Bản án số 33/2019/DS-ST ngày 21/08/2019 của TAND huyện Xuyên Mộc, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu về tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất

  • Thuộc tính
  • Nội dung
  • VB gốc
  • VB liên quan
  • Lược đồ
  • Đính chính
  • Án lệ
  • BA/QĐ cùng nội dung
  • Tải về
Tải văn bản
Báo lỗi
  • Gửi liên kết tới Email
  • Chia sẻ:
  • Chế độ xem: Sáng | Tối
  • Thay đổi cỡ chữ:
    17

Thuộc tính Bản án 33/2019/DS-ST

Tên Bản án: Bản án số 33/2019/DS-ST ngày 21/08/2019 của TAND huyện Xuyên Mộc, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu về tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất
Quan hệ pháp luật: Tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất
Cấp xét xử: Sơ thẩm
Tòa án xét xử: TAND huyện Xuyên Mộc (TAND tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu)
Số hiệu: 33/2019/DS-ST
Loại văn bản: Bản án
Ngày ban hành: 21/08/2019
Lĩnh vực: Dân sự
Áp dụng án lệ:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Đính chính:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Thông tin về vụ/việc: chấp nhận một phần yêu cầu của bà O ông H đối với ông C bà N
Tóm tắt Bản án

Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!

Tải văn bản

1
TÒA ÁN NHÂN DÂN CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
HUYỆN XUYÊN MỘC Độc lập – Tự do – Hạnh Phúc
TỈNH BÀ RỊA – NG TÀU
Bản án số: 33/2019/DSST
Ngày : 21/8/2019.
V/v: “Tranh chấp hợp đồng
chuyển nhượng Quyền sử dụng đất ”.
NHÂN DANH
NƢỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN XUYÊN MỘC – TỈNH BÀ RỊA – VŨNG TÀU
Thành phần Hội đồng xét xử sơ thẩm gồm có:
Thẩm phán – chủ tọa phiên tòa: ông Hoàng Ngọc Tuấn.
Các hội thẩm nhân dân:
Bà Trịnh Thị Mai Hương.
Bà Đoàn Thị Mến.
Thư phiên tòa: Nguyễn Thị Lệ Hằng Thư toà án nhân dân huyện
XM, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện XM tham gia phiên tòa: Phạm Thị
Lệ Thuỷ Kiểm sát viên.
Ngày 21 tháng 8 năm 2019 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện XM, xét xử sơ
thẩm vụ án dân sự thẩm thụ số: 60/2009/TLST DS ngày: 25/12/2009, quyết
định tạm đình chỉ số: 22/2015/QĐST-TĐC ngày: 14/01/2015, về việc: Tranh chấp
hợp đồng chuyển nhượng QSD đất ”. Theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số:
30/2019/QĐST-DS ngày: 15/7/2019, quyết định hoãn phiên tsố: 19/2019/QĐST-
DS ngày: 01/8/2019, giữa các đương sự:
Nguyên đơn: Nguyễn Thị O, sinh năm: 1967 ( mặt ) và Nguyễn Thanh H,
sinh năm: 1962 ( Có mặt ).
HKTT: tổ 6, khu phố LS, TT PB, huyện XM, tỉnh Bà
Bị đơn: Bùi Nhu C, sinh năm: 1960 – ( Vắng mặt ) Nguyễn Thị N, sinh năm:
1964 ( Vắng mặt ).
HKTT: tổ 5, ấp 4, xã BR, huyện XM, tỉnh Bà Rịa – ng Tàu.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo biên bản hoà giải tại BR, đơn khởi kiện ngày 16/9/2008, bản khai, biên
bản hoà giải, biên bản ghi nhận ý kiến của đương sự trong quá trình tố tụng tại toà
án tại phiên toà, nguyên đơn ông Nguyễn Thanh H trình bày: Vào ngày
29/8/2001 vợ chồng bà O, ông H có thoả thuận nhận chuyển nhượng của vợ chồng
N, ông C 34.297m
2
đất tại các thửa đất số: 114,117,118,119 tờ bản đồ địa chính số:
10 xã BR. ( Theo số liệu bản đồ số hoá là các thửa số: 224,225,226,227 tờ bản đồ địa
2
chính số: 10 xã BR ). Giá chuyển nhượng là 19.500.000Đ ( Mười chín triệu năm trăm
ngàn ). Phía bà O, ông H đã giao cho phía bà N, ông C 15.000.000Đ ( Mười lăm triệu
), còn lại 4.500.000Đ ( Bốn triệu năm trăm ngàn ). Do thời điểm thothuận việc
chuyển nhượng giấy chứng nhận QSD đất của N, ông C đang thế chấp tại Ngân
hàng nên hẹn sau khi N, ông C lấy giấy chứng nhận QSD đất Ngân hàng về làm
xong hợp đồng chuyển nhượng tại BR tvợ chồng bà O, ông H sẽ trả đủ cho vợ
chồng bà N, ông C. Thời hạn để vợ chồng N, ông C lấy giấy chứng nhận QSD đất
làm thủ tục chuyển nhượng 04 tháng. Việc thoả thuận này hai bên làm giấy
tay với nhau. Phía N, ông C đã giao đất cho phía bà O, ông H sử dụng. Sau đó,
phía O, ông H đã nhiều lần yêu cầu phía N, ông C làm thủ tục chuyển nhượng
cho O, ông H nhưng phía bà N, ông C không thực hiện với do giấy chứng
nhận QSD đất đang thế chấp Ngân hàng. Đến năm 2008 N, ông C chuyển
nhượng đất cho người khác. Khi phát hiện sviệc vợ chồng O, ông H làm đơn
khiếu nại ra UBND BR, UBND BR mời hai bên đến hoà giải. Tại buổi hoà
giải phía bà N, ông C thừa nhận việc đã chuyển nhượng đất cho người khác nên đồng
ý trả lại cho vợ chồng O, ông H 150.000.000Đ ( Một trăm năm mươi triệu ), phía
vợ chồng bà O, ông H không đồng ý. Vì giá chuyển nhượng thực tế cao hơn so với số
tiền mà bà N, ông C đề nghị trả cho vợ chồng bà O, ông H.
Tại Toà án ông H đồng ý huỷ việc chuyển nhượng QSD đất giữa vợ chồng bà O,
ông H với N, ông C yêu cầu N, ông C trả lại giá trị đất cho bà O, ông H
300.000.000Đ ( Ba trăm triệu ).
Tại phiên toà hôm nay ông H trình bày thêm: vào năm 2008 ông C, bà N chuyển
nhượng đất cho bà P giá 400.000.000Đ ( Bốn trăm triệu ) nên vẫn giữ nguyên ý kiến:
huỷ việc chuyển nhượng QSD đất giữa vợ chồng bà O, ông H với bà N, ông C và yêu
cầu bà N, ông C trả lại ¾ giá trị đất cho bà O, ông H 300.000.000Đ ( Ba trăm triệu ).
Nguyễn Thị O đồng ý với lời trình bày và yêu cầu của ông H, không ý
kiến, yêu cầu bổ sung gì thêm.
Theo biên bản hoà giải tại BR, bản tường trình, bản khai, biên bản hoà giải,
biên bản ghi nhận ý kiến của đương sự trong quá trình tố tụng tại toà án, bị đơn ông
Bùi Nhu C, bà Nguyễn Thị N trình bày:
Vào năm 2001 ông C, N thoả thuận chuyển nhượng cho vợ chồng O,
ông H 3,4ha đất rẫy đã trồng điều, giá thoả thuận 19.500.000Đ ( Mười chín triệu
năm trăm ngàn ). Phía vợ chồng O, ông H trả cho ông C, N 15.000.000Đ (
ời lăm triệu ), còn lại 4.500.000Đ ( Bốn triệu năm trăm ngàn ) hai bên thoả thuận
sau 04 tháng sẽ trả làm thủ tục chuyển nhượng. Việc thoả thuận này hai bên
làm giấy tay với nhau. Sau khi nhận 15.000.000Đ ( Mười lăm triệu ) phía ông C,
N giao đất cho vợ chồng O, ông H sử dụng, nhưng trên thực tế vợ chồng O,
ông H không sử dụng bỏ hoang dẫn đến cháy làm ảnh hưởng đến cây điều.
vậy, ông C, N đã nhiều lần mời vợ chồng O, ông H vào nông C, bà N giải
quyết dứt điểm việc mua bán, nhưng vợ chồng O, ông H không vào. Do đó, ông
C, N nói với vợ chồng O, ông H slấy lại đất khi nào bán được đất sẽ
tính toán lại tiền với vợ chồng O, ông H. Vợ chồng O, ông H đồng ý nên từ
năm 2005 đến năm 2008 ông C, N cho ông Hoạt, ông Từ mượn đất để canh tác.
Đến cuối năm 2008 ông C, N lấy lại đất bán cho ông D với giá 200.000.000Đ (
Hai trăm triệu ). Sau khi bán đất xong ông C, bà N có mời vợ chồng bà O, ông H đến
3
để tính toán chia tiền theo tỷ lệ phần trăm. Lúc này, ông H không nhận tiền đòi
đất làm đơn nhờ UBND xã BR giải quyết. UBND BR mời hai bên lên hoà
giải nhưng không hoà giải được.
Tại Toà án ông C, N không đồng ý với yêu cầu của bà O, ông H.
Ông Bùi Nhu C, Nguyễn Thị N đã được Toà án triệu tập nhiều lần nhưng
vẫn vắng mặt.
Tại phiên Toà hôm nay ông C, bà N vẫn vắng mặt dù đã được triệu tập hợp lệ.
Quan điểm của vị đại diện VKS tham gia phiên toà: Việc tuân theo pháp luật
của thẩm phán HĐXX: Thẩm phán HĐXX đã thực hiện đúng quy định của
pháp luật tố tụng trong quá trình thụ lý, giải quyết vụ án. Tuy nhiên, không đưa P
vào tham gia tố tụng với cách người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, thời hạn xét
xử còn kéo dài là chưa đúng với quy định. Việc chấp hành pháp luật của những người
tham gia tố tụng: Nguyên đơn đã thực hiện đầy đquyền nghĩa vụ của mình theo
quy định. Bị đơn không chấp hành trong một số lần triệu tập hoà giải cũng như tại hai
phiên tcủa toà án đã được triệu tập hợp lệ chưa thực hiện đầy đủ quyền
nghĩa vụ của mình theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự.
Về yêu cầu của đương sự: Chưa đủ căn cứ đxác định giá trị chuyển nhượng
QSD đất giữa ông C, N vớiP là bao nhiêu nên chưa có cơ sở để chấp nhận hay
không chấp nhận yêu cầu của ông H, bà O đối với ông C, bà N.
NHẬN ĐỊNH CỦA TOÀ ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu trong hvụ án được thẩm tra tại phiên
toà, căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà. Qua phát biểu ý kiến của Kiểm sát
viên về việc tuân theo pháp luật tố tụng, việc chấp hành pháp luật yêu cầu của
đương sự. Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Về thẩm quyền thủ tục tố tụng: bà Nguyễn Thị O, ông Nguyễn Thanh H
khởi kiện yêu cầu Toà án buộc ông C, bà N trả lại giá trị QSD đất mà ông C, N đã
chuyển nhượng cho vợ chồng O, ông H. Đây tranh chấp về giao dịch dân sự,
hợp đồng dân sự. Theo quy định tại khoản 3 Điều 26, khoản 1 Điều 35 Bộ luật tố
tụng dân sthuộc thẩm quyền giải quyết của Toà án nhân dân huyện XM, tỉnh
Rịa Vũng Tàu. Ông Bùi Nhu C, Nguyễn Thị N đã được triệu tập hợp lệ lần th
hai nhưng vẫn vắng mặt. Áp dụng điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 3 Điều 228 Bộ
luật tố tụng dân sxét xử vắng mặt ông C, N. Đại diện Viện kiểm sát yêu cầu
hoãn phiên toà để triệu tập P tham gia với cách người quyền lợi, nghĩa vụ
liên quan. Xét thấy: Toà án đã tiến hành các biện pháp cần thiết để xác định địa chỉ
của P nhưng không kết quả. Mặt khác, ông H, O không yêu cầu thực hiện
hợp đồng chuyển nhượng QSD đất nữa yêu cầu huỷ việc chuyển nhượng QSD
đất, chỉ yêu cầu ông C, bà N trả lại ¾ giá trị đất theo giá trị chuyển nhượng QSD đất
cho P. vậy, P không quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án này. Do
đó, HĐXX vẫn tiếp tục xét xử vụ án không hoãn phiên toà theo đề nghị của Đại
diện Viện Kiểm sát.
[2] Về nội dung: Tại phiên t hôm nay nguyên đơn cho rằng ông C, N
chuyển nhượng đất cho bà P giá 400.000.000Đ ( Bốn trăm triệu ) nên vẫn giữ nguyên
ý kiến: huỷ việc chuyển nhượng đất giữa vợ chồng O, ông H với N, ông C
4
yêu cầu N, ông C trả lại ¾ giá trị đất cho bà O, ông H 300.000.000Đ ( Ba trăm
triệu ).
Xét yêu cầu của đương sự HĐXX thấy: Việc ông C, N thoả thuận chuyển
nhượng đất cho vợ chồng bà O, ông H thật. Việc này được chính các bên thừa
nhận và cũng được thể hiện tại giấy sang nhượng đất đề ngày 29/8/2001 ( Bút lúc số:
38,40,41,43,86,87,88).
Quá trình thực hiện việc chuyển nhượng mỗi bên trình bày một khác nhau. Phía
O, ông H trình bày nhiều lần yêu cầu ông C, N làm thủ tục chuyển nhượng
nhưng ông C, bà N không làm. Còn ông C, bà N trình bày nhiều lần mời bà O, ông H
đến để giải quyết dứt điểm việc chuyển nhượng nhưng O, ông H không đến đ
giải quyết. Cả hai bên đều không tài liệu, chứng cứ để chứng minh cho lời trình
bày của mình.
Xét lời trình bày của các bên HĐXX thấy: theo giấy sang nhượng đất đề ngày
29/8/2001 thì thời hạn để hoàn thành thủ tục chuyển nhượng 04 tháng ktừ ngày
hai bên làm giấy sang nhượng đất ( Bút lục số: 43 ). Theo lẽ thường đến thời hạn đã
thoả thuận nếu bị đơn không thực hiện nghĩa vụ của mình thì nguyên đơn sẽ tiến
hành các biện pháp phù hợp để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình chứ
không để kéo dài đến 07 năm sau ( năm 2008 ), khi ông C, bà N chuyển nhượng QSD
đất cho người khác mới khiếu nại. Do đó, lời trình bày của bị đơn là đã nhiều lần mời
vợ chồng bà O, ông H vào nhà ông C, bà N giải quyết dứt điểm việc mua bán, nhưng
vợ chồng bà O, ông H không vào. Do đó, ông C, N có nói với vợ chồng bà O, ông
H sẽ lấy lại đất khi nào bán được đất sẽ tính toán lại tiền với vchồng O, ông
H. Vợ chồng O, ông H đồng ý phù hợp với diễn biến khách quan của sự việc.
Như vậy, vợ chồng O, ông H ông C, N đã thoả thuận chấm dứt việc chuyển
nhượng đất giữa hai bên cũng đã thoả thuận việc xử hậu quả của việc chấm dứt
hợp đồng là: số tiền ông C, bà N chuyển nhượng được chia theo tỷ lệ ông C, N
được hưởng ¼, còn vợ chồng O, ông H được hưởng ¾ ( Bút lục số: 04 ). Việc
tranh chấp chỉ số tiền mà phía ông C, N phải trả lại cho vợ chồng O, ông H.
Do đó, HĐXX chỉ xem xét số tiền phía ông C, N phải trả lại cho vợ chồng
O, ông H là bao nhiêu mà không xem xét về hợp đồng chuyển nhượng của hai bên.
Về số tiền chuyển nhượng giữa ông C, N với người khác: ông H, bà O cho
rằng giá chuyển nhượng giữa ông C, N với P 400.000.000Đ ( Bốn trăm triệu
), nhưng không chứng cứ, tài liệu để chứng minh. Còn phía ông C, N trình
bày chuyển nhượng cho ông D giá 200.000.000Đ ( Hai trăm triệu ). Còn lời trình bày
của ông D thì mâu thuẫn nhau, khi thì ông D trình bày giá chuyển nhượng là
200.000.000Đ ( Hai trăm triệu ), sau đó ông D chuyển nhượng lại cho P ( Bút lục
số: 27 ). Khi thì ông D trình bày giá chuyển nhượng 150.000.000Đ ( Một trăm năm
mươi triệu ), nhưng ông C không đưa giấy chứng nhận QSD đất cho ông D nên ông
D cũng chưa đưa tiền cho ông C. Do đó, việc mua bán giữa ông D ông C không
thành ( Bút lục số: 59 ). Vì vậy, lời trình bày của ông C giá chuyển nhượng QSD đất
là 200.000.000Đ ( Hai trăm triệu ). Lời trình bày của ông H, bà O giá chuyển nhượng
QSD đất 400.000.000Đ ( Bốn trăm triệu ) đều không có cơ sở để HĐXX chấp nhận.
Theo tài liệu do phía nguyên đơn cung cấp thì Hợp đồng chuyển nhượng QSD
đất giữa ông Bùi Nhu C, Nguyễn Thị N với Huỳnh Thị P được UBND BR
xác nhận thể hiện: giá chuyển nhượng giữa hai bên 250.000.000Đ ( Hai trăm năm
5
mươi triệu ) ( Bút lục số: 19,20 ). Do đó, có đủ căn cứ để HĐXX xác định giá chuyển
nhượng QSD đất là 250.000.000Đ ( Hai trăm năm mươi triệu ).
Như đã phân tích trên hai bên thoả thuận với nhau số tiền ông C, N
chuyển nhượng được chia theo t lệ ông C, N được hưởng ¼, còn vợ chồng O,
ông H được hưởng ¾ ( Bút lục số: 04 ). Do đó, số tiền 250.000.000Đ ( Hai trăm năm
mươi triệu ) được chia thành 04 phần. Ông C, bà N được hưởng ¼ là:
62.500.000.000Đ ( Sáu ơi hai triệu năm trăm ngàn ), còn vợ chồng O, ông H
được hưởng ¾ là: 187.500.000Đ ( Một trăm m mươi bảy triệu năm trăm ngàn).
vậy, chỉ chấp nhận một phần yêu cầu của vợ chồng O, ông H. Buộc ông C, N
trả cho vchồng O, ông H 187.500.000Đ ( Một trăm tám mươi bảy triệu năm
trăm ngàn).
[3] Về án phí: ông C, bà N phải chịu án phí đối với số tiền phải trả cho vợ chồng
O, ông H. Vợ chồng bà O, ông H phải chịu án phí đối với phần yêu cầu không
được chấp nhận.
Vì những lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
Áp dụng điểm a khoản 2 Điều 227, khoản 3 Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự.
Điểm a, khoản 1 điều 106, khoản 1 điều 127 Luật đất đai năm 2003.
Khoản 2 Điều 424 Bộ luật dân sự 2005.
Tuyên xử
[1] Chấp nhận một phần yêu cầu của vchồng Nguyễn Thị O, ông Nguyễn
Thanh H đối với ông Bùi Nhu C, bà Nguyễn Thị N.
Buộc ông Bùi Nhu C, bà Nguyễn Thị N trả cho vợ chồng bà Nguyễn Thị O, ông
Nguyễn Thanh H 187.500.000Đ ( Một trăm tám mươi bảy triệu năm trăm ngàn).
[2] K t ngày có đơn yêu cu thi hành án ca ngưi đưc thi hành án
cho đến khi thi hành xong tt c các khon tin, hàng tháng bên phi thi hành
án còn phi chu khon tin lãi ca s tin còn phi thi hành án theo mc lãi
sut quy đnh ti khon 2 điu 468 B lut dân s năm 2015.
[3] V án phí: ông Bùi Nhu C, Nguyễn Thị N phải nộp 9.375.000Đ ( Chín
triệu ba trăm bảy mươi lăm ngàn ) án phí DSST. Vợ chồng Nguyễn Thị O, ông
Nguyễn Thanh H phải nộp 5.625.000Đ ( Năm triệu sáu trăm hai mươi lăm ngàn ) án
phí DSST, nhưng được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí 7.500.000Đ ( Bảy triệu
năm trăm ngàn ) ông H, O đã nộp theo biên lai thu tiền tạm ứng án phí số:
002461 ngày 25/12/2009 của Thi hành án dân sự huyện XM. Ông H, O được nhận
lại số tiền chênh lệch là 1.875.000Đ ( Một triệu tám trăm bảy mươi lăm ngàn ).
Trưng hp bn án, quyết đnh đưc thi hành án quy đnh ti điu 2 Lut
thi hành án dân s thì ngưi đưc thi hành án dân s, ngưi phi thi hành án
dân s có quyn tho thun thi hành án, quyn yêu cu thi hành án, t
nguyn thi hành án hoc b cưng chế thi hành án theo quy đnh ti các điu
6,7,7a,7b và điu 9 Lut thi hành án dân s; thi hiu thi hành án đưc thc
hin theo quy đnh ti điu 30 Lut thi hành án dân s.
[4] Nguyên đơn, b đơn, ngưi có quyn li, nghĩa v liên quan đưc
quyn kháng cáo trong hn 15 ngày k t ngày tuyên án ( nhng ngưi vng
6
mt ti phiên toà thi hn trên đưc tính t ngày nhn hoc niêm yết bn án )
đ yêu cu TAND tnh Bà Ra Vũng Tàu xét x phúc thm.
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ SƠ THẨM
Nơi nhận. Thẩm phán – Chủ toạ phiên toà
- TAND tỉnh BR – VT.
- VKSND huyện XM.
- Chi cục THADS huyện XM.
- Người tham gia tố tụng.
- Lưu.
Hoàng Ngọc Tuấn
Tải về
Bản án số 33/2019/DS-ST Bản án số 33/2019/DS-ST

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án/ Quyết định cùng đối tượng

Bản án cùng lĩnh vực

Bản án mới nhất