Bản án số 32/2024/HNGĐ-ST ngày 20/08/2024 của TAND huyện Hữu Lũng, tỉnh Lạng Sơn về vụ án ly hôn về ngoại tình

  • Thuộc tính
  • Nội dung
  • VB gốc
  • VB liên quan
  • Lược đồ
  • Đính chính
  • Án lệ
  • BA/QĐ cùng nội dung
  • Tải về
Tải văn bản
Báo lỗi
  • Gửi liên kết tới Email
  • Chia sẻ:
  • Chế độ xem: Sáng | Tối
  • Thay đổi cỡ chữ:
    17

Thuộc tính Bản án 32/2024/HNGĐ-ST

Tên Bản án: Bản án số 32/2024/HNGĐ-ST ngày 20/08/2024 của TAND huyện Hữu Lũng, tỉnh Lạng Sơn về vụ án ly hôn về ngoại tình
Quan hệ pháp luật: Vụ án ly hôn về ngoại tình
Cấp xét xử: Sơ thẩm
Tòa án xét xử: TAND huyện Hữu Lũng (TAND tỉnh Lạng Sơn)
Số hiệu: 32/2024/HNGĐ-ST
Loại văn bản: Bản án
Ngày ban hành: 20/08/2024
Lĩnh vực: Hôn nhân gia đình
Áp dụng án lệ:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Đính chính:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Thông tin về vụ/việc: Khoàng Thị M - Ngọc Văn T
Tóm tắt Bản án

Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!

Tải văn bản

TÒA ÁN NHÂN DÂN
HUYỆN HỮU LŨNG
TỈNH LẠNG SƠN
Bản án số: 32/2024/HNGĐ-ST
Ngày:
20-8-2024
V/v ly hôn, tranh chấp v nuôi
con và nợ chung khi ly hôn
CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN HỮU LŨNG, TỈNH LẠNG SƠN
- Thành phần Hội đồng xét xử sơ thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa: Ông Hoàng Hải Đoàn.
Các Hội thẩm nhân dân: Ông Phạm Văn Xuân.
Ông Vy Văn Lâm.
- Thư phiên toà: Vy Khánh Ly - Thư Tòa án nhân dân huyện Hữu
Lũng, tỉnh Lạng Sơn.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Hữu Lũng, tỉnh Lạng Sơn tham
gia phiên tòa: Ông Mã Anh Tuấn - Kiểm sát viên.
Ngày 20 tháng 8 năm 2024, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Hữu Lũng,
tỉnh Lạng Sơn, xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ số: 88/2024/TLST-HNGĐ
ngày 30 tháng 5 năm 2024, về việc: Ly hôn, tranh chấp về nuôi con nợ chung
khi ly hôn, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 35/2024/QĐXXST-HNGĐ,
ngày 02 tháng 8 năm 2024, giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Chị Khoàng Thị M, sinh năm 1992. Địa chỉ: Bản T, xã M,
huyện M, tỉnh Điện Biên. Có mặt.
- Bị đơn: Anh Ngọc Văn T, sinh năm 1984. Địa chỉ: Thôn Đ, xã V, huyện
H, tỉnh Lạng Sơn. Có mặt.
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
1. Bà Lô Thị T1, sinh năm 1966. Địa chỉ: Thôn B, xã H, huyện Y, tỉnh Bắc
Giang. Có mặt.
2. Ngân hàng C. Địa chỉ: Tòa nhà C, bán đảo L, quận H, thành phố Nội.
Người đại diện hợp pháp của Ngân hàng C: Bà Nguyễn Thanh H, chức vụ:
Phó giám đốc, Phòng giao dịch Ngân hàng chính sách xã hội huyện C. Địa chỉ:
Khu A, thị trấn H, huyện H, tỉnh Lạng Sơn, là người đại diện theo ủy quyền (Văn
bản ủy quyền ngày 01/8/2024). Có mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
2
Theo đơn khởi kiện ngày 10 tháng 5 năm 2024, trong quá trình tố tụng
tại phiên toà nguyên đơn chị Khoàng Thị M trình bày:
Chị Khoàng Thị M anh Ngọc Văn T đăng kết hôn ngày 17/8/2010,
tại Ủy ban nhân dân M, huyện M, tỉnh Điện Biên. Sau khi kết hôn cuộc sống
hạnh phúc nhưng chỉ được một thời gian ngắn đến khoảng giữa năm 2012 thì
cuộc sống vchồng phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân do anh Ngọc Văn T khi
uống rượu vào là cớ đánh vợ không cần do, khoảng hai, ba tháng đánh
một lần, đến năm 2015, 2016 thì đánh nhiều hơn, dó đó cuộc sống vợ chồng luôn
căng thẳng, không hạnh phúc. Trong thời gian từ năm 2016-2018, chị Khoàng Thị
M bị chồng đánh và đuổi ra khỏi nhà nhiều lần. Đến tháng 3 năm 2019, anh Ngọc
Văn T lại đánh và đuổi chị Khoàng Thị M ra khỏi nhà, do vậy chị Khoàng Thị M
đã về nhà bố mẹ đẻ ở, từ đó hai vợ chồng sống ly thân cho đến nay.
Trong khoảng thời gian sống ly thân anh Ngọc Văn T thường xuyên
những câu nói, hành vi xúc phạm chị Khoàng Thị M người thân trong gia đình
qua việc nhắn tin, gọi điện hoặc trên các trang mạng xã hội. Từ khi ly thân hai vợ
chồng không còn ai quan tâm đến ai, người nào chỉ biết bổn phận của người đó,
xác định tình cảm vợ chồng không còn chị Khoàng Thị M yêu cầu được ly hôn
với anh Ngọc Văn T.
Về con chung vợ chồng chúng tôi có 02 người con chung, cháu Ngọc T2 Đ
sinh ngày 18/10/2011; cháu Ngọc Á Dương sinh ngày 19/9/2017, hiện nay các
con chung đang với bông nội. Sau ly hôn nguyên đơn yêu cầu được nuôi
dưỡng 02 người con chung, không yêu cầu bị đơn phải cấp dưỡng nuôi con.
Về nợ chung: Vợ chồng có hai khoản nợ đúng như yêu cầu độc lập của bà
Lô Thị T1 và Ngân hàng C, đây là khoản nợ phát sinh trong thời kỳ hôn nhân và
các khoản nnày là để phát triển kinh tế gia đình. Do đó, chị Khoàng Thị M đồng
ý cùng anh Ngọc Văn T mỗi người nghĩa vụ trả một nửa, cụ thể: Mỗi người
nghĩa vụ trả Ngân hàng chính sách hội 15.000.000đồng lãi phát sinh theo
quy định; trả bà Lô Thị T1 21.500.000đồng.
Về tài sản chung không yêu cầu giải quyết. Về án phí đề nghị giải quyết
theo quy định của pháp luật.
Trong quá trình tố tụng và tại phiên tòa anh Ngọc Văn T trình bày:
Về thời gian kết hôn như chị Khoàng Thị M trình bày là đúng. Sau khi kết
hôn cuộc sống vợ chồng ban đầu có hạnh phúc. Đến đầu năm 2015, cuộc sống vợ
chồng phát sinh mâu thuẫn ngày càng trở nên căng thẳng nhiều hơn, nguyên
nhân do chị Khoàng Thị M có quan hngoại tình với người khác khi biết được đã
bỏ qua vợ chồng lại chung sống bình thường có thêm người con thứ hai.
Khoảng cuối năm 2018, chị Khoàng Thị M đi làm công nhân ở Bắc Giang, cuối
tuần không chịu vnhà, khi góp ý lại nói những câu khó chịu, đến đầu năm 2019,
anh Ngọc Văn T nghe chị Khoàng Thị M tiếp tục lại quan hệ ngoại tình,
trong một lần cãi nhau anh Ngọc Văn T được tát một hai cái, thì chị Khoàng
3
Thị M thu dọn quần áo và bỏ đi khỏi nhà từ đầu năm 2019 cho đến nay. Do vậy,
anh Ngọc Văn T đồng ý được ly hôn với chị Khoàng Thị M.
Về con chung: Vợ chồng 02 người con chung, cháu Ngọc T2 Đ sinh
ngày 18/10/2011; cháu Ngọc Á Dương sinh ngày 19/9/2017, hiện nay các con
chung đang ở với bố. Từ khi ly thân đầu năm 2019 đến nay một mình anh Ngọc
Văn T tự nuôi con, chị Khoàng Thị M không hỗ trợ gì, các cháu vẫn được lo đầy
đủ vì vậy nguyên đơn yêu cầu nuôi dưỡng các con chung anh Ngọc Văn T không
đồng ý. Sau ly hôn anh Ngọc Văn T yêu cầu được nuôi dưỡng 02 người con chung
và không yêu cầu nguyên đơn phải cấp dưỡng nuôi con.
Về các khoản nợ chung anh Ngọc Văn T thừa nhận vợ chồng có các khoản
nợ như bà Lô Thị T1 và Ngân hàng C trình bày và đồng ý mỗi vợ chồng có nghĩa
vụ trả ½ khoản nợ cho bà T1 và ½ khoản nợ trả cho Ngân hàng chính sách và lãi
phát sinh theo hợp đồng. Đối với số tiền nợ lãi 358.028 đồng chị Khoàng Thị M
tự nguyện trả Ngân hàng.
Về tài sản chung không yêu cầu giải quyết. Về án phí đề nghị giải quyết
theo quy định của pháp luật.
Thị T1 trình bày: Khoảng năm 2014, Thị T1 mở đại bán
thức ăn chăn nuôi tại V, huyện H, tỉnh Lạng Sơn. Trong các năm 2015, 2016,
2017, vợ chồng chị Khoàng Thị M, anh Ngọc Văn T, đến mua thức ăn chăn nuôi
về đầu nuôi lợn làm ăn kinh tế. Khi lấy thức ăn chăn nuôi hai bên sổ sách,
đến nay còn nợ tổng số tiền là 43.000.000 đồng. Do hiện nay vợ chồng đang yêu
cầu ly hôn nên bà Lô Thị T1 yêu cầu chị Khoàng Thị M và anh Ngọc Văn T mỗi
người sẽ có trách nhiệm trả ½ số nợ.
Người đại diện hợp pháp của Ngân hàng C trình bày: Vợ chồng chị Khoàng
Thị M, anh Ngọc Văn T nợ ngân hàng một khoản vay theo sổ vay vốn số
7067332918 Giấy đề nghị vay vốn kiêm phương án sử dụng vốn vay, theo
chương trình H1 nghèo với số tiền 30.000.000 đồng vay ngày 15/6/2020, thời hạn
vay 60 tháng, hạn trả nợ cuối cùng ngày 15/6/2025, lãi xuất 6,6%/năm. Theo hồ
vay vốn thì hộ chị Khoàng Thị M gồm có hai vợ chồng chị Khoàng Thị M, anh
Ngọc Văn T. Tính đến ngày hôm nay 20 tháng 8 năm 2024 còn nợ số tiền gốc
30.000.000 đồng và nợ lãi 358.028 đồng. Do vchồng đang có yêu cầu ly hôn tại
Toà án để bảo toàn nguồn vốn tín dụng ưu đãi của Chính phủ, Ngân hàng C
yêu cầu mỗi người nghĩa vụ trả ½ số tiền nợ gốc tương đương 15.000.000
đồng/người. Số tiền nợ lãi 358.028 đồng, chị Khoàng Thị M tự nguyện trả Ngân
hàng nhất trí. Kể từ ngày tiếp theo của ngày xét xử sơ thẩm cho đến khi trả xong
nợ, các bên còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền nợ gốc theo mức lãi suất thỏa
thuận trong hợp đồng.
Ý kiến của đại diện Viện kiểm sát: Về việc tuân theo pháp luật: Trong quá
trình giải quyết vụ án tại phiên tòa, Thẩm phán, Hội đồng xét xử Thư
phiên tòa bản đã tuân theo đúng các trình tự thủ tục tố tụng. Các đương sự thực
hiện đầy đủ quyền nghĩa vtheo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự; tuy
nhiên Toà án chưa lấy ý kiến của con trên 07 tuổi về nguyện vọng được ở với ai,
4
chưa đầy đủ theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự. Về việc giải quyết vụ
án: Đề nghị áp dụng các Điều 51, 55, 57, 81, 82, 83 Luật Hôn nhân và gia đình;
các Điều 440, 466, 468 Bộ luật Dân sự Về hôn nhân, công nhận thuận tình ly hôn
giữa chị Khoàng Thị M anh Ngọc Văn T. Về con chung, giao các con chung
cho anh Ngọc Văn T được quyền trực tiếp nuôi dưỡng đến khi đủ 18 tuổi, chị
Khoàng Thị M không phải cấp dưỡng nuôi con có quyền thăm con mà không
ai được cản trở. Về nợ chung công nhận sự thoả thuận của các đương sự, cụ thể:
Chị Khoàng Thị M anh Ngọc Văn T mỗi người có nghĩa vụ trả Lô Thị T1
21.500.000 đồng, trả Ngân hàng chính sách 15.000.000 đồng nợ gốc lãi phát
sinh theo hợp đồng. Về tài sản chung không xem xét giải quyết. Về án phí căn cứ
Điều 147 Bộ luật Tố tụng dân sự, Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14, nguyên
đơn, bị đơn phải chịu 50% án phí ly hôn thẩm nghĩa vụ về nợ chung theo
quy định của pháp luật.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
[1] Về quan hệ pháp luật: Trong quá trình giải quyết vụ án những người có
quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập về việc buộc vợ chồng có trách
nhiệm trả nợ trong thời gian chung sống. Do đó, xác định quan hệ pháp luật đầy
đủ là: “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con và nợ chung khi ly hôn”, theo quy định tại
khoản 1 Điều 28 của Bộ luật Tố tụng dân sự.
[2] Vviệc hồ sơ không ý kiến của con chưa thành niên đủ bảy tuổi. Xét
thấy, trong quá trình giải quyết vụ án Toà án đã nhiều lần yêu cầu nguyên đơn, bị
đơn đưa con chưa thành niên đủ bảy tuổi đến hoặc các đương sự tự lấy nguyện
vong của con chưa thành niên để nộp cho Toà án nhưng các đương sự không thực
hiện theo yêu cầu (tại phiên toà các đương sự đều thừa nhận). Ngày 17/7/2024,
Tòa án tổ chức lấy ý kiến của con chưa thành niên đủ bảy tuổi nhưng không lấy
được, nguyên nhân do con chưa thành niên đủ bảy tuổi không có nhà. Tuy nhiên,
tại biên bản xác minh cùng ngày đã thể hiện nguyện vọng của con chưa thành niên
gián tiếp thông qua nội dung trình bày của ông N cháu, (theo đó nguyện vọng của
con chung muốn cùng bố). Như vậy, việc không lấy được ý kiến trực tiếp của
con chưa thành niên đủ bảy tuổi là do khách quan, nhưng điều đó cũng không ảnh
hưởng đến việc giải quyết vụ án. nguyện vọng của con từ đủ bảy tuổi trở lên
chỉ là một trong những yếu tố Tòa án phải xem xét, việc quyết định giao con cho
bên nào trực tiếp nuôi phải căn cứ vào quyền lợi về mọi mặt của con.
[3] Về quan hệ hôn nhân: Chị Khoàng Thị M và anh Ngọc Văn T, đăng ký
kết hôn ngày 17/8/2010 tại Ủy ban nhân dân xã M, huyện M, tỉnh Điện Biên, nên
quan hệ hôn nhân là hợp pháp được pháp luật thừa nhận. Về yêu cầu ly hôn: Xét
thấy, các đương sđều thừa nhận cuộc sống hôn nhân vợ chồng nhiều mâu
thuẫn trầm trọng, dẫn đến cuộc sống vợ chồng thường xuyên căng thẳng, không
hạnh phúc, từ tháng 3 năm 2019 đến nay vợ chồng sống ly thân không còn quan
tâm, giúp đỡ, tạo điều kiện cho nhau phát triển về mọi mặt. Mâu thuẫn vợ chồng
trên phù hợp với biên bản xác minh ngày 17/7/2024 của Tòa án. Hội đồng xét
xử xét thấy, mâu thuẫn vợ chồng đã trầm trọng, cuộc sống chung không thể kéo
5
dài, mục đích hôn nhân không đạt được, chị Khoàng Thị M anh Ngọc Văn T
tự nguyện ly hôn. Do đó, Hội đồng xét xử công nhận sthuận tình ly hôn giữa chị
Khoàng Thị M và anh Ngọc Văn T theo quy định tại Điều 55 của Luật Hôn nhân
và gia đình.
[4] Về con chung: Xét thấy, chị Khoàng Thị M anh Ngọc Văn T 02
người con chung, từ khi ly thân bị đơn là người nuôi các con chung, nguyên đơn
không hỗ trợ tiền nuôi con thường xuyên; các con chung đang sinh sống, học tập
ổn định tại địa phương, địa chỉ sinh sống của nguyên đơn tại xã M, huyện M, tỉnh
Điện Biên là một môi trường sống khác hẳn về phong tục tập quán, điều kiện địa
lý tự nhiên. Do đó, để đảm bảo quyền lợi về mọi mặt ca các con, bảo đảm sự ổn
định, không làm xáo trộn môi trường sống, giáo dục của các con chung, Hội đồng
xét xử quyết định giao con chung cho bị đơn nuôi dưỡng, giáo dục.
[5] Vnghĩa vụ cấp dưỡng cho con: Xét thấy, Tòa án đã giải thích việc yêu
cầu cấp dưỡng cho con nhằm bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của các con chung,
nhưng bị đơn tự nguyện không yêu cầu cấp dưỡng nuôi con chung bị đơn
đủ khả năng, điều kiện nuôi dưỡng con chung. Do vậy, Hội đồng xét xử không
buộc nguyên đơn phải cấp dưỡng nuôi con.
[6] Về nợ chung: Tại phiên toà và trước khi mở phiên toà các đương sự đã
thoả thuận được với nhau về các khoản nợ về nghĩa vụ trả nợ chia theo phần.
Do đó, Hội đồng xét xử công nhận sthoả thuận của các đương sự, cụ thể như
sau: Chị Khoàng Thị M và anh Ngọc Văn T mỗi người có nghĩa vụ trả bà Lô Thị
T1 21.500.000 đồng; trả Ngân hàng chính sách 15.000.000 đồng nợ gốc, đối với
số tiền nợ lãi 358.028 đồng chị Khoàng Thị M tự nguyện trả ngân hàng.
[7] Về tài sản chung: ChKhoàng Thị M anh Ngọc Văn T không yêu
cầu nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.
[8] Xét thấy, trước khi mở phiên tòa, các bên đương sự tự nguyện ly hôn
thống nhất thoả thuận được toàn bnghĩa vụ về tài sản (nợ chung) nên các đương
sự phải chịu 50% mức án phí quy định đối với yêu cầu xin ly hôn và nghĩa vụ về
nợ chung theo điểm a, e khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14.
[9] Các đương sự quyền kháng cáo bản án thẩm theo quy định tại
Điều 271, 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ vào Điều 37, Điều 55, Điều 60, Điều 81, Điều 82, Điều 83 của Luật
Hôn nhân gia đình. Căn cứ vào Điều 357, Điều 430, Điều 440, Điều 468 B
luật Dân sự năm 2015 Căn cứ vào Điều 100 Luật Các tchức tín dụng năm 20.
Căn cứ vào khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39,
khoản 4 Điều 147, Điều 244, Điều 271, Điều 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự. Căn
cứ vào điểm a, e khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30
tháng 12 năm 2016, của Ủy ban Thường vụ Quốc hội.
6
1. Về quan h hôn nhân: Công nhận sự thuận tình ly hôn giữa chị Khoàng
Thị M và anh Ngọc Văn T.
2. Về con chung: Chị Khoàng Thị Manh Ngọc Văn T 02 người con
chung, cháu Ngọc T2 Đ sinh ngày 18/10/2011; cháu Ngọc Á Dương sinh ngày
19/9/2017.
Sau khi ly hôn, anh Ngọc Văn T được quyền trực tiếp trông nom, chăm sóc,
giáo dục, nuôi dưỡng 02 người con chung đến khi đủ 18 tuổi. ChKhoàng Thị M
không phải cấp dưỡng nuôi con do anh Ngọc Văn T chưa yêu cầu.
Sau khi ly hôn, người không trực tiếp nuôi con quyền, nghĩa vụ thăm
nom con chung mà không ai được cản trở.
3. Về nợ chung, công nhận sự thoả thuận của các đương sự như sau:
3.1. Chị Khoàng Thị M có nghĩa vụ trả nợ như sau:
- Trả Ngân hàng C số tiền nợ gốc 15.000.000 đồng (mười lăm triệu đồng)
nợ lãi 358.028 đồng (ba trăm năm mươi tám nghìn không trăm hai mươi tám
đồng). Kể từ ngày tiếp theo của ngày xét xử thẩm (ngày 21/8/2024) cho đến
khi trả xong nợ, chị Khoàng Thị M còn phải chịu khoản tiền lãi của stiền nợ gốc
theo mức lãi suất mà các bên thỏa thuận trong hợp đồng.
- Trả Thị T1 21.500.000 đồng (hai mươi mốt triệu năm trăm nghìn
đồng). Kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án cho đến
khi thi hành án xong, bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền
còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại Điều 357, Điều 468 của Bộ
luật Dân sự.
3.2. Anh Ngọc Văn T có nghĩa vụ trả nợ như sau:
- Trả Ngân hàng C số tiền nợ gốc 15.000.000 đồng (mười lăm triệu đồng).
Kể từ ngày tiếp theo của ngày xét xử thẩm (ngày 21/8/2024) cho đến khi trả
xong nợ, anh Ngọc Văn T còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền nợ gốc theo
mức lãi suất mà các bên thỏa thuận trong hợp đồng.
- Trả Thị T1 21.500.000 đồng (hai mươi mốt triệu năm trăm nghìn
đồng). Kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án cho đến
khi thi hành án xong, bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền
còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại Điều 357, Điều 468 của Bộ
luật Dân sự.
4. Về tài sản chung: Không xem xét giải quyết.
5. Về án phí:
5.1. Chị Khoàng Thị M phải chịu 996.000 đồng (chín trăm chín mươi sáu
nghìn đồng) án phí thẩm, đnộp ngân sách Nhà nước. Số tiền án phí trên được
trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng) đồng
theo Biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số: 0004734 ngày 29 tháng 5 năm
2024, tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Hữu Lũng, tỉnh Lạng Sơn. Sau khi
7
khấu trừ chị Khoàng Thị M còn phải nộp tiếp 696.000 đồng (sáu trăm chín mươi
sáu nghìn đồng).
5.2. Anh Ngọc Văn T phải chịu 987.000 đồng (chín trăm tám mươi bảy
nghìn đồng) án phí sơ thẩm, để nộp ngân sách Nhà nước.
5.3. Trả lại bà Lô Thị T1 số tiền tạm ứng án phí 1.500.000 đồng (một triệu
năm trăm nghìn đồng) đã nộp, theo Biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số:
0004758 ngày 17 tháng 6 năm 2024, tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Hữu
Lũng, tỉnh Lạng Sơn.
6. Về quyền kháng cáo: Các đương squyền kháng cáo trong thời hạn
15 ngày, kể từ ngày tuyên án.
Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật
Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân
sự quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành
án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi
hành án dân sự. Thời hiệu thi hành án dân sự được thực hiện theo quy định tại
Điều 30 Luật Thinh án dân sự.
Nơi nhận: TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ SƠ THẨM
- Toà án nhân dân tỉnh Lạng Sơn; THẨM PHÁN - CHỦ TOẠ PHIÊN TOÀ
- Viện kiểm sát nhân dân huyện Hữu Lũng;
- Chi cục THADS huyện Hữu Lũng;
- UBND Mường Tùng;
- Các đương sự;
- Lưu hồ sơ vụ án.
Hoàng Hải Đoàn
Tải về
Bản án số 32/2024/HNGĐ-ST Bản án số 32/2024/HNGĐ-ST

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án số 32/2024/HNGĐ-ST Bản án số 32/2024/HNGĐ-ST

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án/ Quyết định cùng đối tượng

Bản án cùng lĩnh vực

Bản án mới nhất