giá xác định giữa nguyên
đơn bị đơn giao kết các hợp đồng vay tiền hay không?; đánh giá việc thực
hiện các hợp đồng vay như thế nào?; từ đó đánh giá nghĩa vụ phải thực hiện
của bị đơn đối với nguyên đơn đối với từng hợp đồng vay. Việc Toà án cấp
thẩm buộc bị đơn phải thực hiện việc trả toàn bộ vốn gốc và lãi là chưa đủ cơ sở,
chưa phù hợp với các quy định tại Chương VII về chứng cứ chứng minh của
Bộ luật Tố tụng dân sự.
Do cấp sơ thẩm có vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng nên Hội đồng xét
xử cấp phúc thẩm chấp nhận yêu cầu kháng cáo của bị đơn đề nghị của Kiểm
sát viên tại phiên toà, huỷ bản án sơ thẩm, giao hồ sơ về Toà án cấp sơ thẩm giải
quyết lại theo trình tự thủ tục sơ thẩm.
[3] Về án phí dân sự thẩm, án phí dân sự phúc thẩm các chi phí tố
tụng khác: Do bản án thẩm bị hủy nên Nguyễn Thị Lệ T1 không phải chịu
án phí dân sự phúc thẩm theo quy định của pháp luật; đối với án phí dân sự
5
thẩm và các chi phí tố tụng khác sẽ được giải quyết lại khi vụ án được giải quyết
lại theo trình tự xét xử sơ thẩm.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ vào khoản 3 Điều 148, khoản 3 Điều 308, Điều 310 của Bộ luật Tố
tụng dân sự; khoản 3 Điều 29 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày
30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm,
thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.
Xử:
1. Chấp nhận kháng cáo của bị đơn bà Nguyễn Thị Lệ T1.
2. Huỷ Bản án dân sự thẩm số: 72/2024/DS-ST ngày 09/9/2024 của
Toà án nhân dân thành phố Châu Đốc, tỉnh An Giang. Giao hồ về Toà án
nhân dân thành phố Châu Đốc giải quyết lại theo trình tự xét xử thẩm theo
quy định của pháp luật.
3. Về án phí dân sự phúc thẩm: Nguyễn Thị Lệ T1 không phải chịu án
phí dân sự phúc thẩm.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Nơi nhận:
- TAND cấp cao tại TP HCM;
- VKSND tỉnh An Giang;
- Phòng KTNV và THA tỉnh;
- TAND thành phố Châu Đốc;
- Chi cục THADS thành phố Châu Đốc;
- Tòa Dân sự;
- Đương sự (để thi hành);
- Lưu: VT, hồ sơ vụ án.
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM
THẨM PHÁN - CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
Trần Hoàng Vũ
Tải về
Bản án số 34/2025/DS-PT Bản án số 34/2025/DS-PT

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án số 34/2025/DS-PT Bản án số 34/2025/DS-PT

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án/ Quyết định cùng đối tượng

Bản án cùng lĩnh vực

Bản án mới nhất