Bản án số 27/2024/DS-ST ngày 28/08/2024 của TAND huyện Giao Thủy, tỉnh Nam Định về tranh chấp về thừa kế tài sản
- Thuộc tính
- Nội dung
- VB gốc
- VB liên quan
- Lược đồ
- Đính chính
- Án lệ
- BA/QĐ cùng nội dung
- Tải về
Tải văn bản
-
Bản án số 27/2024/DS-ST
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
-
Bản án số 27/2024/DS-ST
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Báo lỗi
Thuộc tính Bản án 27/2024/DS-ST
Tên Bản án: | Bản án số 27/2024/DS-ST ngày 28/08/2024 của TAND huyện Giao Thủy, tỉnh Nam Định về tranh chấp về thừa kế tài sản |
---|---|
Quan hệ pháp luật: | Tranh chấp về thừa kế tài sản |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Tòa án xét xử: | TAND huyện Giao Thủy (TAND tỉnh Nam Định) |
Số hiệu: | 27/2024/DS-ST |
Loại văn bản: | Bản án |
Ngày ban hành: | 28/08/2024 |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Áp dụng án lệ: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Đính chính: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Thông tin về vụ/việc: | Phạm Văn Năng - Phạm Văn Phường - Tranh chấp thừa kế tài sản và tặng cho tài sản |
Tóm tắt Bản án
Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!
Tải văn bản
TOÀ ÁN NHÂN DÂN
HUYỆN GIAO THỦY
TỈNH NAM ĐỊNH
Bản án số: 27/2024/DS-ST
Ngày: 28-8- 2024
V/v: Tranh chấp thừa kế tài sản
và tặng cho tài sản
CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN GIAO THỦY, TỈNH NAM ĐỊNH
- Thành phần Hội đồng xét xử sơ thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa: Bà Trần Thị Thu Hiền.
Các Hội thẩm nhân dân:
Ông Ngụy Thanh Tuyên;
Bà Hoàng Thị Lan.
- Thư ký phiên toà: Bà Trịnh Thị Mừng - Thư ký Toà án nhân dân huyện Giao
Thủy, tỉnh Nam Định.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Giao Thủy, tỉnh Nam Định tham
gia phiên tòa: Bà Đào Thị Yến - Kiểm sát viên.
Ngày 28 tháng 8 năm 2024, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Giao Thủy xét xử
sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số: 12/2024/TLST- DS ngày 11 tháng 3 năm
2024 về việc “Tranh chấp thừa kế tài sản” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số:
28/2024/QĐXXST-DS, ngày 02 tháng 8 năm 2024, giữa các đương sự:
Nguyên đơn: Ông Phạm Văn N; sinh năm 1962; địa chỉ: Xóm T, xã G, huyện
G, tỉnh Nam Định; “có mặt”.
Bị đơn: Ông Phạm Văn P; sinh năm 1970; địa chỉ: Xóm T, xã G, huyện G, tỉnh
Nam Định; “có mặt”.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
- Bà Đinh Thị M, sinh năm 1942; địa chỉ: Xóm T, xã G, huyện G, tỉnh Nam
Định; “vắng mặt”.
2
Người đại diện theo ủy quyền của bà Đinh Thị M là ông Phạm Văn N; sinh
năm 1962; địa chỉ: Xóm T, xã G, huyện G, tỉnh Nam Định; “có mặt”.
- Bà Phạm Thị T, sinh năm 1959; địa chỉ: Xóm Đ, xã G, huyện G, tỉnh Nam
Định; “vắng mặt”.
- Ông Phạm Văn T1; sinh năm 1964; địa chỉ: Xóm T, xã G, huyện G, tỉnh Nam
Định; “có mặt”.
- Ông Phạm Văn T2; sinh năm 1972; địa chỉ: Xóm T, xã G, huyện G, tỉnh Nam
Định; “có mặt”.
- Ông Phạm Văn C; sinh năm 1975; địa chỉ: Xóm T, xã G, huyện G, tỉnh Nam
Định; “có mặt”.
- Ông Phạm Văn T3; sinh năm 1977; địa chỉ: Xóm T, xã G, huyện G, tỉnh Nam
Định; “có mặt”.
- UBND xã G, huyện G, tỉnh Nam Định; Người đại diện theo pháp luật ông
Trần Văn T4 – Chủ tịch UBND xã G; Người đại diện theo uỷ quyền ông Lê Quang
Đ – Phó chủ tịch UBND xã G; “vắng mặt”.
Bà Nguyễn Thị T5; sinh năm 1965; Địa chỉ: Xóm T, xã G, huyện G, tỉnh Nam
Định; “có mặt”.
Bà Trần Thị N1; sinh năm 1965; Địa chỉ: Xóm T, xã G, huyện G, tỉnh Nam
Định; “vắng mặt”.
Bà Phạm Thị T6; sinh năm 1973; Địa chỉ: Xóm T, xã G, huyện G, tỉnh Nam
Định; “vắng mặt”.
Bà Đinh Thị M1; sinh năm 1970; Địa chỉ: Xóm T, xã G, huyện G, tỉnh Nam
Định; “có mặt”.
Bà Phạm Thị V; sinh năm 1978; Địa chỉ: Xóm T, xã G, huyện G, tỉnh Nam
Định; “có mặt”.
Bà Nguyễn Thị H; sinh năm 1982; Địa chỉ: Xóm T, xã G, huyện G, tỉnh Nam
Định; “có mặt”.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Theo đơn khởi kiện, bản tự khai cùng các tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án và
tại phiên tòa, nguyên đơn ông Phạm Văn N trình bày:
Bố ông là cụ Phạm Văn Q và mẹ ông là cụ Đinh Thị M, bố mẹ ông sinh được
8 người con gồm bà Phạm Thị T, bà Phạm Thị L (đã chết khi còn nhỏ), ông là Phạm
3
Văn N, ông Phạm Văn T1, ông Phạm Văn P, ông Phạm Văn T2, ông Phạm Văn C
và ông Phạm Văn T3. Năm 1995 bố mẹ ông chia đất cho các con ở thì ông T1 không
ở mà nhượng lại cho các anh em trong gia đình. Năm 1997 nhà nước đo đất cấp sổ
thì bố mẹ ông chia phần đất của ông T1 cho 4 anh em. Đến năm 1998 thì hộ ông Q,
ông N và ông P được nhà nước cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Đến năm
2010 thì hộ ông C, ông T2 được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Đến năm
2021 thì bố ông làm thủ tục tách thửa cho ông T3 thì địa chính xã hướng dẫn hợp
thổ ông C vào mới tách được sau đó thửa đất của ông C đã hợp vào thửa đất của bố
ông. Năm 2022 bố ông đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất trong đó có
cả đất của ông C. Khi bố ông đang làm thủ tục tách thửa cho ông C và ông T3 nhưng
ông P không ký giáp ranh thì bố ông đột ngột qua đời. Trước khi bố ông chết năm
2018, thì bố mẹ ông có lập di chúc và cho ông thuộc thửa đất số 89, tờ bản đồ số 14,
diện tích 505m
2
và cho ông T3 135m
2
thuộc thửa đất số 73, tờ bản đồ số 15. Bản di
chúc này có xác nhận của chính quyền địa phương. Công trình xây dựng trên thửa
đất số 89 là do ông xây dựng, công trình xây dựng trên thửa đất số 73 là do vợ chồng
ông T3 xây dựng. Đất hai lúa của hai cụ ở ngoài đồng ông không yêu cầu. Đối với
hiện trạng ông T3 và ông C đang sử dụng thì tiếp tục để cho hai ông sử dụng còn
phần diện tích phía đằng sau hiện nay mẹ ông đang sử dụng thì thực hiện theo di
chúc bố ông để lại là để lại cho ông.
Tại bản tự khai, cùng các tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án và tại phiên tòa bị
đơn là ông Phạm Văn P trình bày: Năm 1992 ông xây dựng gia đình và đến năm
1993 ông có nói với bố mẹ cắt đất để làm nhà và bố ông đã đồng ý, đến ngày 30 thág
12 năm 2005 ông đã được nhà nước cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Cho
đến khoảng năm 2009 ông đi làm xa về thì bố ông có kể lại là ông phải trả ra cho
ông T3 là 15.000.000đồng và bỏ ngõ ra, đến năm 2016 anh em họp làm lại nhà cho
bố mẹ và họp đến 4 cuộc họp nhưng chưa thành thì ông N đã bơm cát để làm nhà
hiện nay mẹ ông đang ở. Nay ông N có đơn khởi kiện, ông nhất trí với phần đất bố
ông để lại cho ông T3 là 135m
2
và phần diện tích đất vợ chồng ông C đã được cấp
Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất trước kia; còn phần diện tích cho ông N 505 m
2
hiện nay mẹ ông đang sử dụng thuộc quyền quản lý của mẹ ông, ông không công
nhận di chúc của bố ông để lại cho ông N vì di chúc không hợp lệ. Đối với yêu cầu
của ông Phạm Văn T1 đã nhường lại 1m đất cho anh em và đã làm Giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất, ý kiến của ông là ông không biết về việc này nên không có nghĩa
vụ thanh toán cho ông T1 130.000.000 đồng.
Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan vợ chồng ông Phạm Văn T1 trình bày:
Bố ông chia đất cho mỗi người con được 4m ngang, năm 2007 ông đã hạ móng để
4
xây nhà, nhưng sau đó anh em trong gia đình đã thống nhất ông để lại cho ông P,
ông T2, ông C và ông T3 mỗi người một 1m và các ông P, ông T2, ông C và ông T3
phải có nghĩa vụ trả cho ông 130.000.000đồng nhưng chỉ có ông C đã trả
130.000.000đồng, ông T2 đã trả 65.000.000đồng, còn ông T3 và ông P chưa trả cho
ông. Nay ông có nguyện vọng lấy lại phần đất bố ông đã cho ông vị trí là ngõ đi hiện
nay ngang 3,3m chiều dài khoảng 30m giáp với nhà ông C và ông T3, ông sẽ trả lại
tiền cho ông C và ông T2; nếu không ông P, ông T3 mỗi ông phải thanh toán cho
ông 130.000.000 đồng; ông T2 thanh toán phần còn thiếu là 65.000.000 đồng. Đối
với bản di chúc của bố ông để lại ông nhất trí với phần đất bố ông để lại cho ông T3
và phần đất ông C đã được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất trước kia; còn
phần diện tích phía đằng sau để cho ông N nếu ông nhận lại phần đất phía ngõ đằng
trước thì ông nhất trí để ông N được hưởng.
Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan vợ chồng ông Phạm Văn T2 trình bày:
Ông không nhất trí với yêu cầu khởi kiện của ông N, ông trả lại phần diện tích đất
cho ông T1 và lấy lại của ông T1 65.000.000đồng ông nhất trí với phần đất hiện nay
ông C và ông T3 đang sử dụng còn di chúc của bố ông để lại ông không có ý kiến
gì.
Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan vợ chồng ông Phạm Văn C trình bày:
Trước đây bố mẹ đã chia đất cho các con trai và vợ chồng ông đã được nhà nước
cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đối với 155 m
2
đất vào năm 2010. Khi cụ Q
còn sống, muốn làm thủ tục tách thửa đất cho ông T3 nhưng không đủ diện tích để
tách thửa nên năm 2022 vợ chồng ông đã gộp lại với thửa đất của cụ Q để làm thủ
tục tách thửa cho ông T3 nên trong giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của cụ Q là
795 m
2
, trong đó có 155 m
2
diện tích đất của vợ chồng ông đã được bố mẹ cho. Nay
đề nghị Tòa án công nhận 155m
2
đất đã được bố mẹ cho; nhất trí với phần đất bố mẹ
để lại cho ông T3 là 135m
2
và cho ông N 505m
2
đất. Đối với số tiền ông đã chuyển
cho ông T1 130.000.000 đồng, vì đây là thỏa thuận của các thành viên trong gia đình
và trước đây ông đã được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đối với phần được
cho thêm nên ông không có ý kiến gì.
Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan vợ chồng ông Phạm Văn T3 trình bày:
Đề nghị Tòa án công nhận việc cụ Q đã để lại di chúc cho ông T3 135 m
2
đất và
nhận trách nhiệm thanh toán cho ông T1 130.000.000 đồng; hiện nay mẹ ông T3 còn
sống vẫn nhất trí cho ông T3 phần diện tích đất trên. Còn phần diện tích đất 505m
2
bố ông để lại di chúc cho ông N, ông không có ý kiến gì.
Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan bà Đinh Thị M trình bày: Khi cụ Q còn
5
sống, vợ chồng cụ đã chia đất cho các con và sau đó đã làm di chúc để lại đất cho
ông T3 và ông N. Nay cụ Q đã chết, cụ tiếp tục để lại đất cho ông N và ông T3.
Trước đây đã cho ông C đất và ông C đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng
đất, sau đó ông C làm thủ tục tặng cho lại đất cho bố mẹ để hợp các thửa đất của bố
mẹ để chia cho ông T3 nên phần diện tích đã cho ông C là của vợ chồng ông C.
Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan bà Phạm Thị T trình bày: Bà là con gái
của cụ M và cụ Q. Bà không ý kiến gì về việc bố mẹ đã cho các anh em trai trong
gia đình đất và không đề nghị được hưởng đất của bố mẹ.
Tại văn bản ngày 16/7/2024, UBND xã G trình bày: Theo bản đồ 299, lập
năm 1987, thửa đất số 927, tờ bản đồ số 1a, diện tích 891m
2
, trong đó đất ở 360m
2
;
đất ao 200m
2
; đất trồng cây 331m
2
, mang tên hộ ông Q, trên bản đồ chưa có ngõ đi
chung. Theo bản đồ năm 1997 (chỉnh lý năm 2003), tờ bản đồ số 14, thửa số 89 diện
tích 505 m
2
; trong đó đất nuôi trồng thủy sản 130 m
2
, đất chuyên trồng lúa 375 m
2
và tờ bản đồ số 15 thửa số 73 diện tích 135 m
2
đất ở mang tên ông Q. Thửa số 74
mang tên ông N diện tích 145 m
2
. Thửa số 71 mang tên ông P diện tích 145 m
2
.Thửa
số 72 chung thửa ông T2 và ông C. Ngõ đi chung giáp phía Tây Nam của thửa đất
số 73. Năm 2021, ông Q nhận tặng cho quyền sử dụng đất tại thửa đất số 72 tờ bản
đồ số 15 diện tích 155 m
2
của ông Phạm Văn C. Sau đó, ông Q tiến hành hoàn thiện
thủ tục hợp 03 thửa đất trên thành thửa số 280, tờ bản đồ số 14 diện tích 795 m
2
;
trong đó đất ở : 290m
2
, đất nuôi trồng thủy sản 130m
2
, đất chuyên trồng lúa nước
375m
2
. Hiện nay phần ngõ đi chung do UBND xã G quản lý, trên bản đồ không thể
hiện kích thước dài, rộng và đang được vợ con ông Q sử dụng đi lại.
Kết quả đo đạc, xem xét thẩm định tại chỗ, định giá tài sản: Thửa đất số 280 tờ
bản đồ số 14 tại xóm T xã G, huyện G có vị trí tứ cận như sau: Phía Đông giáp thổ
T7, Năm; phía Tây giáp thổ T8, L, Phường ,; phía Nam giáp đường trục xã, phía Bắc
giáp thổ Y, L1.
Trên đất có công trình xây dựng sau: bà M đang sử dụng 01 nhà mái bằng, phía
trước là sân đổ bê tông và ngõ. Có 01 bề nước, bếp tạm đã xuống cấp không còn giá
trị sử dụng; 01 nhà mái bằng hai tầng, công trình phụ phía sau lợp tôn, góc sân phía
trước có 1 bếp tạm do ông T3 sử dụng; 01 nhà mái bằng phía sau có gác lửng và
công trình phụ lợp tôn do ông C sử dụng.
- Giá trị quyền sử dụng đất: đất ở mặt đường là: 9.000.000 đồng, đất ở phía
trong là: 4.000.000 đồng, đất vườn, ao, đất nông nghiệp: 750.000 đồng; giá trị công
trình xây dựng trên đất: 756.186.000 đồng (của ông T3 sử dụng là 101.896.000 đồng,
ông C sử dụng là: 97.712.060 đồng, bà M sử dụng là 556.557.700 đồng).
6
Tại biên bản thu thập tài liệu chứng cứ, cơ sở xã G cung cấp như sau: Nguồn
gốc đất tranh chấp là của ông Q bà M. Về sự chênh lệch diện tích đất qua các lần đo
đạc, hiện trạng và Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất là do sai số khi đo đạc và do
các bên chỉ mốc giới.
Kiểm sát viên tham gia phiên tòa phát biểu ý kiến: Thẩm phán đã chấp hành
đúng quy định của Bộ luật Tố tụng Dân sự trong quá trình giải quyết vụ án. Tại phiên
tòa, Hội đồng xét xử đã thực hiện đúng các quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự;
Thư ký phiên tòa cũng đã thực hiện đúng nhiệm vụ quyền hạn theo quy định của Bộ
luật Tố tụng dân sự. Đương sự đã chấp hành đúng các quy định của Bộ luật Tố tụng
dân sự. Về quan điểm giải quyết vụ án: Đề nghị Tòa án chấp nhận yêu cầ u khơ
̉
i kiê
̣
n
của nguyên đơn, yêu cầu của ông T3, ông C. Ông Phạm Văn N được quyền sở hữu,
sử dụng là 493 m
2
đất và tài sản trên đất tại thửa số 89 tờ bản đồ số 14 và diện tích
đất 28m
2
tại xóm T xã G. Ông Phạm Văn T3 được quyền sở hữu, sử dụng là 141 m
2
đất và tài sản trên đất tại xóm T xã G. Ông Phạm Văn C được quyền sở hữu, sử dụng
là 154 m
2
đất và tài sản trên đất xóm T xã G. Chấp nhận sự tự nguyện của ông C
thanh toán cho ông T1 130.000.000 đồng (đã thanh toán), ông T3 130.000.000 đồng,
ông N 108.000.000 đồng. Không chấp nhận yêu cầu của ông T1. Đương sự phải nộp
và được miễn án phí theo quy định của pháp luật.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
[1] Về tố tụng: Cụ Đinh Thị M, bà Phạm Thị T, Ủy ban nhân dân xã G đề nghị
vắng mặt tại phiên tòa. Vì vậy, căn cứ vào Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự, Hội
đồng tiếp tục xét xử.
[2] Ông Phạm Văn N đề nghị Tòa án công nhận quyền sử dụng 505m
2
đất tại
thửa số thửa 89 tờ bản đồ số 14, tại xóm T xã G, huyện G, theo di chúc của cụ Q và
việc tặng cho của cụ M; ông C đề nghị Tòa án công nhận diện tích đất đã được bố
mẹ cho và phần diện tích nhận chuyển nhượng của ông T1 155 m
2
; ông Tiêu đề n
Tòa án công nhận diện tích đất đã được bố mẹ cho và phần diện tích nhận chuyển
nhượng của ông T1 135 m
2
; ông T1 đề nghị Tòa án công nhận diện tích đất đã được
bố mẹ cho, nếu không các anh em trong gia đình phải thanh toán tiền cho ông; nên
xác định quan hệ pháp luật là “Tranh chấp thừa kế tài sản và tặng cho tài sản”.
[3] Cụ Phạm Văn Q (chết năm 2022) và cụ Đinh Thị M có 08 con chung (đã
chết 1 từ nhỏ) còn 7 gồm bà Phạm Thị T, ông là Phạm Văn N, ông Phạm Văn T1,
ông Phạm Văn P, ông Phạm Văn T2, ông Phạm Văn C và ông Phạm Văn T3.
[4] Thửa đất số 280, diện tích đất 795m
2
tờ bản đồ số 14, tại xóm H xã G, huyện
7
G, đất đã được Sở tài nguyên môi trường cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất
ngày 05/01/2022 mang tên ông Phạm Văn Q và bà Đinh Thị M (trong đó đất ở 190
m
2
, đất chuyên trồng lúa nước 375 m
2
, đất nuôi trồng thủy sản 130 m
2
).
Ngoài ra, còn có công trình xây dựng trên đất, các đương sự không yêu cầu về
giá trị công trình xây dựng và không đề nghị Tòa án giải quyết; vì vậy Tòa án không
xem xét về tài sản trên đất và lấy diện tích đất đã được đo đạc thực tế làm cơ sở giải
quyết vụ án.
[5] Ngày 18/4/1998, hộ ông Phạm Văn Q được cấp Giấy chứng nhận QSDĐ
diện tích 135 m
2
đất ở tại thửa 73 tờ bản đồ số 15; 505 m
2
đất tại thửa 89 tờ bản đồ
số 14 trong đó 375 m
2
hai vụ lúa, 130 m
2
ao nuôi cá; 1432 m
2
đất hai vụ lúa tại thửa
số 102/2 tờ bản đồ số 10
Ngày 15/7/2010, hộ ông Phạm Văn C và bà Phùng Thị V1 đã được UBND
huyện G cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đối với diện tích đất 155 m
2
tại
thửa đất số 72 tờ bản đồ 15 tại xóm H xã G
Đến ngày 21/10/2021, vợ chồng ông C, bà V1 ký hợp đồng tặng cho quyền sử
dụng đất đối với thửa đất trên cho cụ Q và cụ M
Và cũng thời điểm này, cụ Q làm đơn đề nghị hợp thửa đất đối với thửa 73 tờ
bản đồ số 15; thửa 89 tờ bản đồ số 14 và thửa đất số 72 tờ bản đồ 15 tại xóm H xã
G và cơ quan đăng ký đất đai đã nhất trí đơn hợp thửa của cụ Q: Hợp thửa 72, 73 tờ
15; thửa 89 tờ 14 thành thửa 339 tờ 14.
Căn cứ tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, lời khai của các đương sự xác
định diện tích 155 m
2
, vợ chồng ông C đã được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng
đất ngày 15/7/2010 là tài sản đã tặng cho vợ chồng ông C; do đó, ông Phạm Văn C
đề nghị Tòa án công nhận diện tích đất 155 m
2
là có căn cứ chấp nhận (diện tích đo
đạc thực tế là 154m
2
).
[6] Vì vậy, tài sản chung của cụ Q và cụ M còn lại là 505 m
2
đất tại thửa 89 tờ
bản đồ số 14 và 135 m
2
đất thửa 73 tờ bản đồ số 15 (tên thửa trước đây), (diện tích
đo đạc thực tế là 493m
2
và 141m
2
).
[7] Ngày 08/9/2018, cụ M và cụ Q đã lập Di chúc thừa kế tài sản tại văn phòng
giao dịch một cửa của UBND xã G, có 02 người làm chứng là ông Phạm Văn T9,
ông Nguyễn Văn T10 và có xác nhận của phó Chủ tịch UBND xã G. Nội dung di
chúc, hai cụ để lại thửa đất số 73, tờ bản đồ số 15, diện tích 135 m
2
đất ở cho ông
Phạm Văn T3 và để lại thửa đất số 89 tờ bản đồ số 14 diện tích 505 m
2
, trong đó đất
chuyên trồng lúa nước 375 m
2
, 130 m
2
đất nuôi trồng thủy sản cho ông N. Hai cụ
8
lập di chúc trong trạng thái minh mẫn, sáng suốt, không bị ai ép buộc lừa dối.
[8] Cụ Q chết năm 2022; do đó một nửa di chúc là có hiệu lực pháp luật, ông
N được sử dụng 1/2 diện tích đất tại thửa số 89 tờ bản đồ số 14, tại xóm T, xã G; và
ông T3 được sử dụng 1/2 diện tích đất tại thửa số 73, tờ bản đồ số 15, tại xóm T, xã
G; nên ông N, ông T3 được quyền thừa kế tài sản của cụ Q theo di chúc.
[9] Di sản của cụ Q là ½ diện tích đất tại thửa số 73, tờ bản đồ số 15 và ½ diện
tích đất tại thửa số 89 tờ bản đồ số 14, tại xóm T, xã G; còn lại ½ diện tích đất tại
thửa số 73, tờ bản đồ số 15 và ½ diện tích đất tại thửa số 89 tờ bản đồ số 14, tại xóm
T, xã G thuộc quyền sử dụng của cụ M. Cụ M còn sống vẫn tiếp tục thể hiện nguyện
vọng để lại diện tích đất còn lại cho ông N và cho ông T3. Xét thấy việc tặng cho
này hoàn toàn tự nguyện, không vi phạm đạo đức, không vi phạm điều cấm của pháp
luật nên có căn cứ chấp nhận cho ông N được quyền sử dụng ½ diện tích đất tại thửa
số 89 tờ bản đồ số 14 và ông T3 được quyền sử dụng ½ diện tích đất tại thửa số 73,
tờ bản đồ số 15 còn lại của cụ M.
[10] Vì vậy, việc ông N đề nghị công nhận quyền sử dụng đất và tài sản trên
đất đối với 505 m
2
tại thửa đất số 89 tờ bản đồ số 14 và ông Tiêu đề n công nhận
quyền sử dụng đất và tài sản trên đất đối với 135 m
2
đất thửa đất số 73, tờ bản đồ số
15 tại xóm T, xã G, huyện G là có cơ sở chấp nhận (diện tích đo đạc thực tế là 493m
2
và 141m
2
).
[11] Đối với yêu cầu của ông Phạm Văn T1: đề nghị Tòa án công nhận 3,3 m
đất chiều rộng còn lại kéo dài 30m; và ông sẽ có trách nhiệm trả lại ông C
130.000.000 đồng, lãi 30.000.000 đồng; trả lại ông T2 65.000.000 đồng, lãi
20.000.000 đồng; nếu không đề nghị Tòa án buộc ông T2 trả tiếp cho ông 65.000.000
đồng, ông T3 130.000.000 đông, ông P 130.000.000 đồng; xét thấy phần diện tích
đất này có phần diện tích lối đi chung, diện tích đất của cụ Q, M đã cho ông T3, ông
C và trước đây các đương sự đã thống nhất cho đất nhau, các đương sự đã làm Giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất; do vậy chỉ có cơ sở chấp nhận ông T3, ông C tự
nguyện trả ông T1 130.000.000 đồng (ông C đã giao tiền cho ông T1), ông T2 đã
giao 65.000.000 đồng, ông T3 cũng nhận giao đủ khi làm xong thủ tục cấp Giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất. Chấp nhận sự tự nguyện của ông C, ông T3 thanh
toán cho ông T1 130.000.000 đồng (ông C đã thanh toán).
Ông T2 cho rằng, phần đất ông sử dụng trước là đất trũng ông phải quật lập
nhiều nên chỉ thanh toán cho ông T1 65.000.000 đồng (đã thanh toán). Xét thấy, khi
thanh toán, ông T1 và ông T2 không ghi nhận số tiền còn thiếu nên không chấp nhận
việc ông T1 yêu cầu ông T2 phải trả thêm 65.000.000 đồng.
9
Ông P cho rằng ông không biết việc thỏa thuận này và căn cứ các tài liệu có
trong hồ sơ vụ án không có đủ cơ sở chấp nhận yêu cầu của ông T1.
[12] Theo sơ đồ khảo sát thực địa do Công ty cổ phần T11 thực hiện ngày 12-
4-2024 và sau khi đối chiếu hình thể thửa đất, ranh giới của các thửa đất được thể
hiện tại Trích lục thửa đất với bản đồ giải thửa của các bản đồ địa chính xã G và giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất đã cấp cho các đương sự; Hội đồng xét xử nhận thấy
diện tích đất ông T3 đang sử dụng 110 m
2
(chiều rộng là 3,5m); diện tích đất ông C
đang sử dụng 136 m
2
(chiều rộng 4,52m). Như vậy diện tích nhà ông C và nhà ông
T3 vẫn còn được sử dụng tại phần đất trống giáp lối đi chúng (ông T3 thêm 1m và
ông C thêm 0,85m).
Từ khi cụ Q còn sống và hiện tại cụ M còn sống vẫn khẳng định đã cho đất ông
C và ông T3 do đó có cơ sở chấp nhận diện tích đã được cấp Giấy chứng nhận QSDĐ
cho ông C trước đây và diện tích cho ông T3 trong bản di chúc (diện tích đo đạc thực
tế nhà ông C là 136 m
2
đất, nhà ông T3 là 110 m
2
đất.
[13] Giữa lối đi vào đất chia cho ông Phạm Văn N, ông Phạm Văn C, ông Phạm
Văn T3 có lối đi chung với chiều rộng 1,5m, chiều dài 11,8 m, diện tích lối đi chung
17 m
2
.
Vì thửa đất số 89 (cũ) chia cho ông N ở phía trong nên cần có lối đi vào, mặc
dù phía trước là đã lối đi chung dài 11,8 m, rộng 1,5m nhưng phía sau là đất của ông
Q đã để lại cho ông T3 và ông C nên cần dành thêm lối đi vào phía đất phía trong
với chiều dài 18,9 m và 18,6m, rộng 1,5m nhưng các ông không đề nghị thanh toán
tiền mà chấp nhận để ông N thanh toán giá trị quyền sử dụng đất cho ông T1. Chấp
nhận sự tự nguyện của ông N thanh toán cho ông T1 108.000.000 đồng (vì ông N
cho rằng có được diện tích đất còn lại như hiện nay để làm thủ tục cấp Giấy chứng
nhận QSDD cho ông T3, ông C là do trước đây ông T1 có nhường đất cho các anh
em).
[14] Về lệ phí xem xét thẩm định và định giá tài sản: Ông N là người nộp các
chi phí tố tụng và không đề nghị Toà án không xem xét giải quyết đối với khoản tiền
này nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.
[15] Về án phí dân sự sơ thẩm: Do yêu cầu của nguyên đơn được chấp nhận
nên bị đơn phải nộp án phí. Ông C phải nộp án phí đối với việc tặng cho của bố mẹ.
Ông T3 phải nộp án phí đối với tài sản được chia. Ông T1, ông N có đơn xin miễn
án phí nên được miễn án phí.
10
[16] Về quyền kháng cáo: Các đương sự có quyền kháng cáo Bản án theo quy
định tại Điều 271 và Điều 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH:
1. Căn cứ vào: Căn cứ vào các Điều 611, 612, 613, 623, 650, 651 và Điều 660
của Bộ luật Dân sự; Điều 228, 238, Điều 271; Điều 147 và Điều 273 của Bộ luật Tố
tụng dân sự; Điều 12, Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày
30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí
và lệ phí Tòa án.
- Chấp nhận yêu cầ u khơ
̉
i kiê
̣
n của ông Phạm Văn N
Ông Phạm Văn N được quyền sở hữu, sử dụng là 493 m
2
đất và tài sản trên đất
tại thửa số 89 tờ bản đồ số 14 tại xóm T, xã G, huyện G đã được Sở tài nguyên môi
trường cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất ngày 05/01/2022.
Diện tích đất 28 m
2
với chiều dài là 18,9 m và 18,6m, chiều rộng là 1,5 m thuộc
quyền sử dụng của ông Phạm Văn N; có tứ cận: phía Đông giáp đất chia cho ông
T3, phía Tây giáp đất chia cho ông C, phía Nam giáp ngõ đi chung, phía Bắc giáp
đất chia cho ông N
- Chấp nhận yêu cầ u độc lập của ông Phạm Văn T3
Ông Phạm Văn T3 được quyền sở hữu, sử dụng là 141 m
2
đất và tài sản trên
đất tại thửa số 73, tờ bản đồ số 15 tại xóm T, xã G, huyện G đã được Sở tài nguyên
môi trường cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất ngày 05/01/2022
- Chấp nhận yêu cầ u độc lập của ông Phạm Văn C
Ông Phạm Văn C được quyền sở hữu, sử dụng là 154 m
2
đất và tài sản trên đất
tại thửa số 73, tờ bản đồ số 15 tại xóm T, xã G, huyện G đã được Sở tài nguyên môi
trường cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất ngày 05/01/2022.
(Các đương sự có trách nhiệm liên hệ với cơ quan Nhà nước có thẩm quyền để
làm thủ tục cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất theo quy định của pháp luật).
- Không chấp nhận yêu cầ u độc lập của ông Phạm Văn T1
- Chấp nhận sự tự nguyện của ông Phạm Văn T3 thanh toán cho ông Phạm Văn
T1 130.000.000 đồng.
- Chấp nhận sự tự nguyện của ông Phạm Văn N thanh toán cho ông Phạm Văn
T1 108.000.000 đồng.
11
Kể từ thời điểm có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án cho đến
khi thi hành án xong tất cả các khoản tiền, hàng tháng bên phải thi hành án còn phải
chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại
khoản 2 Điều 468 Bộ luật dân sự.
2. Về án phí: Miễn án phí cho ông Phạm Văn N và ông Phạm Văn T1.
Ông Phạm Văn P phải nộp 2.310.000 đồng
Ông Phạm Văn C phải nộp 300.000 đồng, ông C đã nộp tạm ứng án phí
7.500.000 đồng tại biên lai thu số 004645 ngày 13/6/2024 của Chi cục Thi hành án
dân sự huyện Giao Thủy, tỉnh Nam Định; trả lại ông C 7.200.000 đồng.
Ông Phạm Văn T3 phải nộp 50.000.000 đồng; ông T3 đã nộp tạm ứng án phí
5.000.000 đồng tại biên lai thu số 004646 ngày 13/6/2024 của Chi cục Thi hành án
dân sự huyện Giao Thủy, tỉnh Nam Định; nay ông T3 phải nộp 45.070.000 đồng.
3. Về quyền kháng cáo: Đương sự có mặt có quyền kháng cáo trong hạn 15
ngày kể từ ngày tuyên án. Đương sự vắng mặt có quyền kháng cáo bản án trong hạn
15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định của
pháp luật.
Trong trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2
Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án, người phải thi hành án có quyền
thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị
cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự;
thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân
sự.
Nơi nhận:
- Các đương sự;
- VKSND tỉnh Nam Định;
- VKSND huyện Giao Thủy
- Chi cục THADS huyện Giao Thủy;
- Lưu hồ sơ vụ án.
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ SƠ THẨM
THẨM PHÁN – CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
Trần Thị Thu Hiền
12
Tải về
Bản án số 27/2024/DS-ST
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án số 27/2024/DS-ST
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án/ Quyết định cùng đối tượng
1
Ban hành: 25/11/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
2
Ban hành: 21/11/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
3
Ban hành: 18/11/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
4
Ban hành: 11/11/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
5
Ban hành: 05/11/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
6
Ban hành: 05/11/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
7
Ban hành: 28/10/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
8
Ban hành: 25/10/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
9
Ban hành: 24/10/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
10
Ban hành: 23/10/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
11
Ban hành: 23/10/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
12
Ban hành: 30/09/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
13
Ban hành: 30/09/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
14
Ban hành: 30/09/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
15
Ban hành: 30/09/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
16
Ban hành: 30/09/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
17
Ban hành: 29/09/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
18
Ban hành: 28/09/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
19
Ban hành: 28/09/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
20
Ban hành: 27/09/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm