Bản án số 262/2025/DS-PT ngày 30/05/2025 của TAND tỉnh Bến Tre về tranh chấp quyền sử dụng đất

  • Thuộc tính
  • Nội dung
  • VB gốc
  • VB liên quan
  • Lược đồ
  • Đính chính
  • Án lệ
  • BA/QĐ cùng nội dung
  • Tải về
Tải văn bản
Báo lỗi
  • Gửi liên kết tới Email
  • Chia sẻ:
  • Chế độ xem: Sáng | Tối
  • Thay đổi cỡ chữ:
    17

Thuộc tính Bản án 262/2025/DS-PT

Tên Bản án: Bản án số 262/2025/DS-PT ngày 30/05/2025 của TAND tỉnh Bến Tre về tranh chấp quyền sử dụng đất
Quan hệ pháp luật: Tranh chấp quyền sử dụng đất
Cấp xét xử: Phúc thẩm
Tòa án xét xử: TAND tỉnh Bến Tre
Số hiệu: 262/2025/DS-PT
Loại văn bản: Bản án
Ngày ban hành: 30/05/2025
Lĩnh vực: Dân sự
Áp dụng án lệ:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Đính chính:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Thông tin về vụ/việc: Không chấp nhận kháng cáo của bị đơn
Tóm tắt Bản án

Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!

Tải văn bản

1
TÒA ÁN NHÂN DÂN
TỈNH BẾN TRE
Bản án số: 262/2025/DS-PT
Ngày: 30 - 5 - 2025
V/v tranh chấp quyền sử dụng đất
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH BẾN TRE
- Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa:
Bà Phạm Thị Thu Trang
Các Thẩm phán:
Ông Phạm Văn Tỉnh
Ông Phạm Văn Ngọt
- Thư phiên tòa: Huỳnh Triệu Anh Thư - TTòa án nhân dân
tỉnh Bến Tre.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bến Tre tham gia phiên tòa: Ông
Nguyễn Khắc Phiên - Kiểm sát viên.
Ngày 30 tháng 5 năm 2025, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Bến Tre xét xử
phúc thẩm công khai ván dân sự thụ số 89/2025/TLPT-DS ngày 31 tháng 3
năm 2025 về “Tranh chấp quyền sử dụng đất”.
Do Bản án dân sự sơ thẩm số 214/2024/DS-ST ngày 24 tháng 12 năm 2024
của Tòa án nhân dân huyện Ba Tri, tỉnh Bến Tre bị kháng cáo.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số 1352/2025/QĐXXPT-
DS ngày 21 tháng 4 năm 2025 Quyết định hoãn phiên tòa phúc thẩm s
1600/2025/QĐ-PT ngày 12 tháng 5 năm 2025, giữa các đương sự:
1. Nguyên đơn:
Ông Lê Thanh V, sinh năm 1954;
Ông Lê Khắc V1, sinh năm 1981;
Cùng địa chỉ: ấp A, xã A, huyện B, tỉnh Bến Tre.
Người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn:
Ông Võ Trần D, sinh năm 1992; (có mặt)
Địa chỉ: ấp H, xã H, huyện G, tỉnh Bến Tre.
2
2. Bị đơn:
Tôn Thị L, sinh năm 1950; (có mặt)
Địa chỉ: Số B, ấp A, xã A, huyện B, tỉnh Bến Tre.
Người đại diện theo ủy quyền của bị đơn:
Ông Đặng Thanh T, sinh năm 1990; (có mặt)
Địa chỉ: ấp L, xã L, huyện B, tỉnh Bến Tre.
Người bảo vệ quyền lợi ích hợp pháp của bị đơn: Ông Văn M - Luật
sư Văn phòng Luật sư Lê Vũ Hồng H thuộc Đoàn Luật sư tỉnh B. (có mặt)
3. Người kháng cáo:Tôn Thị L, là bị đơn.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Theo nội dung bản án sơ thẩm,
Theo đơn khởi kiện, trong quá trình tố tụng và tại phiên tòa sơ thẩm, người
đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn ông Thanh V ông Khắc V1
ông Võ Trần D trình bày:
Ông V, ông V1 là chủ sở hữu quyền sử dụng thửa đất số 238, tờ bản đồ số
18 (theo số liệu thuộc thửa 80 193, cùng tờ bản đồ số 13), diện tích
1.330,3m
2
, tọa lạc tại A, huyện B, tỉnh Bến Tre theo giấy chứng nhận quyền
sử dụng thửa đất sphát hành CC 911067 do y ban nhân dân huyện B cấp
ngày 22/12/2015. Giáp ranh với thửa đất này của hai ông là thửa đất số 81, tờ
bản đồ số 13 (theo số liệu Vlap thuộc thửa đất số 239, tờ bản đồ số 18), diện tích
1.413m
2
, tọa lạc tại A, huyện B, tỉnh Bến Tre do Tôn Thị L quản sử
dụng và đứng tên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.
Đến năm 2015, đo đạc theo dự án V, ông V L đã thỏa thuận thống
nhất cắm cột mốc phân chia ranh giới giữa hai thửa đất nêu trên, đồng thời ông
V ông V1 cũng đã được Ủy ban nhân dân huyện B cấp giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất theo số liệu Vlap đối với thửa đất nêu trên.
Đến khoảng năm 2016, nguyên đơn tiến hành xây dựng hàng rào trên
thửa đất số 238, tờ bản đồ số 18 thì L lấn chiếm thửa này của nguyên đơn
chiều ngang khoảng 02m, chiều dài khoảng 117m, diện tích khoảng 234m
2
thuộc một phần thửa đất số 238, tờ bản đồ số 18, tọa lạc tại A, huyện B, tỉnh
Bến Tre.
Mặc nguyên đơn đã rất nhiều lần yêu cầu Tôn Thị L hoàn trả cho
nguyên đơn phần đất đã lấn chiếm chiều ngang khoảng 02m, chiều dài
3
khoảng 117m, diện tích khoảng 234m
2
thuộc một phần thửa đất số 238, tờ bản
đồ số 18, tọa lạc tại A, huyện B, tỉnh Bến Tre nhưng bà L vẫn cố tình không
thực hiện.
Do vậy, ông V, ông V1 có làm đơn yêu cầu Ủy ban nhân dân xã A hòa giải
vụ việc nêu trên nhưng hòa giải không thành.
Do đó, nay ông V, ông V1 làm đơn khởi kiện yêu cầu Tòa án nhân dân
huyện Ba Tri giải quyết buộc Tôn Thị L trả cho ông V, ông phần đất đã
lấn chiếm có diện tích 53,9m
2
thuộc phần 2 của họa đồ hiện trạng ngày
28/4/2023, thuộc một phần thửa đất số 238, tờ bản đồ số 18, diện tích 1.330,3m
2
,
tọa lạc tại xã A, huyện B, tỉnh Bến Tre.
Trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa, bị đơn bà Tôn Thị L trình
bày:
Bà đang quản lý, sử dụng thửa đất 239 tờ bản đồ số 18. Về nguồn gốc phần
đất này của nội chồng bà, sau đó nội chồng để lại cho cha chồng tên
Đặng Văn Đ, sau đó ông Đ để lại cho ông Đặng Văn L1 chồng bà. Khi để lại
không biết diện tích bao nhiêu, chỉ biết gần 05 tầm, mỗi tầm 2,5m. Khi
để lại không giấy tờ; khi cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thì ông L1
chồng là người đăng khai để được cấp sổ; sau khi ông L1 mất thì sang
nguyên sổ đỏ lại cho bà. Phần đất giữa các bên trước đây sử dụng không trụ
ranh mà chỉ có bờ và trồng dừa để làm ranh. Hiện tại, các bên xây hàng rào xung
quanh chứ đất của bà không có hàng rào.
Ông V, ông V1 khởi kiện yêu cầu trả lại phần đất 53,9m
2
ngang 1,04m
không đồng ý, chđồng ý trả lại 0,2m (2 tất). Trước đây tại các lần làm
việc tại Tòa án bà có thỏa thuận cắm ranh theo sự chỉ ranh của ông V, nhưng đó
người ông V cắm ranh sau đó con về nói mất đất nhiều quá nên
không đồng ý phần ranh đó nên không thỏa thuận được.
Do hòa giải không thành, Tòa án nhân dân huyện Ba Tri đưa vụ án ra xét
xử.
Tại Bản án dân sự sơ thẩm số 214/2024/DS-ST ngày 24 tháng 12 năm 2024
của Tòa án nhân dân huyện Ba Tri, tỉnh Bến Tre đã tuyên:
Áp dụng các điều 197, 199, 221 Bộ luật Dân sự năm 2015, các điều 92, 244
Bộ luật Tố tụng dân sự; các Điều 95, 97 Luật Đất đai, Nghị quyết số
326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của y ban Thường vụ Quốc hội quy
định về án phí, lệ phí Tòa án.
4
Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn ông Thanh V, ông
Khắc V1 về việc tranh chấp quyền sử dụng đất với bà Tôn Thị Lan
Buộc bị đơn Tôn Thị L phải nghĩa vụ trả lại cho nguyên đơn ông
Thanh V, ông Khắc V1 phần đất diện tích 53,9m
2
thuộc phần 2 họa đồ
hiện trạng thửa đất tranh chấp ngày 28/4/2023 của Chi nhánh Văn phòng Đăng
ký đất huyện B.
Ngoài ra, bản án còn tuyên chi phí tố tụng, án phí quyền kháng cáo của
các đương sự.
Ngày 02/01/2025, bị đơn Tôn Thị L kháng cáo toàn bộ bản án thẩm,
đề nghị sửa bản án thẩm theo hướng không chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi
kiện của nguyên đơn.
Tại phiên tòa phúc thẩm:
Người đại diện theo ủy quyền của bị đơn trình bày bị đơn vẫn giữ nguyên
yêu cầu kháng cáo.
Người bảo vệ quyền lợi ích hợp pháp của bị đơn đề nghị Hội đồng xét
xử xem xét chấp nhận kháng cáo của bị đơn, sửa Bản án thẩm, không chấp
nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn hoặc trường hợp cần thiết thì hủy Bản
án sơ thẩm để xét xử lại theo quy định.
Người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn trình bày nguyên đơn không
đồng ý với kháng cáo của bị đơn, đề nghị giữ nguyên Bản án sơ thẩm.
Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bến Tre tham gia phiên tòa phát
biểu ý kiến:
- Về tố tụng: Những người tiến hành tố tụng đã tuân theo đúng các quy
định của pháp luật tố tụng, những người tham gia tố tụng thực hiện đúng quyền
và nghĩa vụ theo quy định của pháp luật tố tụng.
- Vnội dung: Đề nghị Hội đồng xét xcăn cứ khoản 2 Điều 308, Điều
309 của Bộ luật Tố tụng dân sự, chấp nhận kháng cáo của bị đơn, sửa Bản án
thẩm theo hướng không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, giữ
nguyên hiện trạng sử dụng đất.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Sau khi nghiên cứu các tài liệu chứng cứ trong hồ ván được thẩm
tra tại phiên tòa; căn cứ vào kết quả tranh tụng của tại phiên tòa; ý kiến đề nghị
của Kiểm sát viên; xét kháng cáo bị đơn Tôn Thị L; Hội đồng xét xử nhận
5
định:
[1] V t tng:
Bị đơn Tôn Thị L kháng cáo thực hiện các thủ tục kháng cáo hợp lệ,
trong thời hạn luật định nên được xem xét giải quyết theo trình tự phúc thẩm.
Tại phiên tòa phúc thẩm, người bảo vệ quyền lợi ích hợp pháp của L
cho rằng khi đo đạc giải quyết vụ án này ngày 28/3/2023, L không tên
vào Biên bản vviệc xác định mốc ranh giới thửa đất Bản tả ranh giới,
mốc giới thửa đất cùng ngày 28/3/2023. Chữ ký trong Biên bản về việc xác định
mốc ranh giới thửa đất Bản tả ranh giới, mốc giới thửa đất cùng ngày
28/3/2023 không phải là chữ ký của bà L.
Tuy nhiên, L tham gia tên trong Biên bản về việc đo đạc thực
tế Biên bản xem xét, thẩm định tại chỗ ngày 28/3/2023. Đồng thời, trong quá
trình giải quyết vụ án tại phiên tòa thẩm, L cũng không ý kiến v
kết quả đo đạc, không yêu cầu giám định chữ nên việc L cho rằng chữ
trong Biên bản về việc xác định mốc ranh giới thửa đất Bản tả ranh
giới, mốc giới thửa đất cùng ngày 28/3/2023 không phải chữ của
không căn cứ chứng minh. Tại phiên tòa phúc thẩm, bà L cũng không có yêu
cầu giám định chữ hay thu thập chứng cứ thêm nên Hội đồng xét xử tiếp
tục giải quyết vụ án theo quy định pháp luật.
[2] V ni dung:
Nguyên đơn ông Lê Thanh V, ông Lê Khắc V1 yêu cầu bị đơn bà Tôn Thị
L phải trả lại phần đất lấn chiếm qua đo đạc thực tế diện tích 53,9m
2
thuộc
phần (2) Họa đồ hiện trạng thửa đất ngày 28/4/2023 của Chi nhánh Văn phòng
Đăng đất đai huyện B thuộc một phần thửa đất số 238, tờ bản đồ số 18, diện
tích 1.330,3m
2
tọa lạc tại xã A, huyện B, tỉnh Bến Tre.
Bị đơn bà Tôn Thị L không đồng ý với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.
Xét kháng cáo của bị đơn bà Tôn Thị L, Hội đồng xét xử xét thấy:
[2.1] Theo nguyên đơn trình bày đất có nguồn gốc do ông bà để lại, trước
đây được cấp quyền sdụng cho hộ ông Thanh V Ngô Bích L2 vào
năm 1990. Đến ngày 17/3/1997, đất được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng
đất diện tích 1.536m
2
đến năm 2015 đo đạc lại diện tích còn 1.330,3m
2
được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho hộ ông Lê Thanh V. Hộ ông V
gồm hai thành viên là ông Lê Thanh V và Lê Khắc V1.
6
Bị đơn Tôn Thị L cho rằng nguồn gốc phần đất tranh chấp của ông
nội chồng bà, sau đó, nội chồng để lại cho cha chồng bà tên Đặng Văn Đ,
sau đó ông Đ để lại cho chồng Đặng Văn L1. Khi để lại không biết cụ
thể diện tích bao nhiêu, chỉ biết gần 05 tầm, mỗi tầm 2,5m. Khi để lại không
có giấy tờ gì, khi cấp giấy chng nhận quyền sử dụng đất thì ông L1 chồng bà là
người kê khai đăng ký để được cấp sổ, sau khi ông L1 mất thì sang nguyên sổ đỏ
lại cho bà. Phần đất giữa các bên trước đây sử dụng không có trụ ranh mà chỉ có
bờ trồng dừa để làm ranh. Phần đất hiện tại các bên đã xây hàng rào xung
quanh chứ đất của bà không có hàng rào. người quản lý, sử dụng phần đất
tranh chấp trên sau khi ông Đặng Văn L1 chết cho đến nay.
[2.2] Xét thấy, về nguồn gốc quá trình sử dụng đất tranh chấp các bên
đều cho rằng là đất của ông bà để lại. Tổng diện tích của thửa số 81, tờ bản đồ s
13 (theo số liệu Vlap thuộc thửa số 239, tờ bản đồ số 18) tọa lạc tại A, huyện
B do Tôn Thị L đứng tên giấy chứng nhận do sự sai sót cụ thể theo họa
đồ ngày 28/7/2020 diện tích 1.413m
2
; theo họa đồ ngày 20/9/2023 diện tích
1.165,7m
2
; theo hiện trạng L chỉ ranh 1.216,7m
2
; so với giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất là giảm 196,3m
2
; so với bản đồ địa chính là tăng 51m
2
.
Đối với thửa số 238, tờ bản đồ số 18, tọa lạc tại A thì được nhập lại từ
hai thửa 80 và 193 tổng diện tích 1.536m
2
được cấp giấy chứng nhận quyền s
dụng đất vào năm 1997 khi nhập lại thành thửa 238 được cấp giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất năm 2015 thì diện tích 1.330,3m
2
theo hiện trạng
ông V chỉ ranh 1.327m
2
; so với giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cấp năm
1997 giảm 205,7m
2
; so với hiện trạng sử dụng giảm 209m
2
.
Theo diện tích đất thực tế hiện trạng sử dụng đất của các bên đều thiếu
so với giấy chứng nhận quyền sử dụng đất lúc ban đầu. Tuy nhiên theo số liệu
V2 mới, đất của ông V 1.330,3m
2
; đất của L còn lại 1.165,7m
2
; phần hiện
trạng của ông V còn thiếu, phần hiện trạng của L thì dư. Nếu cộng lại phần
diện tích đất tranh chấp 53,9m
2
thì đất của ông V vẫn thiếu so với giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất. Đối với phần đất của bà L, nếu trừ phần diện tích tranh
chấp (phần 2) thì diện tích đất của bà L vẫn đúng theo họa đồ hiện trạng.
Nguyên đơn trình bày quá trình quản , sdụng phần đất tranh chấp hộ
của nguyên đơn quản sử dụng phần đất từ năm 1990, đến năm 2015 khi đo
đạc theo dự án V thì ông V và bà L đã thỏa thuận thống nhất cắm mốc phân chia
ranh giới giữa hai thửa đất nhưng nguyên đơn không có tài liệu, chứng cứ chứng
minh vấn đề này.
7
Tuy nhiên, hộ ông V đã được Ủy ban nhân dân huyện B cấp giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất theo đo đạc V2 và bà L cũng không có khiếu nại về việc
cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho hộ ông V. Theo Bản tả ranh
giới, mốc giới thửa đất ngày 17/5/2014 khi đo đạc Vlap thì ranh giới giữa thửa
đất của hộ ông V với thửa đất của bà L có trụ bê tông nhưng ông V cho rằng sau
đó L đã nhổ trụ bê tông và sử dụng lấn qua thửa đất của hộ ông V nên xảy ra
tranh chấp. Năm 2019, ông V, ông V1 khởi kiện vụ án tranh chấp quyền sử dụng
đất, yêu cầu L trả lại phần đất lấn chiếm. Vụ án được Tòa án nhân dân huyện
Ba Tri thụ lý số 309/2019/TLST-DS ngày 17 tháng 12 năm 2019. Trong quá
trình giải quyết vụ án, Tòa án nhân dân huyện Ba Tri phối hợp với Chi nhánh
Văn phòng Đăng đất đai huyện B tiến hành đo đạc vào ngày 04/3/2020. Tuy
nhiên, tại buổi đo đạc, các đương sự trong vụ án ông V, ông V1L đã tự
nguyện thỏa thuận xuống trụ ranh thống nhất, không yêu cầu đo đạc không
tranh chấp nữa, các bên đã thống nhất ký tên vào biên bản đo đạc dưới sự chứng
kiến của Tòa án Chi nhánh Văn phòng Đăng đất đai huyện B. Ngày
04/3/2020, ông V, ông V1 đơn xin rút đơn khởi kiện với do các đương sự
đã thống nhất được ranh đất với nhau. Ngày 04/3/2020, Tòa án nhân dân huyện
Ba Tri đã ban hành Quyết định đình chỉ giải quyết vụ án số 16/2020/QĐST-DS.
Tại Điều 175 của Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định: “1. Ranh giới giữa
các bất động sản liền kề được xác định theo thỏa thuận hoặc theo quyết định
của cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Ranh giới cũng có thể được xác định theo
tập quán hoặc theo ranh giới đã tồn tại từ 30 năm trở lên không tranh
chấp. Không được lấn, chiếm, thay đổi mốc giới ngăn cách, kể cả trường hợp
ranh giới kênh, mương, hào, rãnh, bờ ruộng. Mọi chủ thể nghĩa vụ tôn
trọng, duy trì ranh giới chung.”
Do đó, ranh đất giữa các bên đã được xác lập vào ngày 04/3/2020. Việc t
thỏa thuận ranh đất của các đương sự dựa trên ý chí tinh thần tự nguyện,
không ai ép buộc. Theo nguyên đơn trình bày thì nguyên đơn làm hàng rào
lưới B40 để phục vụ cho việc chăn nuôi, vị trí của hàng rào là chưa đến ranh đất,
trụ ranh các bên thỏa thuận cắm vào ngày 04/3/2020 nằm ngoài hàng rào lưới
B40 của nguyên đơn làm.
Tuy nhiên, theo ông V, ông V1 trình bày thì do phía bà L thay đổi ý kiến và
nhổ trụ ranh nên ông V, ông V1 khởi kiện lại vụ án này.
Theo biên bản xem xét thẩm định tại chỗ ngày 28/3/2023 thì hiện trạng
phần đất tranh chấp chỉ có một số cây tạp không có giá trị, không thể hiện có trụ
ranh. Tại phiên tòa thẩm, người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn cung
8
cấp chứng cứ đoạn ghi hình về việc con L nhổ trụ ranh; bà L cũng thừa
nhận sự việc trên do con không đồng ý trụ ranh đã cấm với ông V nên
con mới nhổ trụ. Lời thừa nhận của L cũng phù hợp với lời trình bày của
người đại diện theo ủy quyền nguyên đơn nên đây tình tiết, sự kiện không
phải chứng minh theo quy định tại Điều 92 Bộ luật Tố tụng dân snăm 2015.
Theo đoạn ghi hình cũng thể hiện trụ ranh các bên thỏa thuận cắm vào ngày
04/3/2020 và bị con L nhổ nằm ngoài hàng rào lưới B40 của nguyên đơn.
Phần đất tranh chấp qua đo đạc thực tế diện tích 53,9m
2
thuộc phần (2) họa
đồ hiện trạng thửa đất ngày 28/4/2023 của Chi nhánh Văn phòng Đăng đất
đai huyện B.
[2.3] Từ những phân tích, nhận định nêu trên, Tòa án thẩm chấp nhận
yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, buộc Tôn Thị L phải nghĩa vụ trả lại
cho nguyên đơn ông Lê Thanh V, ông Khắc V1 phần đất có diện tích 53,9m
2
thuộc phần (2) họa đồ hiện trạng thửa đất tranh chấp ngày 28/4/2023 của Chi
nhánh Văn phòng Đăng ký đất huyện B là có căn cứ.
[3] Tại phiên tòa phúc thẩm, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của
L trình bày nguyên đơn ông V đang sử dụng một phần đất của L (ở vị trí khác
với vị trí phần đất tranh chấp trong vụ án này), tuy nhiên, trong vụ án này L
không yêu cầu gì. vậy, trường hợp L tranh chấp với nguyên đơn
phần đất ở vị trí khác thì có quyền khởi kiện vụ kiện khác nếu có yêu cầu.
[4] Tại phiên tòa phúc thẩm, L kháng cáo nhưng không cung cấp được
chứng cứ chứng minh cho kháng cáo của là căn cứ nên không được chấp
nhận.
[5] Quan điểm của người bảo vquyền lợi ích hợp pháp của bị đơn
không phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên không được chấp nhận.
[6] Quan điểm của đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bến Tre không
phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên không được chấp nhận.
[7] Về án phí dân sự phúc thẩm: Do Tôn Thị L người cao tuổi nên
được miễn án phí.
[8] Về chi phí tố tụng khác: Tổng số tiền chi phí thu thập chứng cứ ở cấp sơ
thẩm 4.795.000 (bốn triệu bảy trăm chín mươi lăm nghìn) đồng số tiền chi
phí thu thập chứng cứ cấp phúc thẩm 122.000 (một trăm hai mươi hai
nghìn) đồng.
9
Tại phiên tòa phúc thẩm, người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn
trình bày nguyên đơn ông Thanh V, ông Khắc V1 tự nguyện chịu số tiền
này đã nộp xong. vậy, Hội đồng xét xử điều chỉnh nội dung trong phn
quyết định của bản án về chi phí tố tụng khác theo hướng không buộc L trả
cho nguyên đơn ông Thanh V, ông Khắc V1 số tiền 4.795.000 (bốn triệu
bảy trăm chín mươi lăm nghìn) đồng.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ khoản 1 Điều 308 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015,
Không chấp nhận kháng cáo của bà Tôn Thị L.
Giữ nguyên Bản án dân sự thẩm số 214/2024/DS-ST ngày 24 tháng 12
năm 2024 của Tòa án nhân dân huyện Ba Tri, tỉnh Bến Tre.
Cụ thể tuyên:
Căn cứ các điều 175, 197, 199, 221 Bộ luật Dân sự năm 2015, các điều 95,
97 Luật Đất đai năm 2013;
Căn cứ các điều 147, 148 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015; Nghị quyết số
326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ
Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản sử dụng án phí
và lệ phí Tòa án.
1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Lê Thanh V, ông Lê Khắc V1.
Buộc bà Tôn Thị L phải trả lại cho ông Lê Thanh V, ông Lê Khắc V1 phần
đất diện tích 53,9m
2
thuộc phần (2) Họa đồ hiện trạng thửa đất tranh chấp
ngày 28/4/2023 của Chi nhánh Văn phòng Đăng ký đất huyện B.
(Có Họa đồ hiện trạng thửa đất tranh chấp kèm theo).
2. Về án phí:
2.1. Về án phí dân sự thẩm: Tôn Thị L người cao tuổi nên được
miễn án phí.
Hoàn trả cho ông Khắc V1 số tiền tạm ứng án plà 300.000 (ba trăm
nghìn) đồng theo biên lai thu tiền tạm ứng án phí số 0002755 ngày 22/6/2020 tại
Chi cục Thi hành án dân sự huyện Ba Tri.
2.2. V án phí dân sự phúc thm: Bà Tôn Thị L người cao tuổi nên được
10
miễn án phí.
3. Về chi phí tố tụng khác:
Tổng số tiền chi phí thu thập chứng cứ cấp thẩm 4.795.000 (bốn
triệu bảy trăm chín mươi lăm nghìn) đồng và số tiền chi phí thu thập chứng cứ ở
cấp phúc thẩm 122.000 (một trăm hai mươi hai nghìn) đồng. Ông Thanh
V, ông Lê Khắc V1 tự nguyện chịu và đã nộp xong.
Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định Điều 2 Luật
Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án
dân sự quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện
thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo qui định tại các Điều 6, 7, 7a và 9
Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo qui định tại
Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Nơi nhận: TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM
- Các đương sự; THẨM PHÁN - CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
- VKSND tỉnh Bến Tre;
- TAND huyện Ba Tri;
- Chi cục THADS huyện Ba Tri;
- Phòng Thanh tra, Kiểm tra và
Thi hành án TAND tỉnh;
- Lưu hồ sơ vụ án, VP.
Phạm Thị Thu Trang
Tải về
Bản án số 262/2025/DS-PT Bản án số 262/2025/DS-PT

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án số 262/2025/DS-PT Bản án số 262/2025/DS-PT

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án/ Quyết định cùng đối tượng

Bản án cùng lĩnh vực

Bản án mới nhất