Bản án số 32/2021/HS-ST ngày 19/04/2021 của TAND TX. Sơn Tây, TP. Hà Nội về tội trộm cắp tài sản
- Thuộc tính
- Nội dung
- VB gốc
- VB liên quan
- Lược đồ
- Đính chính
- Án lệ
- BA/QĐ cùng tội danh
- Tải về
-
Bản án số 32/2021/HS-ST
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Thuộc tính Bản án 32/2021/HS-ST
Tên Bản án: | Bản án số 32/2021/HS-ST ngày 19/04/2021 của TAND TX. Sơn Tây, TP. Hà Nội về tội trộm cắp tài sản |
---|---|
Tội danh: | 138.Tội trộm cắp tài sản (Bộ luật hình sự năm 1999) |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Tòa án xét xử: | TAND TX. Sơn Tây (TAND TP. Hà Nội) |
Số hiệu: | 32/2021/HS-ST |
Loại văn bản: | Bản án |
Ngày ban hành: | 19/04/2021 |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Áp dụng án lệ: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Đính chính: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Thông tin về vụ án: |
Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!
Tải văn bản
TOÀ ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ SƠN TÂY, THÀNH PHỒ HÀ NỘI
BẢN ÁN 32/2021/HS-ST NGÀY 19/04/2021 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN
Ngày 19 tháng 4 năm 2021, tại Trụ sở Tòa án nhân dân thị xã Sơn Tây, Thành phố Hà Nội xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 23/2021/TLST - HS ngày 15 tháng 3 năm 2021, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 25/2021/QĐXXST - HS ngày 05 tháng 4 năm 2021 đối với bị cáo:
Kiều Mạnh C, sinh năm 1986 tại Hà Nội; nơi cư trú: Số xx Phú Nhi x, phường Phú Thịnh, thị xã Sơn Tây, Thành phố Hà Nội; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ văn hoá: Lớp 12/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Kiều Văn Phú và bà Lê Thị Vân; Có vợ đã ly hôn và có hai con, lớn sinh năm 2011, nhỏ sinh năm 2017; Tiền án; Tiền sự: Không.
Bị cáo bị bắt tạm giam từ ngày 27/12/2020 đến ngày 05/02/2021 được tại ngoại; có mặt.
- Bị hại: Anh Hoàng Văn N, sinh năm 2002; Thôn C, xã Cam T, huyện Ba Vì, Thành phố Hà Nội; vắng mặt.
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
+ Bà Lê Thị V, sinh năm 1962; Trú tại: Số x Phú Nhi x, phường Phú Th, Sơn Tây, Hà Nội; có mặt.
+ Anh Nguyễn Đăng Ng, sinh năm 2001; Trú tại: Thôn Cam Đ, xã Cam T, huyện Ba Vì, Thành phố Hà Nội; vắng mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Khoảng 10 giờ ngày 20/7/2020, Hoàng Văn Nam mượn chiếc xe máy hiệu Wave, màu xanh-đen-bạc, mang biển kiểm soát: 29V1-632.70 của anh Nguyễn Đăng Ngọc rồi điều khiển chiếc xe máy trên đến nhà Giang Anh chơi. Sau khi gặp Quân thì Quân rủ Nam đến ao cá của nhà Kiều Mạnh C chơi (C là bạn của Quân). Nam đồng ý và giao xe máy cho Quân chở Nam đến ao cá của nhà C ở Phú Mai - Phú Thịnh - Sơn Tây - Hà Nội. Khi đến nơi, Quân dựng xe máy ở sân trước cửa nhà và cắm chìa khóa ở ổ khóa xe máy rồi cùng Nam đi vào trong nhà gặp C nói chuyện một lúc thì Nam và Quân lên giường nằm ngủ. Lúc này, C đi ra sân thì nhìn thấy chìa khóa xe máy đang cắm ở ổ khóa điện nên nảy sinh ý định trộm cắp chiếc xe máy đem đi cầm cố để lấy tiền ăn tiêu. C nổ máy điều khiển chiếc xe máy trên đi đến nhà Nguyễn Văn Sỹ ở số 33, Cẩm An - Ngô Quyền - Thị xã Sơn Tây – Hà Nội cầm cố để vay 4.000.000đ. C nói với Sỹ đây là xe máy của em C cho mượn để cầm cố nên Sỹ đồng ý cho C cầm cố. Khoảng 16h00 ngày 20/7/2020, Nam ngủ dậy không thấy xe máy đâu thì gọi Quân dậy hỏi nhưng Quân cũng không biết ai lấy xe máy. Khoảng 18h00 cùng ngày, sau khi tiêu hết tiền thì C đi về và nói cho Nam cùng Quân biết là C đã lấy xe máy mang đi cầm cố. Nam yêu cầu C mang xe máy về trả nhưng C không có tiền chuộc lại xe nên đã bỏ đi. Sau đó Nam đã làm đơn trình báo gửi đến Cơ quan điều tra đề nghị giải quyết.
Ngày 27/7/2020, C tác động cho bà Lê Thị Vân là mẹ của C đến nhà Sỹ chuộc lại chiếc xe máy trên và giao nộp cho Cơ quan điều tra. Ngày 07/8/2020 Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự thị xã Sơn Tây đã định giá và kết luận: Chiếc xe máy hiệu Wave, mang biển kiểm soát: 29V1-632.70 có trị giá là 13.500.000đồng.
Tại bản cáo trạng số 27/CT - VKS ngày 12/3/2021 của Viện kiểm sát nhân dân thị xã Sơn Tây đã truy tố bị cáo Kiều Mạnh C về Tội Trộm cắp tài sản theo khoản 1 Điều 173 của Bộ luật hình sự.
Tại phiên tòa, bị cáo C đã thành khẩn khai nhận toàn bộ hành vi trộm cắp tài sản của mình. Bị cáo nhận thức hành vi phạm tội của mình là vi phạm pháp luật và xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ mức hình phạt.
Đại diện viện kiểm sát nhân dân thị xã Sơn Tây trình bày luận tội giữ nguyên nội dung bản cáo trạng đã truy tố đối với Kiều Mạnh C về Tội trộm cắp tài sản, đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ khoản 1 Điều 173; điểm b, i, s khoản 1 Điều 51 và Điều 38 của Bộ luật hình sự, đề nghị xử phạt Kiều Mạnh C từ 06 đến 09 tháng tù về Tội trộm cắp tài sản, thời hạn chấp hành hình phạt tù được tính từ ngày thi hành án, bị cáo được trừ thời hạn tạm giam từ ngày 27/12/2020 đến ngày 05/02/2021. Về xử lý vật chứng và bồi thường dân sự: Không đề cập. Bị cáo thu nhập không ổn định nên không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo. Bị cáo phải chịu án phí HSST theo quy định của pháp luật.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1]. Vụ án xảy ra tại phường Phú Thịnh, thuộc địa bàn thị xã Sơn Tây, Thành phố Hà Nội nên thẩm quyền khởi tố, điều tra, truy tố và xét xử thuộc các cơ quan tố tụng tại thị xã Sơn Tây. Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thị xã Sơn Tây, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thị xã Sơn Tây, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra truy tố thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên toà bị cáo, bị hại và người tham gia tố tụng khác đều không ai có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[2]. Tại phiên tòa các bị cáo Kiều Mạnh C đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội như nội dung bản cáo trạng đã truy tố. Lời khai của bị cáo phù hợp với lời khai của bị hại và các tài liệu có trong hồ sơ vụ án. Hội đồng xét xử có đủ căn cứ kết luận: Ngày 20/7/2020, lợi dụng lúc Hoàng Văn Nam và Giang Anh Quân ngủ say Kiều Mạnh C đã trộm cắp chiếc xe máy hiệu Wave, màu xanh-đen-bạc có trị giá là 13.500.000đ mà Quân dựng tại sân nhà C ở Phú Mai - Phú Thịnh - Thị xã Sơn Tây.
Do vậy, hành vi của C đã đủ yếu tố cấu thành Tội Trộm cắp tài sản. Tội danh và hình phạt được quy định tại khoản 1 Điều 173 của Bộ luật hình sự. Nên bản Cáo trạng số 27/CT-VKS ngày 12/3/2021 của Viện kiểm sát nhân dân thị xã Sơn Tây truy tố bị cáo C theo tội danh và điều luật nêu trên là có căn cứ và đúng pháp luật.
[3]. Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, gây mất trật tự trị an tại địa phương. Do vậy, cần phải có mức hình phạt tương xứng với hành vi của bị cáo đã thực hiện nhằm giáo dục bị cáo và phòng ngừa tội phạm nói chung.
Khi quyết định hình phạt Hội đồng xét xử cần xem xét đến các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nhân thân của bị cáo để có mức hình phạt tương xứng với hành vi của bị cáo:
Về tình tiết tăng nặng: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự. Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng; Tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, đã tác động với gia đình chuộc xe trả bị hại, gia đình hoàn cảnh kinh tế khó khăn phải nuôi con nhỏ. Đây là các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được qui định tại điểm b, i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự. Sau khi xảy ra sự việc bị cáo đi làm kiếm tiền chu cấp nuôi con và cũng không biết việc cơ quan điều tra công an thị xã Sơn Tây có giấy triệu tập bị cáo, cơ quan điều tra ra quyết định truy nã bị cáo không được biết, tuy vậy cũng cần cách ly bị cáo khỏi đời sống xã hội một thời gian để giáo dục bị cáo và phòng ngừa chung nên căn cứ Điều 38 và Điều 54 của BLHS để xét xử bị cáo mức án dưới khung hình phạt để bị cáo sớm trở về với gia đình và có điều kiện nuôi con nhỏ.
Đối với Nguyễn Văn Sỹ là người đã cho C cầm cố chiếc xe máy mang biển kiểm soát: 29V1-632.70 để vay 4.000.000đ. Tuy nhiên Sỹ không biết đó là xe do C trộm cắp mà có nên không có cơ sở để xử lý hình sự đối với Sỹ.
[4]. Về hình phạt bổ sung: Xét thấy bản thân bị cáo không có công việc và thu nhập ổn định, nên Hội đồng xét xử miễn áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.
[5]. Về trách nhiệm dân sự: Chiếc xe máy hiệu Wave, mang biển kiểm soát: 29V1-632.70 là xe của ông Nguyễn Mai Hưng nhưng ông Hưng đã cho con trai là anh Nguyễn Đăng Ngọc chiếc xe máy này. Do vậy, Cơ quan điều tra đã trả lại chiếc xe máy trên cho anh Ngọc; Sau khi nhận lại được tài sản bị mất bị hại không có yêu cầu, đề nghị gì về việc bồi thường dân sự nên Hội đồng xét xử không xem xét.
Đối với số tiền 4 triệu đồng bà Vân đã bỏ ra để chuộc lại chiếc xe bị cáo trộm cắp đi cầm cố, tại phiên tòa bà Vân là mẹ của bị cáo không có yêu cầu, đề nghị bị cáo phải trả lại số tiền trên, nên Hội đồng xét xử không phải xem xét.
[6]. Về xử lý vật chứng: Không.
[7]. Về án phí: Căn cứ Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH 14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội: Bị cáo phải chịu án phí theo luật định.
[8]. Về quyền kháng cáo: Bị cáo, bị hại, người có QLNVLQ có quyền kháng cáo bản án theo quy định.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH:
1. Căn cứ khoản 1 Điều 173; Điểm b, i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38 và Điều 54 của Bộ luật hình sự:
Xử phạt: Kiều Mạnh C 03 (Ba) tháng tù về tội Trộm cắp tài sản. Thời hạn chấp hành hình phạt tù được tính từ ngày bị cáo thi hành án, được trừ thời gian bị cáo bị tạm giam từ ngày 27/12/2020 đến ngày 05/02/2021.
2. Về trách nhiệm dân sự: Hội đồng xét xử không xem xét.
3. Về vật chứng: Không.
4. Căn cứ Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự 2015; điểm a, khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ quốc hội: Bị cáo Kiều Mạnh C phải chịu 200.000đồng (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.
5. Căn cứ các Điều 331, Điều 333 của Bộ luật tố tụng hình sự: Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm. Bị hại vắng mặt có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc kể từ ngày bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo về những vấn đề trực tiếp liên quan đến quyền lợi và nghĩa vụ của mình trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo về những vấn đề trực tiếp liên quan đến quyền lợi và nghĩa vụ của mình trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc ngày bản án được niêm yết./.
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!