Bản án số 98/2024/KDTM-PT ngày 16/12/2024 của TAND cấp cao tại TP.HCM về tranh chấp về mua bán hàng hóa
- Thuộc tính
- Nội dung
- VB gốc
- VB liên quan
- Lược đồ
- Đính chính
- Án lệ
- BA/QĐ cùng nội dung
- Tải về
Tải văn bản
-
Bản án số 98/2024/KDTM-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
-
Bản án số 98/2024/KDTM-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Báo lỗi
Thuộc tính Bản án 98/2024/KDTM-PT
Tên Bản án: | Bản án số 98/2024/KDTM-PT ngày 16/12/2024 của TAND cấp cao tại TP.HCM về tranh chấp về mua bán hàng hóa |
---|---|
Quan hệ pháp luật: | Tranh chấp về mua bán hàng hóa |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Tòa án xét xử: | TAND cấp cao tại TP.HCM |
Số hiệu: | 98/2024/KDTM-PT |
Loại văn bản: | Bản án |
Ngày ban hành: | 16/12/2024 |
Lĩnh vực: | Kinh doanh thương mại |
Áp dụng án lệ: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Đính chính: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Thông tin về vụ/việc: | sửa bản án sơ thẩm |
Tóm tắt Bản án
Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!
Tải văn bản
TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO
TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
Bản án số: 98/2024/KDTM-PT
Ngày: 16 - 12 - 2024
V/v “Tranh chấp hợp đồng mua bán
hàng hóa.”
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập – Tự do – Hạnh phúc
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
- Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:
Thẩm phán – Chủ tọa phiên tòa: Bà Phạm Thị Duyên
Các Thẩm phán: Ông Hoàng Minh Thịnh
Ông Vũ Đức Toàn
- Thư ký phiên tòa: Bà Nguyễn Thị Thúy - Thư ký Tòa án nhân dân cấp
cao tại Thành phố Hồ Chí Minh.
- Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh
tham gia phiên tòa: Bà Cao Thị Hạnh - Kiểm sát viên.
Trong các ngày 09/12/2024 và 16/12/2024, tại trụ sở Tòa án nhân dân cấp
cao tại Thành phố Hồ Chí Minh, xét xử phúc thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý
số: 41/2024/TLPT-KDTM ngày 22 tháng 5 năm 2024 về việc “Tranh chấp hợp
đồng mua bán hàng hóa”.
Do Bản án kinh doanh thương mại sơ thẩm số: 01/2024/KDTM-ST ngày
01 tháng 02 năm 2024 của Tòa án nhân dân tỉnh Đồng Nai bị kháng cáo.
Theo quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số: 3045/2024/QĐ-PT
ngày 11 tháng 10 năm 2024, giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Công ty Trách nhiệm hữu hạn C.
Người đại diện theo pháp luật: Ông Nam Ki D, sinh năm 1974. Chức vụ:
Tổng giám đốc.
Người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn gồm:
1/Ông Nguyễn Thái S, sinh năm 1975 (có mặt);
2/Ông Bùi Minh T, sinh năm 1995 (có mặt);
3/Ông Huỳnh Minh S1, sinh năm 1983 (vắng mặt);
4/Bà Phạm Thị Thanh T1, sinh năm 1986 (có mặt).
Cùng địa chỉ liên lạc: Quốc lộ A, xã M, huyện B, tỉnh Long An. (Theo
văn bản ủy quyền ngày 20/11/2023)
- Bị đơn: Bà Ngô Thị Ngọc B, sinh năm 1939 (xin xét xử vắng mặt).
2
Địa chỉ: Nhà số 1C, tổ 26A, khu P, thị trấn L, huyện L, tỉnh Đồng Nai.
HKTT: Số 27, phố H, phường H, quận H, Thành phố Hà Nội.
Địa chỉ sinh sống: Tòa A P1106 Chung cư E, phường X, quận T, Thành
phố Hà Nội.
Người đại diện theo ủy quyền của bà B: Ông Lê Dương H (có mặt).
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Ông Lê Dương H1, sinh năm
1964 (có mặt).
Địa chỉ: Nhà số A, tổ B, khu phố P, thị trấn L, huyện L, tỉnh Đồng Nai.
- Người kháng cáo: Bị đơn bà Ngô Thị Ngọc B và người có quyền lợi,
nghĩa vụ liên quan ông Lê Dương H1.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Đại diện theo ủy quyền của Nguyên đơn Công ty Trách nhiệm hữu hạn C
thống nhất trình bày:
Ngày 11/01/2016 Công ty Trách nhiệm hữu hạn C và bà Ngô Thị Ngọc B
có tiếp tục ký Hợp đồng mua bán thức ăn gia súc số: 0111/2015/HĐKT/CJV-
MB, theo đó Công ty Trách nhiệm hữu hạn C cung cấp thức ăn gia súc cho bà
Ngô Thị Ngọc B, phương thức thanh toán tiền mặt hoặc Công ty sẽ cấp công nợ
cho bà B trong trường hợp bà B cung cấp chứng thư bảo lãnh thanh toán ngân
hàng. Trong quá trình thực hiện hợp đồng nêu trên bà B còn nợ Công ty số tiền
3.329.247.562 đồng của hợp đồng cũ và hợp đồng năm 2016 nêu trên), số nợ
này đã được bà B và Công ty xác nhận bằng Bảng chi tiết công nợ ngày
20/6/2016. Công ty đã nhiều lần yêu cầu bà B thanh toán hoặc cấn trừ nợ của
Công ty Trách nhiệm hữu hạn T2 (là công ty con 1005 vốn của Công ty Trách
nhiệm hữu hạn C và có nợ bà B số tiền 3.329.247.562 đồng) nhưng bà B không
thanh cũng như không đồng ý cấn trừ công nợ ba bên.
Ngày 16/6/2016 bà B đã khởi kiện Công ty Trách nhiệm hữu hạn T2 để
đòi khoản nợ đã được Tòa án cấp cao tại thành phố Hồ Chí Minh ra Quyết định
số 48/2018/KDTM-GĐT buộc Công ty Trách nhiệm hữu hạn T2 phải thanh toán
cho bà B số tiền 3.329.247.562 đồng và tách yêu cầu thanh toán của Công ty
Trách nhiệm hữu hạn C khởi kiện bằng vụ án khác. Do đó, Công ty Trách nhiệm
hữu hạn C khởi kiện bà B ra Tòa án yêu cầu Tòa án giải quyết buộc phía bị đơn
bà Ngô Thị Ngọc B thanh toán các khoản như sau:
1/Nợ gốc 3.329.247.562 đồng (Ba tỷ, ba trăm hai mươi chín triệu, hai
trăm bốn mươi bảy nghìn, năm trăm sáu mươi hai đồng).
2/Lãi suất chậm thanh toán: 3.329.247.562 x 0,6%/tháng x 30 (tháng)=
599.264.561 VNĐ (Năm trăm chín mươi chín triệu, hai trăm sáu mươi bốn
nghìn, năm trăm sáu mươi mốt đồng).
3/Phạt vi phạm hợp đồng (theo Điều 2 hợp đồng): 3.329.247.562 x 8%=
266.339.805 đồng (Hai trăm sáu mươi sáu triệu, ba trăm ba mươi chín nghìn,
tám trăm lẻ năm đồng).
3
Tổng cộng số tiền phải thanh toán là: 4.194.851.928 đồng (Bốn tỷ, một
trăm chín mươi chín triệu, tám trăm năm mươi mốt nghìn, chín trăm hai mươi
tám đồng).
Nguyên đơn có ý kiến bổ sung: Ngày 20/12/2023 Công ty Trách nhiệm
hữu hạn C có bản tự khai bổ sung yêu cầu khởi kiện về tiền lãi chậm thanh toán
tính đến ngày 20/12/2023 với số tiền là: 1.895.747.915 đồng (Một tỷ, tám trăm
chín mươi lăm triệu, bảy trăm bốn mươi bảy nghìn, chín trăm mười lăm đồng).
Đồng thời Công ty Trách nhiệm hữu hạn C đề nghị Toà án xem xét tính lãi chậm
thanh toán đến ngày xét xử theo quy định tại Điều 306 Luật Thương mại.
Tại phiên tòa xét xử ngày 01/02/2024 các đại diện của nguyên đơn xác
định lại các yêu cầu khởi kiện cụ thể như sau:
1/Nợ gốc 3.202.581.875 đồng (Ba tỷ, hai trăm linh hai triệu, năm trăm
tám mươi mốt nghìn, tám trăm bảy mươi lăm đồng) (số tiền nợ bà B đã ký xác
nhận bằng Bảng chi tiết công nợ ngày 20/6/2016)
2/Lãi chậm thanh toán theo lãi suất trung bình ba ngân hàng trên thị
trường tại thời điểm xét xử từ ngày 21/6/2016 đến ngày 01/02/2024 là:
3.202.581.875 đồng x 0,833%/tháng x 91 (tháng) = 2.427.653.138 đồng (Hai tỷ,
bốn trăm hai mươi bảy triệu, sáu trăm năm mươi ba nghìn, một trăm ba mươi
tám đồng).
3/Phạt vi phạm hợp đồng đối với nợ phát sinh từ hợp đồng số
0111/2015/HĐKT/CJV ngày 11/01/2016 (theo Điều 2 hợp đồng) là
1.390.780.000 x 8%= 111.262.400 đồng (Một trăm mười một triệu, hai trăm sáu
mươi hai nghìn, bốn trăm đồng).
Tổng cộng số tiền phải thanh toán là: 5.741.497.413 đồng (Năm tỷ, bảy
trăm chín mươi bảy triệu, bốn trăm mười ba nghìn, bốn trăm mười ba đồng).
Rút một phần yêu cầu khởi kiện đối vối số tiền nợ gốc 126.665.687 đồng
và rút một phần lãi phạt. Do đó, Tòa án cấp sơ thẩm đã đình chỉ xét xử đối với
phần yêu cầu khởi kiện mà nguyên đơn đã rút.
Do ông H1 xác nhận chữ ký, chữ viết của bà B trong hợp đồng và các văn
bản ký với Công ty Trách nhiệm hữu hạn C là của bà B ký và viết tên trong giấy
xác nhận công nợ nên Công ty không yêu cầu Tòa giám định chữ viết, chữ ký
của bà B trong Bảng chi tiết công nợ ngày 20/6/2016.
*Trong suốt quá trình Tòa án thụ lý vụ kiện bà B không lên làm việc,
không có lời khai và cung cấp chứng cứ. Ngày 16/12/2022 bà Ngô Thị Ngọc B
đến Tòa án làm việc nhưng bà B trình bày bà không làm ăn hay ký hợp đồng với
bất kỳ ai, thời điểm năm 2016 bà đang sinh sống ở Hà Nội đến thời điểm dịch
Covid-19 bà mới vào sinh sống ở huyện L, tỉnh Đồng Nai. Đối với yêu cầu khởi
kiện của Công ty Trách nhiệm hữu hạn C bà không đồng ý, bà xác định không
có vụ kiện nào khác.
Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan ông Lê Dương H1: Tại Bản tự
khai ngày 07/5/2019, ông H1 trình bày ông là con ruột của bà B, không xác định
4
được địa chỉ sinh sống chính xác của bà B, về hợp đồng bà B với của Công ty
Trách nhiệm hữu hạn C thì ông không biết. Ông chỉ biết trước đây khoảng các
năm 2014, 2015, 2016 bà B có trại chăn nuôi gà công nghiệp, có bán gà thịt cho
Công ty T2 nhưng sau đó Công ty T2 mua gà của bà B mà không trả tiền, bà B
khởi kiện ra Tòa án nhân dân tỉnh Bình Dương, đã giải quyết nhưng đến nay
Công ty T2 vẫn không trả, theo biên bản công nợ Công ty cung cấp cho Tòa án
thì việc xác nhân công nợ do phía Công ty yêu cầu tôi ký xác nhận thay cho bà
B vì nể nang nên ông đã ghi và ký xác nhận công nợ chứ không phải bà B ghi và
ký xác nhận công nợ. Ông xác định không liên quan, không biết, không có
quyền lợi gì tới hợp đồng giữa bà B với Công ty. Nay Công ty khởi kiện bà B ra
Tòa án, ông đề nghị Tòa án giải quyết theo quy định pháp luật, ông không có ý
kiến gì.
Tại Bản án kinh doanh thương mại sơ thẩm số 01/2024/KDTM-ST ngày
01 tháng 02 năm 2024 Tòa án nhân dân tỉnh Đồng Nai quyết định:
1/Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của Công ty Trách nhiệm hữu
hạn C.
Buộc bà Ngô Thị Ngọc B phải thanh toán cho Công ty Trách nhiệm hữu
hạn C các khoản sau:
- Nợ gốc 3.202.581.875 đồng (Ba tỷ, hai trăm linh hai triệu, năm trăm tám
mươi mốt nghìn, tám trăm bảy mươi lăm đồng).
- Lãi chậm thanh toán theo lãi suất trung bình ba ngân hàng trên thị
trường tại thời điểm xét xử, từ ngày 21/6/2016 đến ngày 01/02/2024 là:
3.202.581.875 đồng x 0,833%/tháng x 91 (tháng)= 2.427.653.138 đồng (Hai tỷ,
bốn trăm hai mươi bảy triệu, sáu trăm năm mươi ba nghìn, một trăm ba mươi
tám đồng).
- Phạt vi phạm hợp đồng đối với nợ phát sinh từ hợp đồng số
0111/2015/HĐKT/CJV ngày 11/01/2016 (theo Điều 2 hợp đồng) là
1.390.780.000 X 8%= 111.262.400 đồng (Một trăm mười một triệu, hai trăm sáu
mươi hai nghìn, bốn trăm đồng).
Tổng cộng số tiền phải thanh toán là: 5.741.497.413 đồng (Năm tỷ, bảy
trăm chín mươi bảy triệu, bốn trăm mười ba nghìn, bốn trăm mười ba đồng).
2/Đình chỉ xét xử đối với phần yêu cầu của Công ty Trách nhiệm hữu hạn
C đã rút tại phiên tòa.
3/Tiếp tục duy trì biện pháp khẩn cấp tạm thời tại Quyết định số
13/2023/QĐ-BPKCTT ngày 17/7/2023 của Tòa án nhân dân tỉnh Đồng Nai về
áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời Phong tỏa tài sản số tiền là: 5.185.636.003
(Năm tỷ một trăm tám mươi lăm triệu sáu trăm ba mươi sáu nghìn không trăm
linh ba đồng) của bà Ngô Thị Ngọc B, sinh năm 1939, địa chỉ: Tổ B, khu P, thị
trấn L, huyện L, tỉnh Đồng Nai, để đảm bảo quyền và lợi ích của các đương sự
cũng như đảm bảo thi hành án.
5
Ngoài ra, bản án còn quy định về án phí, chi phí tố tụng, việc thi hành án
và quyền kháng cáo theo luật định.
Sau khi xét xử sơ thẩm, ngày 27/02/2024, bị đơn bà Ngô Thị Ngọc B và
người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông Lê Dương H1 kháng cáo bản án sơ
thẩm.
Tại phiên tòa phúc thẩm, bị đơn bà Ngô Thị Ngọc B (có ông Lê Dương H
là đại diện theo ủy quyền) và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông Lê
Dương H1 vẫn giữ nguyên yêu cầu kháng cáo, đề nghị Hội đồng xét xử xem xét
lại Bản án sơ thẩm về nội dung các khoản nợ gốc và lãi theo Bảng chi tiết công
nợ ngày 20/6/2016 mà nguyên đơn nêu ra. Nguyên đơn Công ty Trách nhiệm
hữu hạn C (có ông Nguyễn Thái S, ông Bùi Minh T và bà Phạm Thị Thanh T1 là
đại diện theo ủy quyền) vẫn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện, đề nghị Hội đồng xét
xử giữ nguyên bản án sơ thẩm.
Trong phần tranh luận:
Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan trình bày:
Theo bà B xác nhận thì không có nợ. Các số liệu ghi trong Bảng chi tiết công nợ
ngày 20/6/2016 thì không có chứng từ thể hiện bà B có ký nhận hàng. Nguyên
đơn đã yêu cầu bị đơn lập chứng thư bảo lãnh thanh toán tại Ngân hàng Thương
mại cổ phần N – Chi nhánh B1 với số tiền bảo lãnh là 02 tỷ đồng nên không có
việc bà B còn nợ nguyên đơn số tiền hơn 03 tỷ đồng. Mặt khác, Bản án sơ thẩm
chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn về việc tính lãi là không đúng vì
trong Bảng chi tiết công nợ không có thể hiện thời hạn trả nợ. Từ những phân
tích trên, đề nghị Hội đồng xét xử xem xét lại bản án sơ thẩm và việc phong toả
số tiền mà bà B được thi hành án tại Ngân hàng.
Người đại diện theo ủy quyền của bị đơn trình bày: Ông đồng ý với ý kiến của
ông H1, mẹ ông khẳng định không có nợ vì trước đây Công ty và bà B có hợp
tác, các khoản nợ đã được thanh toán khi hết lứa gà sau đó các bên cũng không
có nhận được xác nhận nợ hoặc công ty cũng không có đòi nợ.
Người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn trình bày: Trong đơn kháng
cáo của ông H1, ông H1 kháng cáo với tư cách người có quyền lợi, nghĩa vụ liên
quan và kháng cáo toàn bộ bản án sơ thẩm, nhưng ông H1 không có quyền
kháng cáo phần nội dung không có liên quan đến ông H1. Sau khi Tòa án cấp sơ
thẩm xét xử thì 02 tháng sau ông H1 mới làm đơn kháng cáo, nên đề nghị xem
xét việc kháng cáo của ông H1 có đúng thời hạn theo quy định pháp luật.
Trong Biên bản xác nhận công nợ đã xác nhận số nợ gốc và liệt kê các
hoá đơn chứng từ. Giao dịch giữa 02 bên trong mấy lứa gà trước đó thì bà B có
cấn trừ công nợ, sau này bà B không đồng ý ký tên. Đối với việc mua bán cám
thì bản án phúc thẩm trước có ghi nếu có tranh chấp sẽ giải quyết vụ án khác.
Khi ký Bảng chi tiết công nợ thì đã có bảng liệt kệ hoá đơn chứng từ kèm theo,
thời điểm đó ông H1 và bà B cũng có năng lực hành vi dân sự đầy đủ. Yêu cầu
của nguyên đơn về phần lãi phát sinh đối với công nợ là đúng quy định pháp
luật.
6
Chứng thư bảo lãnh tại Ngân hàng chỉ là để chứng minh khả năng tài
chính của bà B và đã hết hạn năm 2016. Do chứng thư bảo lãnh đã hết hạn ngân
hàng cũng đã trả lại cho bà B nên Công ty không thể cấn trừ nợ. Bản án sơ thẩm
đã xét xử là có căn cứ, đúng quy định pháp luật có dẫn chứng pháp luật cụ thể.
Đề nghị Hội đồng xét xử không chấp nhận đơn kháng cáo của ông H1 và bà B,
giữ nguyên bản án sơ thẩm. Ngoài ra, nguyên đơn yêu cầu xem xét giải tỏa phần
tiền của nguyên đơn đang bị phong tỏa.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh
tham gia phiên tòa phát biểu quan điểm giải quyết vụ án:
- Về tố tụng: Tòa án cấp phúc thẩm đã thực hiện đầy đủ thủ tục theo quy
định của Bộ luật tố tụng dân sự.
- Về nội dung: Bản án sơ thẩm đã xét xử là có căn cứ, đúng quy định pháp
luật. Bà B và ông H1 kháng cáo nhưng không cung cấp tài liệu, chứng cứ mới
làm thay đổi bản chất vụ việc do vậy đề nghị Hội đồng xét xử không chấp nhận
kháng cáo của bà B và ông H1, giữ nguyên bản án sơ thẩm.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án được xem
xét tại phiên tòa, căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử
nhận định:
[1] Ngày 15/7/2019 Tòa án nhân dân tỉnh Đồng Nai thụ lý vụ án “Tranh
chấp hợp đồng mua bán hàng hóa” giữa nguyên đơn Công ty Trách nhiệm hữu
hạn C (Công ty C) với bị đơn bà Ngô Thị Ngọc B. Theo đơn khởi kiện và nội
dung trình bày trong quá trình giải quyết vụ án, Công ty C yêu cầu bà B phải
thanh toán các khoản sau:
- Nợ gốc 3.329.247.562 đồng;
- Lãi suất chậm thanh toán: 3.329.247.562 x 0,6%/tháng x 30 (tháng)=
599.264.561 đồng;
- Phạt vi phạm hợp đồng (theo Điều 2 hợp đồng): 3.329.247.562 X 8%=
266.339.805 đồng.
Tổng cộng số tiền phải thanh toán là: 4.194.851.928 đồng.
Chứng cứ chứng minh cho yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn gồm:
- Hợp đồng mua bán thức ăn gia súc số 0111/2015/HĐKT/CJV-MB ngày
11/01/2016;
- Bảng chi tiết công nợ ngày 20/6/2016 (có chữ ký xác nhận của bà B và
nội dung là do ông H1 (con bà B) viết trước khi bà B ký) với nội dung: “Theo số
công nợ trại theo dõi sau khi trừ 1000 đ/kg theo thỏa thuận cho hợp đồng các lô
gà con nhập từ tháng 1/2016 thì công nợ của trại Ngọc B chỉ còn nợ công ty là
3.202.581.875 đồng”;
- Một số các bản án đã xét xử tranh chấp giữa bà B là nguyên đơn đòi nợ
Công ty Trách nhiệm hữu hạn C trước đây.
7
Tại phiên tòa sơ thẩm ngày 01/02/2024 nguyên đơn thay đổi nội dung yêu
cầu khởi kiện buộc bị đơn trả số tiền như sau:
- Nợ gốc 3.202.581.875 đồng;
- Lãi chậm thanh toán theo lãi suất trung bình 03 ngân hàng trên thị
trường tại thời điểm xét xử từ ngày 21/6/2016 là: 3.202.581.875 đồng x
0,833%/tháng x 91 tháng = 2.427.653.138 đồng;
- Phạt vi phạm hợp đồng đối với nợ phát sinh từ hợp đồng
số0111/2015/HĐKT/CJV-MB ngày 11/01/2016: 1.390.780.000 đồng x 8% =
111.262.400 đồng;
Tổng cộng số tiền bị đơn phải thanh toán là 5.741.497.413 đồng.
[2] Bị đơn bà Ngô Thị Ngọc B cho rằng không có ký kết hợp đồng với
Công ty Trách nhiệm hữu hạn C vì thời điểm năm 2016 bà đang sinh sống tại Hà
Nội, nên không đồng ý yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.
[3] Bản án sơ thẩm nhận định:
Hợp đồng mua bán thức ăn gia súc số: 0111/2015/HĐKT/CJV-MB ngày
11/01/2016 giữa Công ty Trách nhiệm hữu hạn C và bà B được công nhận hiệu
lực pháp luật. Trong quá trình thực hiện hợp đồng, bà B nợ Công ty Trách
nhiệm hữu hạn C số tiền (nợ cũ của hợp đồng năm 2015 và nợ của hợp đồng
năm 2016 nêu trên) là: 3.329.247.562 đồng. Ngày 20/6/2016 Công ty Trách
nhiệm hữu hạn C lập “Bảng chi tiết công nợ” xác định bà B còn nợ tiền cám là
3.329.247.562 đồng, nhưng bà B chỉ xác nhận nợ 3.202.581.875 đồng. Tại phiên
tòa ngày 01/02/2024, các đại diện nguyên đơn chỉ yêu cầu Tòa buộc bà B trả số
tiền còn nợ mà bà B đã ký xác nhận là 3.202.581.875 đồng (là thay đổi yêu cầu
khởi kiện theo hướng có lợi cho bà B nên Tòa án cấp sơ thẩm đã chấp nhận việc
thay đổi yêu cầu khởi kiện này).
Tại Điều 2 Hợp đồng mua bán thức ăn gia súc số:
0111/2015/HĐKT/CJV-MB ngày 11/1/2016 giữa Công ty và bà B thỏa thuận về
lãi chậm trả. Do đó, nguyên đơn yêu cầu buộc bị đơn phải thanh toán khoản tiền
lãi do chậm thanh toán với lãi suất 0,833%/tháng đối với phần thanh toán trễ hạn
là có lợi cho bị đơn nên được chấp nhận. Bị đơn phải trả tiền lãi chậm thanh toán
từ ngày 21/6/2016 đến ngày 01/02/2024 là 3.202.581.875 đồng x 0,833%/tháng
x 91 (tháng) = 2.427.653.138 đồng.
Căn cứ Điều 300, Điều 301 Luật Thương mại, bị đơn phải thanh toán cho
nguyên đơn số tiền 1.390.780.000 x 8%= 111.262.400 đồng
Từ những phân tích trên, Tòa án cấp sơ thẩm chấp nhận một phần yêu cầu
khởi kiện của nguyên đơn, buộc bị đơn phải cho nguyên đơn với số tiền tổng
cộng là 5.741.497.413 đồng.
[4] Hội đồng xét xử phúc thẩm nhận định:
- Về tố tụng: Bản án sơ thẩm nhận định: “Theo Thông báo thụ lý yêu cầu số
515/2022/TB-TLVA ngày 23/12/2022 của Tòa án nhân dân huyện Long Thành đã
8
thụ lý yêu cầu yêu cầu tuyên bố một người mất năng lực hành vi dân sự đối với bà
Ngô Thị Ngọc B, sinh năm 1939, địa chỉ số A, tổ B, khu P, thị trấn L, huyện L, tỉnh
Đồng Naig Nai của ông Lê Phương H2. Tòa án nhân dân tỉnh Đồng Nai tạm đình
chỉ giải quyết vụ án kinh doanh thương mại lý do cần đợi Tòa án nhân dân huyện
Long Thành giải quyết việc dân sự. Ngày 11/8/2023, Công ty TNHH C làm đơn
kháng cáo quyết định tạm đình chỉ giải quyết vụ án, ngày 15/9/2023 Tòa án nhân
dân tỉnh Đồng Nai ra Thông báo trả lại đơn kháng cáo cho Công ty TNHH C lý do
Công ty TNHH C không nộp tạm ứng án phí phúc thẩm. Ngày 20/9/2023 Tòa án
nhân dân tỉnh Đồng Nai nhận được Văn bản số 2116/2023/CV-TA của Tòa án nhân
dân huyện Long Thành cho biết đã đình chỉ việc xét đơn yêu cầu giải quyết việc dân
sự của ông Lê Phương H2 lý do triệu tập hợp lệ hai lần mà vẫn vắng mặt và đã có
hiệu lực pháp luật từ ngày 20/9/2023. Do đó, Tòa án nhân dân tỉnh Đồng Nai tiếp
tục đưa vụ án kinh doanh thương mại tranh chấp giữa Công ty TNHH C với bà Ngô
Thị Ngọc B ra giải quyết theo quy định pháp luật.
Quá trình giải quyết vụ án, người khởi kiện đã ghi đầy đủ và đúng địa chỉ nơi
cư trú của người bị kiện nhưng họ không có nơi cư trú ổn định, thường xuyên thay
đổi nơi cư trú mà không thông báo địa chỉ mới cho cơ quan, người có thẩm quyền
theo quy định của pháp luật về cư trú làm cho người khởi kiện không biết được
nhằm mục đích che giấu địa chỉ, trốn tránh nghĩa vụ đối với người khởi kiện, do đó
căn cứ vào Nghị quyết 04/2017/NQ-HĐTP ngày 05/05/2017 của Hội đồng thẩm
phán Tòa án nhân dân Tối cao và văn bản số 02/TANDTC-PC ngày 02/8/2021 của
Tòa án nhân dân Tối cáo, Tòa án đã tiến hành tất cả các hình thức tống đạt hợp lệ
theo quy định tại Điều 173, 175, 177, 179, 180 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015
cho bị đơn bà Ngô Thị Ngọc B, nhưng bị đơn bà B và người có quyền lợi nghĩa vụ
liên quan ông Lê Dương H1 biết nhưng vẫn vắng mặt không có lý do. Căn cứ Điều
228 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015, Tòa án vẫn tiến hành xét xử vắng mặt bà Ngô
Thị Ngọc B và ông Lê Dương H1”. Xét, nội dung nhận định nêu trên của Bản án sơ
thẩm là đúng quy định pháp luật. Bà B cho rằng Tòa án cấp sơ thẩm đã có vi phạm
tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án là không có cơ sở chấp nhận.
- Về nội dung:
[4.1] Xét yêu cầu kháng cáo về việc cho rằng bà Ngô Thị Ngọc B không
có nợ tiền Công ty Trách nhiệm hữu hạn C với số tiền nợ gốc theo quyết định
của Bản án sơ thẩm:
Để có đủ cơ sở xác định bà B còn nợ tiền thì nguyên đơn phải cung cấp
được chứng từ thể hiện bà B đã nhận hàng và chưa thanh toán đủ tiền hàng. Tại
phiên tòa phúc thẩm, đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn xuất trình một số
chứng từ thể hiện công ty có xuất hàng cho bà B, nhưng những chứng từ này
không do bà B ký nhận nên không được chấp nhận là chứng cứ để chứng minh
việc xuất hàng cho bà B.
Quá trình giải quyết vụ án, ông Lê Dương H1 (con của bà B) xác định
trong Bảng chi tiết công nợ ngày 20/6/2016 thì chữ viết là của ông H1, chữ ký là
do bà B ký sau khi ông H1 viết xác định số nợ là 3.202.581.875 đồng. Do đó,
Tòa án cấp sơ thẩm căn cứ vào Bảng chi tiết công nợ ngày 20/6/2016 (do ông
9
H1 viết, được bà B đồng ý và tự nguyện ký tên) để chấp nhận một phần yêu cầu
khởi kiện của nguyên đơn, buộc bà B phải trả số tiền nợ gốc 3.202.581.875 đồng
là có căn cứ. Mặt khác, từ sau khi chốt số nợ nêu trên phía gia đình bà B không
chứng minh được đã thanh toán khoản tiền nào cho nguyên đơn, nên Hội đồng
xét xử không chấp nhận yêu cầu kháng cáo của bị đơn và người có quyền lợi,
nghĩa vụ liên quan về việc không đồng ý thanh toán khoản nợ 3.202.581.875
đồng cho nguyên đơn.
[4.2] Xét nội dung kháng cáo về việc không đồng ý thanh toán tiền lãi
chậm trả và phạt vi phạm hợp đồng:
Hợp đồng mua bán thức ăn gia súc số: 0111/2015/HĐKT/CJV-MB ngày
11/1/2016 được ký kết trên cơ sở tự nguyện của hai bên và không vi phạm điều
cấm của pháp luật. Quá trình thực hiện hợp đồng, các bên đã không tuân thủ
nhiều nội dung theo các điều khoản trong hợp đồng cụ thể: Công ty C giao hàng
cho bà B nhưng không có ký nhận; Công ty C không có yêu cầu thanh toán các
khoản nợ (nếu có) theo thỏa thuận giá trị hàng hóa đã giao cho bà B, bà B chưa
thanh toán tiền hoặc số nợ vượt quá giá trị theo chứng thư bảo lãnh tại Ngân
hàng trong khi Công ty C đã giao hàng... Vì vậy, Công ty C đã lập Bảng chi tiết
công nợ ngày 20/6/2016 để làm chứng từ thay thế cho bản thanh lý hợp đồng.
Sau khi đối chiếu các khoản nợ từ các hợp đồng khác bà B đã xác định số nợ
gốc bà B còn nợ Công ty C tính đến ngày 20/6/2016.
Xét, trong Bảng chi tiết công nợ ngày 20/6/2016 chỉ có nội dung xác nhận
số tiền nợ, không có thời hạn thanh toán. Do đó, Tòa án cấp sơ thẩm buộc bị đơn
chịu tiền phạt vi phạm hợp đồng và tiền lãi chậm trả tính từ ngày xác nhận nợ
đến ngày xét xử sơ thẩm là không đúng. Hơn nữa, tại đơn khởi kiện, nguyên đơn
chỉ yêu cầu tính lãi chậm trả trong thời gian 30 tháng, nên thời gian chậm trả
phải được xác định theo yêu cầu khởi kiện ban đầu là 30 tháng. Tại phiên tòa sơ
thẩm, Hội đồng xét xử xét xử vắng mặt bị đơn và chấp nhận việc thay đổi yêu
cầu khởi kiện xác định thời gian tính lãi chậm trả 91 tháng là vượt quá yêu cầu
khởi kiện, ảnh hưởng đến quyền lợi ích hợp pháp của bị đơn
Ngoài ra, theo nội dung đơn khởi kiện ban đầu nguyên đơn yêu cầu tính
lãi chậm trả theo lãi suất 0,6%/tháng. Tại phiên tòa sơ thẩm ngày 01/02/2014
(xét xử vắng mặt bị đơn), nguyên đơn thay đổi yêu cầu tính lãi suất chậm trả là
0,833%/tháng. Nội dung thay đổi này của nguyên đơn tại phiên tòa sơ thẩm là
vượt quá phạm vi yêu cầu khởi kiện ban đầu và gây bất lợi cho bị đơn nên
không được chấp nhận theo quy định tại khoản 1 Điều 244 Bộ luật tố tụng dân
sự. Do vậy, Hội đồng xét xử xác định lãi suất chậm trả là 0,6%/tháng (theo yêu
cầu khởi kiện ban đầu).
Từ những phân tích trên, Hội đồng xét xử chấp nhận một phần yêu cầu
kháng cáo của bị đơn và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan về nội dung này,
không chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn về tiền phạt vi phạm hợp đồng, chấp
nhận một phần yêu cầu về việc tính lãi chậm trả như sau: 3.202.581.875 đồng x
0,6%/tháng x 30 tháng = 576.464.737,5 đồng (làm tròn 576.464.738 đồng).
10
Vậy tổng số tiền mà bị đơn có nghĩa vụ phải thanh toán cho nguyên đơn là
3.202.581.875 đồng (gốc) + 576.464.738 đồng (lãi chậm trả) = 3.779.046.613
đồng.
[4.3] Theo nội dung nhận định nêu trên đã xác định số tiền mà bà B có
nghĩa vụ phải thanh toán cho Công ty Trách nhiệm hữu hạn C là 3.779.046.613
đồng, nên chỉ cần tiếp tục duy trì một phần Quyết định áp dụng biện pháp khẩn
cấp tạm thời số 13/2023/QĐ-BPKCTT ngày 17/7/2023 của Tòa án nhân dân tỉnh
Đồng Nai về việc “Phong tỏa tài sản của người có nghĩa vụ” đến khi thi hành
xong bản án đối với số tiền 3.779.046.613 đồng/5.185.636.003 đồng của bà Ngô
Thị Ngọc B do Công ty Trách nhiệm hữu hạn C chi nhánh B2 đã thi hành án
theo Quyết định thi hành án theo đơn yêu cầu số 753/QĐ-CCTHADS ngày
07/4/2023 của Chi cục thi hành án dân sự huyện Bến Lức, tỉnh Long An. Đối
với số tiền còn lại, Hội đồng xét xử hủy bỏ một phần Quyết định áp dụng biện
pháp khẩn cấp tạm thời về việc phong tỏa và bà B được nhận lại số tiền này.
Ngoài ra, do việc yêu cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời của
nguyên đơn là đúng quy định pháp luật, nên không cần thiết phải duy trì Quyết
định buộc thực hiện biện pháp bảo đảm số 12/2023/QĐ-BPBĐ ngày 14/7/2023
của Tòa án nhân dân tỉnh Đồng Nai về việc buộc Công ty Trách nhiệm hữu hạn
C phải nộp số tiền bảo đảm là 5.000.000.000 đồng (Năm tỷ đồng) vào tài khoản
phong tỏa. Hội đồng xét xử hủy Quyết định buộc thực hiện biện pháp bảo đảm
và trả lại cho nguyên đơn số tiền bảo đảm này.
[5] Từ những nhận định trên, Hội đồng xét xử xét xử không chấp nhận
quan điểm của đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí
Minh tham gia phiên tòa; Chấp nhận một phần yêu cầu kháng cáo của bị đơn và
người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan; Sửa một phần bản án sơ thẩm theo nội
dung nhận định trên.
[6] Do tại cấp phúc thẩm, bị đơn có tham gia tố tụng; Nguyên đơn, bị đơn
có cung cấp tài liệu chứng cứ mới nên Hội đồng xét xử sơ thẩm không có không
có lỗi chủ quan khi sửa bản án sơ thẩm.
[7] Án phí kinh doanh thương mại sơ thẩm:
- Công ty Trách nhiệm hữu hạn C phải chịu án phí đối với số tiền yêu cầu
nhưng không được chấp nhận là 1.962.450.800 đồng (5.741.497.413 đồng -
3.779.046.613 đồng) với số tiền 70.873.524 đồng, khấu trừ vào 56.100.000 đồng
tiền tạm ứng án phí đã nộp. Công ty Trách nhiệm hữu hạn C phải nộp thêm
14.773.524 đồng (Mười bốn triệu, bảy trăm bảy mươi ba nghìn, năm trăm hai
mươi bốn đồng).
- Bà Ngô Thị Ngọc B, sinh năm 1939 nên được miễn án phí theo quy định
tại Điều 12 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban
Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử
dụng án phí và lệ phí Tòa án.
[8] Án phí kinh doanh thương mại phúc thẩm: Do sửa bản án sơ thẩm nên
người có kháng cáo không phải chịu.
11
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ khoản 2 Điều 308 Bộ luật tố tụng dân sự,
I nhận một phần yêu cầu kháng cáo của bị đơn bà Ngô Thị Ngọc B và
người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông Lê Dương H1;
Sửa một phần bản án sơ thẩm số 01/2024/KDTM-ST ngày 01/02/2024 của
Tòa án nhân dân tỉnh Đồng Nai.
Áp dụng Điều 50, Điều 306 Luật Thương mại năm 2005; Nghị quyết số
02/2020/NQ-HĐTP ngày 24/9/2020 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân
Tối cao; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban
Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử
dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Tuyên xử:
1/Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của Công ty Trách nhiệm hữu
hạn C.
Buộc bà Ngô Thị Ngọc B phải thanh toán cho Công ty Trách nhiệm hữu
hạn C các khoản sau:
- Nợ gốc 3.202.581.875 đồng;
- Lãi chậm thanh toán (trên số tiền nợ gốc trong thời gian 30 tháng với
mức lãi suất 0,6%/tháng) là 576.464.738 đồng;
Tổng cộng số tiền phải thanh toán là: 3.779.046.613 đồng (Ba tỷ, bảy
trăm bảy mươi chín triệu, không trăm bốn mươi sáu nghìn, sáu trăm mười ba
đồng).
Kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án cho
đến khi thi hành án xong, bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của
số tiền còn phải thi hành án theo khoản 2 Điều 468 Bộ luật Dân sự năm 2015.
2/Đình chỉ xét xử đối với phần yêu cầu của Công ty Trách nhiệm hữu hạn
C đã rút tại phiên tòa sơ thẩm.
3/Tiếp tục duy trì một phần Quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm
thời số 13/2023/QĐ-BPKCTT ngày 17/7/2023 của Tòa án nhân dân tỉnh Đồng
Nai về áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời Phong tỏa tài sản số tiền là:
3.779.046.613 đồng (Ba tỷ, bảy trăm, bảy mươi chín triệu, không trăm bốn mươi
sáu nghìn, sáu trăm mười ba đồng) của bà Ngô Thị Ngọc B, sinh năm 1939, địa
chỉ: Tổ B, khu P, thị trấn L, huyện L, tỉnh Đồng Nai, để đảm bảo quyền và lợi
ích của các đương sự cũng như đảm bảo thi hành án.
Hủy bỏ một phần Quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời số
13/2023/QĐ-BPKCTT ngày 17/7/2023 của Tòa án nhân dân tỉnh Đồng Nai về
áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời Phong tỏa tài sản số tiền là: 1.406.589.390
đồng (Một tỷ, bốn trăm lẻ sáu triệu, năm trăm tám mươi chín nghìn, ba trăm
12
chín mươi đồng) của bà Ngô Thị Ngọc B, sinh năm 1939, địa chỉ: Tổ B, khu P,
thị trấn L, huyện L, tỉnh Đồng Nai.
Bà Ngô Thị Ngọc B liên hệ Chi cục thi hành án dân sự huyện Bến Lức,
tỉnh Long An để nhận lại số tiền 1.406.589.390 đồng (Một tỷ, bốn trăm lẻ sáu
triệu, năm trăm tám mươi chín nghìn, ba trăm chín mươi đồng) do Công ty
Trách nhiệm hữu hạn C chi nhánh B2 thi hành án theo Quyết định thi hành án
theo đơn yêu cầu số 753/QĐ-CCTHADS ngày 07/4/2023 của Chi cục thi hành
án dân sự huyện Bến Lức, tỉnh Long An theo Biên lai thu tiền thi hành án số
0001364 ngày 13/7/2023 của Chi cục thi hành án dân sự huyện Bến Lức, tỉnh
Long An và Chứng từ giao dịch Phiếu hạch toán số CT-Doc No:
120723.0015.000131 ngày 12/7/2023 từ tài khoản số 0631000501339 của Công
ty Trách nhiệm hữu hạn C tại Ngân hàng Thương mại cổ phần N chi nhánh L.
4/Hủy bỏ Quyết định buộc thực hiện biện pháp bảo đảm số 12/2023/QĐ-
BPBĐ ngày 14/7/2023 của Tòa án nhân dân tỉnh Đồng Nai về việc buộc Công ty
trách nhiệm hữu hạn C phải gửi tài sản bảo đảm (tiền, kim khí quý, đá quý hoặc
giấy tờ có giá) có giá trị là 5.000.000.000 đồng (Năm tỷ đồng) vào tài khoản
phong tỏa tại Ngân hàng V chi nhánh Đ – Phòng G; Địa chỉ số G H, phường T,
thành phố B, tỉnh Đồng Nai.
Công ty trách nhiệm hữu hạn C được quyền liên hệ Ngân hàng V chi
nhánh Đ – Phòng G; Địa chỉ số G H, phường T, thành phố B, tỉnh Đồng Nai để
nhận lại số tiền bảo đảm 5.000.000.000 đồng (Năm tỷ đồng) tại tài khoản phong
tỏa để thực hiện Quyết định số 12/2023/QĐ-BPBĐ ngày 14/7/2023 của Tòa án
nhân dân tỉnh Đồng Nai.
5/Án phí kinh doanh thương mại sơ thẩm:
- Công ty trách nhiệm hữu hạn C phải chịu 70.873.524 đồng, khấu trừ vào
56.100.000 đồng tiền tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai thu tạm ứng án phí, lệ
phí số 0001242 ngày 07/3/2019 của Cục thi hành án dân sự tỉnh Đồng Nai. Công
ty TNHH C phải nộp tiếp 14.773.524 đồng (Mười bốn triệu, bảy trăm bảy mươi
ba nghìn, năm trăm hai mươi bốn đồng).
- Bà Ngô Thị Ngọc B được miễn.
II/Án phí kinh doanh thương mại phúc thẩm:
Bà Ngô Thị Ngọc B được miễn.
Ông Lê Dương H1 không phải chịu, hoàn trả 2.000.000 đồng (Hai triệu
đồng) tiền tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai thu số 0000258 ngày 08/4/2024
của Cục thi hành án dân sự tỉnh Đồng Nai.
Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2
Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành
án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện
thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7 và 9
Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại
Điều 30 Luật thi hành án dân sự.
13
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án./.
Nơi nhận:
- Tòa án nhân dân tối cao;
- VKSND cấp cao tại TP.HCM
- TAND tỉnh Đồng Nai;
- VKSND tỉnh Đồng Nai;
- Cục THADS tỉnh Đồng Nai;
- NĐ (1);
- BĐ (1);
-NLQ (1);
- Lưu (5) 13b (Án NThuy).
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM
THẨM PHÁN – CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
Phạm Thị Duyên
Tải về
Bản án số 98/2024/KDTM-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án số 98/2024/KDTM-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án/ Quyết định cùng đối tượng
1
Ban hành: 25/11/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
2
Ban hành: 01/11/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
3
Bản án số 11/2024/KDTM-PT ngày 30/10/2024 của TAND tỉnh Quảng Ninh về tranh chấp về mua bán hàng hóa
Ban hành: 30/10/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
4
Ban hành: 24/10/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
5
Bản án số 08/2024/KDTM-PT ngày 22/10/2024 của TAND tỉnh Bình Phước về tranh chấp về mua bán hàng hóa
Ban hành: 22/10/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
6
Ban hành: 02/10/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
7
Ban hành: 30/09/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
8
Ban hành: 30/09/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
9
Ban hành: 30/09/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
10
Ban hành: 30/09/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
11
Ban hành: 30/09/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
12
Ban hành: 30/09/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
13
Ban hành: 30/09/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
14
Ban hành: 30/09/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
15
Ban hành: 30/09/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
16
Ban hành: 30/09/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
17
Ban hành: 27/09/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
18
Ban hành: 27/09/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
19
Ban hành: 27/09/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm