Bản án số 262/2025/DS-PT ngày 30/05/2025 của TAND tỉnh Bến Tre về tranh chấp quyền sử dụng đất
- Thuộc tính
- Nội dung
- VB gốc
- VB liên quan
- Lược đồ
- Đính chính
- Án lệ
- BA/QĐ cùng nội dung
- Tải về
Tải văn bản
-
Bản án số 262/2025/DS-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
-
Bản án số 262/2025/DS-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Báo lỗi
Thuộc tính Bản án 262/2025/DS-PT
Tên Bản án: | Bản án số 262/2025/DS-PT ngày 30/05/2025 của TAND tỉnh Bến Tre về tranh chấp quyền sử dụng đất |
---|---|
Quan hệ pháp luật: | Tranh chấp quyền sử dụng đất |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Tòa án xét xử: | TAND tỉnh Bến Tre |
Số hiệu: | 262/2025/DS-PT |
Loại văn bản: | Bản án |
Ngày ban hành: | 30/05/2025 |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Áp dụng án lệ: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Đính chính: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Thông tin về vụ/việc: | Không chấp nhận kháng cáo của bị đơn |
Tóm tắt Bản án
Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!
Tải văn bản

1
TÒA ÁN NHÂN DÂN
TỈNH BẾN TRE
Bản án số: 262/2025/DS-PT
Ngày: 30 - 5 - 2025
V/v tranh chấp quyền sử dụng đất
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH BẾN TRE
- Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa:
Bà Phạm Thị Thu Trang
Các Thẩm phán:
Ông Phạm Văn Tỉnh
Ông Phạm Văn Ngọt
- Thư ký phiên tòa: Bà Huỳnh Triệu Anh Thư - Thư ký Tòa án nhân dân
tỉnh Bến Tre.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bến Tre tham gia phiên tòa: Ông
Nguyễn Khắc Phiên - Kiểm sát viên.
Ngày 30 tháng 5 năm 2025, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Bến Tre xét xử
phúc thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số 89/2025/TLPT-DS ngày 31 tháng 3
năm 2025 về “Tranh chấp quyền sử dụng đất”.
Do Bản án dân sự sơ thẩm số 214/2024/DS-ST ngày 24 tháng 12 năm 2024
của Tòa án nhân dân huyện Ba Tri, tỉnh Bến Tre bị kháng cáo.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số 1352/2025/QĐXXPT-
DS ngày 21 tháng 4 năm 2025 và Quyết định hoãn phiên tòa phúc thẩm số
1600/2025/QĐ-PT ngày 12 tháng 5 năm 2025, giữa các đương sự:
1. Nguyên đơn:
Ông Lê Thanh V, sinh năm 1954;
Ông Lê Khắc V1, sinh năm 1981;
Cùng địa chỉ: ấp A, xã A, huyện B, tỉnh Bến Tre.
Người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn:
Ông Võ Trần D, sinh năm 1992; (có mặt)
Địa chỉ: ấp H, xã H, huyện G, tỉnh Bến Tre.
2
2. Bị đơn:
Bà Tôn Thị L, sinh năm 1950; (có mặt)
Địa chỉ: Số B, ấp A, xã A, huyện B, tỉnh Bến Tre.
Người đại diện theo ủy quyền của bị đơn:
Ông Đặng Thanh T, sinh năm 1990; (có mặt)
Địa chỉ: ấp L, xã L, huyện B, tỉnh Bến Tre.
Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị đơn: Ông Lê Văn M - Luật
sư Văn phòng Luật sư Lê Vũ Hồng H thuộc Đoàn Luật sư tỉnh B. (có mặt)
3. Người kháng cáo: Bà Tôn Thị L, là bị đơn.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Theo nội dung bản án sơ thẩm,
Theo đơn khởi kiện, trong quá trình tố tụng và tại phiên tòa sơ thẩm, người
đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn ông Lê Thanh V và ông Lê Khắc V1 là
ông Võ Trần D trình bày:
Ông V, ông V1 là chủ sở hữu quyền sử dụng thửa đất số 238, tờ bản đồ số
18 (theo số liệu cũ thuộc thửa 80 và 193, cùng tờ bản đồ số 13), diện tích
1.330,3m
2
, tọa lạc tại xã A, huyện B, tỉnh Bến Tre theo giấy chứng nhận quyền
sử dụng thửa đất số phát hành CC 911067 do Ủy ban nhân dân huyện B cấp
ngày 22/12/2015. Giáp ranh với thửa đất này của hai ông là thửa đất số 81, tờ
bản đồ số 13 (theo số liệu Vlap thuộc thửa đất số 239, tờ bản đồ số 18), diện tích
1.413m
2
, tọa lạc tại xã A, huyện B, tỉnh Bến Tre do bà Tôn Thị L quản lý sử
dụng và đứng tên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.
Đến năm 2015, đo đạc theo dự án V, ông V và bà L đã thỏa thuận thống
nhất cắm cột mốc phân chia ranh giới giữa hai thửa đất nêu trên, đồng thời ông
V và ông V1 cũng đã được Ủy ban nhân dân huyện B cấp giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất theo số liệu Vlap đối với thửa đất nêu trên.
Đến khoảng năm 2016, nguyên đơn có tiến hành xây dựng hàng rào trên
thửa đất số 238, tờ bản đồ số 18 thì bà L lấn chiếm thửa này của nguyên đơn có
chiều ngang khoảng 02m, chiều dài khoảng 117m, diện tích khoảng 234m
2
thuộc một phần thửa đất số 238, tờ bản đồ số 18, tọa lạc tại xã A, huyện B, tỉnh
Bến Tre.
Mặc dù nguyên đơn đã rất nhiều lần yêu cầu bà Tôn Thị L hoàn trả cho
nguyên đơn phần đất đã lấn chiếm có chiều ngang khoảng 02m, chiều dài
3
khoảng 117m, diện tích khoảng 234m
2
thuộc một phần thửa đất số 238, tờ bản
đồ số 18, tọa lạc tại xã A, huyện B, tỉnh Bến Tre nhưng bà L vẫn cố tình không
thực hiện.
Do vậy, ông V, ông V1 có làm đơn yêu cầu Ủy ban nhân dân xã A hòa giải
vụ việc nêu trên nhưng hòa giải không thành.
Do đó, nay ông V, ông V1 làm đơn khởi kiện yêu cầu Tòa án nhân dân
huyện Ba Tri giải quyết buộc bà Tôn Thị L trả cho ông V, ông Vũ phần đất đã
lấn chiếm có diện tích 53,9m
2
thuộc phần 2 của họa đồ hiện trạng ngày
28/4/2023, thuộc một phần thửa đất số 238, tờ bản đồ số 18, diện tích 1.330,3m
2
,
tọa lạc tại xã A, huyện B, tỉnh Bến Tre.
Trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa, bị đơn bà Tôn Thị L trình
bày:
Bà đang quản lý, sử dụng thửa đất 239 tờ bản đồ số 18. Về nguồn gốc phần
đất này là của bà nội chồng bà, sau đó bà nội chồng bà để lại cho cha chồng tên
Đặng Văn Đ, sau đó ông Đ để lại cho ông Đặng Văn L1 là chồng bà. Khi để lại
không biết diện tích là bao nhiêu, chỉ biết là gần 05 tầm, mỗi tầm là 2,5m. Khi
để lại không có giấy tờ; khi cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thì ông L1
chồng bà là người đăng ký kê khai để được cấp sổ; sau khi ông L1 mất thì sang
nguyên sổ đỏ lại cho bà. Phần đất giữa các bên trước đây sử dụng không có trụ
ranh mà chỉ có bờ và trồng dừa để làm ranh. Hiện tại, các bên xây hàng rào xung
quanh chứ đất của bà không có hàng rào.
Ông V, ông V1 khởi kiện yêu cầu bà trả lại phần đất 53,9m
2
ngang 1,04m
bà không đồng ý, bà chỉ đồng ý trả lại 0,2m (2 tất). Trước đây tại các lần làm
việc tại Tòa án bà có thỏa thuận cắm ranh theo sự chỉ ranh của ông V, nhưng đó
là người ông V cắm ranh sau đó con bà về nói là mất đất nhiều quá nên bà
không đồng ý phần ranh đó nên không thỏa thuận được.
Do hòa giải không thành, Tòa án nhân dân huyện Ba Tri đưa vụ án ra xét
xử.
Tại Bản án dân sự sơ thẩm số 214/2024/DS-ST ngày 24 tháng 12 năm 2024
của Tòa án nhân dân huyện Ba Tri, tỉnh Bến Tre đã tuyên:
Áp dụng các điều 197, 199, 221 Bộ luật Dân sự năm 2015, các điều 92, 244
Bộ luật Tố tụng dân sự; các Điều 95, 97 Luật Đất đai, Nghị quyết số
326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy
định về án phí, lệ phí Tòa án.
4
Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn ông Lê Thanh V, ông Lê
Khắc V1 về việc tranh chấp quyền sử dụng đất với bà Tôn Thị Lan
Buộc bị đơn bà Tôn Thị L phải có nghĩa vụ trả lại cho nguyên đơn ông Lê
Thanh V, ông Lê Khắc V1 phần đất có diện tích 53,9m
2
thuộc phần 2 họa đồ
hiện trạng thửa đất tranh chấp ngày 28/4/2023 của Chi nhánh Văn phòng Đăng
ký đất huyện B.
Ngoài ra, bản án còn tuyên chi phí tố tụng, án phí và quyền kháng cáo của
các đương sự.
Ngày 02/01/2025, bị đơn bà Tôn Thị L kháng cáo toàn bộ bản án sơ thẩm,
đề nghị sửa bản án sơ thẩm theo hướng không chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi
kiện của nguyên đơn.
Tại phiên tòa phúc thẩm:
Người đại diện theo ủy quyền của bị đơn trình bày bị đơn vẫn giữ nguyên
yêu cầu kháng cáo.
Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị đơn đề nghị Hội đồng xét
xử xem xét chấp nhận kháng cáo của bị đơn, sửa Bản án sơ thẩm, không chấp
nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn hoặc trường hợp cần thiết thì hủy Bản
án sơ thẩm để xét xử lại theo quy định.
Người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn trình bày nguyên đơn không
đồng ý với kháng cáo của bị đơn, đề nghị giữ nguyên Bản án sơ thẩm.
Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bến Tre tham gia phiên tòa phát
biểu ý kiến:
- Về tố tụng: Những người tiến hành tố tụng đã tuân theo đúng các quy
định của pháp luật tố tụng, những người tham gia tố tụng thực hiện đúng quyền
và nghĩa vụ theo quy định của pháp luật tố tụng.
- Về nội dung: Đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ khoản 2 Điều 308, Điều
309 của Bộ luật Tố tụng dân sự, chấp nhận kháng cáo của bị đơn, sửa Bản án sơ
thẩm theo hướng không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, giữ
nguyên hiện trạng sử dụng đất.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Sau khi nghiên cứu các tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ vụ án được thẩm
tra tại phiên tòa; căn cứ vào kết quả tranh tụng của tại phiên tòa; ý kiến đề nghị
của Kiểm sát viên; xét kháng cáo bị đơn bà Tôn Thị L; Hội đồng xét xử nhận
5
định:
[1] Về tố tụng:
Bị đơn bà Tôn Thị L kháng cáo và thực hiện các thủ tục kháng cáo hợp lệ,
trong thời hạn luật định nên được xem xét giải quyết theo trình tự phúc thẩm.
Tại phiên tòa phúc thẩm, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bà L
cho rằng khi đo đạc giải quyết vụ án này ngày 28/3/2023, bà L không có ký tên
vào Biên bản về việc xác định mốc ranh giới thửa đất và Bản mô tả ranh giới,
mốc giới thửa đất cùng ngày 28/3/2023. Chữ ký trong Biên bản về việc xác định
mốc ranh giới thửa đất và Bản mô tả ranh giới, mốc giới thửa đất cùng ngày
28/3/2023 không phải là chữ ký của bà L.
Tuy nhiên, bà L có tham gia và ký tên trong Biên bản về việc đo đạc thực
tế và Biên bản xem xét, thẩm định tại chỗ ngày 28/3/2023. Đồng thời, trong quá
trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa sơ thẩm, bà L cũng không có ý kiến gì về
kết quả đo đạc, không có yêu cầu giám định chữ ký nên việc bà L cho rằng chữ
ký trong Biên bản về việc xác định mốc ranh giới thửa đất và Bản mô tả ranh
giới, mốc giới thửa đất cùng ngày 28/3/2023 không phải là chữ ký của bà là
không có căn cứ chứng minh. Tại phiên tòa phúc thẩm, bà L cũng không có yêu
cầu giám định chữ ký hay thu thập chứng cứ gì thêm nên Hội đồng xét xử tiếp
tục giải quyết vụ án theo quy định pháp luật.
[2] Về nội dung:
Nguyên đơn ông Lê Thanh V, ông Lê Khắc V1 yêu cầu bị đơn bà Tôn Thị
L phải trả lại phần đất lấn chiếm qua đo đạc thực tế có diện tích 53,9m
2
thuộc
phần (2) Họa đồ hiện trạng thửa đất ngày 28/4/2023 của Chi nhánh Văn phòng
Đăng ký đất đai huyện B thuộc một phần thửa đất số 238, tờ bản đồ số 18, diện
tích 1.330,3m
2
tọa lạc tại xã A, huyện B, tỉnh Bến Tre.
Bị đơn bà Tôn Thị L không đồng ý với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.
Xét kháng cáo của bị đơn bà Tôn Thị L, Hội đồng xét xử xét thấy:
[2.1] Theo nguyên đơn trình bày đất có nguồn gốc do ông bà để lại, trước
đây được cấp quyền sử dụng cho hộ ông Lê Thanh V và bà Ngô Bích L2 vào
năm 1990. Đến ngày 17/3/1997, đất được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng
đất có diện tích 1.536m
2
đến năm 2015 đo đạc lại diện tích còn 1.330,3m
2
và
được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho hộ ông Lê Thanh V. Hộ ông V
gồm hai thành viên là ông Lê Thanh V và Lê Khắc V1.
6
Bị đơn bà Tôn Thị L cho rằng nguồn gốc phần đất tranh chấp là của ông
nội chồng bà, sau đó, bà nội chồng bà để lại cho cha chồng bà tên Đặng Văn Đ,
sau đó ông Đ để lại cho chồng bà là Đặng Văn L1. Khi để lại bà không biết cụ
thể diện tích bao nhiêu, chỉ biết gần 05 tầm, mỗi tầm là 2,5m. Khi để lại không
có giấy tờ gì, khi cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thì ông L1 chồng bà là
người kê khai đăng ký để được cấp sổ, sau khi ông L1 mất thì sang nguyên sổ đỏ
lại cho bà. Phần đất giữa các bên trước đây sử dụng không có trụ ranh mà chỉ có
bờ và trồng dừa để làm ranh. Phần đất bà hiện tại các bên đã xây hàng rào xung
quanh chứ đất của bà không có hàng rào. Bà là người quản lý, sử dụng phần đất
tranh chấp trên sau khi ông Đặng Văn L1 chết cho đến nay.
[2.2] Xét thấy, về nguồn gốc và quá trình sử dụng đất tranh chấp các bên
đều cho rằng là đất của ông bà để lại. Tổng diện tích của thửa số 81, tờ bản đồ số
13 (theo số liệu Vlap thuộc thửa số 239, tờ bản đồ số 18) tọa lạc tại xã A, huyện
B do bà Tôn Thị L đứng tên giấy chứng nhận là do có sự sai sót cụ thể theo họa
đồ ngày 28/7/2020 diện tích 1.413m
2
; theo họa đồ ngày 20/9/2023 có diện tích
1.165,7m
2
; theo hiện trạng bà L chỉ ranh là 1.216,7m
2
; so với giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất là giảm 196,3m
2
; so với bản đồ địa chính là tăng 51m
2
.
Đối với thửa số 238, tờ bản đồ số 18, tọa lạc tại xã A thì được nhập lại từ
hai thửa 80 và 193 tổng diện tích 1.536m
2
được cấp giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất vào năm 1997 và khi nhập lại thành thửa 238 được cấp giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất năm 2015 thì diện tích là 1.330,3m
2
và theo hiện trạng
ông V chỉ ranh là 1.327m
2
; so với giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cấp năm
1997 giảm 205,7m
2
; so với hiện trạng sử dụng giảm 209m
2
.
Theo diện tích đất và thực tế hiện trạng sử dụng đất của các bên đều thiếu
so với giấy chứng nhận quyền sử dụng đất lúc ban đầu. Tuy nhiên theo số liệu
V2 mới, đất của ông V là 1.330,3m
2
; đất của bà L còn lại 1.165,7m
2
; phần hiện
trạng của ông V còn thiếu, phần hiện trạng của bà L thì dư. Nếu cộng lại phần
diện tích đất tranh chấp 53,9m
2
thì đất của ông V vẫn thiếu so với giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất. Đối với phần đất của bà L, nếu trừ phần diện tích tranh
chấp (phần 2) thì diện tích đất của bà L vẫn đúng theo họa đồ hiện trạng.
Nguyên đơn trình bày quá trình quản lý, sử dụng phần đất tranh chấp hộ
của nguyên đơn quản lý sử dụng phần đất từ năm 1990, đến năm 2015 khi đo
đạc theo dự án V thì ông V và bà L đã thỏa thuận thống nhất cắm mốc phân chia
ranh giới giữa hai thửa đất nhưng nguyên đơn không có tài liệu, chứng cứ chứng
minh vấn đề này.
7
Tuy nhiên, hộ ông V đã được Ủy ban nhân dân huyện B cấp giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất theo đo đạc V2 và bà L cũng không có khiếu nại về việc
cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho hộ ông V. Theo Bản mô tả ranh
giới, mốc giới thửa đất ngày 17/5/2014 khi đo đạc Vlap thì ranh giới giữa thửa
đất của hộ ông V với thửa đất của bà L có trụ bê tông nhưng ông V cho rằng sau
đó bà L đã nhổ trụ bê tông và sử dụng lấn qua thửa đất của hộ ông V nên xảy ra
tranh chấp. Năm 2019, ông V, ông V1 khởi kiện vụ án tranh chấp quyền sử dụng
đất, yêu cầu bà L trả lại phần đất lấn chiếm. Vụ án được Tòa án nhân dân huyện
Ba Tri thụ lý số 309/2019/TLST-DS ngày 17 tháng 12 năm 2019. Trong quá
trình giải quyết vụ án, Tòa án nhân dân huyện Ba Tri phối hợp với Chi nhánh
Văn phòng Đăng ký đất đai huyện B tiến hành đo đạc vào ngày 04/3/2020. Tuy
nhiên, tại buổi đo đạc, các đương sự trong vụ án là ông V, ông V1 và bà L đã tự
nguyện thỏa thuận xuống trụ ranh thống nhất, không yêu cầu đo đạc và không
tranh chấp nữa, các bên đã thống nhất ký tên vào biên bản đo đạc dưới sự chứng
kiến của Tòa án và Chi nhánh Văn phòng Đăng ký đất đai huyện B. Ngày
04/3/2020, ông V, ông V1 có đơn xin rút đơn khởi kiện với lý do các đương sự
đã thống nhất được ranh đất với nhau. Ngày 04/3/2020, Tòa án nhân dân huyện
Ba Tri đã ban hành Quyết định đình chỉ giải quyết vụ án số 16/2020/QĐST-DS.
Tại Điều 175 của Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định: “1. Ranh giới giữa
các bất động sản liền kề được xác định theo thỏa thuận hoặc theo quyết định
của cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Ranh giới cũng có thể được xác định theo
tập quán hoặc theo ranh giới đã tồn tại từ 30 năm trở lên mà không có tranh
chấp. Không được lấn, chiếm, thay đổi mốc giới ngăn cách, kể cả trường hợp
ranh giới là kênh, mương, hào, rãnh, bờ ruộng. Mọi chủ thể có nghĩa vụ tôn
trọng, duy trì ranh giới chung.”
Do đó, ranh đất giữa các bên đã được xác lập vào ngày 04/3/2020. Việc tự
thỏa thuận ranh đất của các đương sự dựa trên ý chí và tinh thần tự nguyện,
không ai ép buộc. Theo nguyên đơn trình bày thì nguyên đơn có làm hàng rào
lưới B40 để phục vụ cho việc chăn nuôi, vị trí của hàng rào là chưa đến ranh đất,
trụ ranh các bên thỏa thuận cắm vào ngày 04/3/2020 nằm ngoài hàng rào lưới
B40 của nguyên đơn làm.
Tuy nhiên, theo ông V, ông V1 trình bày thì do phía bà L thay đổi ý kiến và
nhổ trụ ranh nên ông V, ông V1 khởi kiện lại vụ án này.
Theo biên bản xem xét thẩm định tại chỗ ngày 28/3/2023 thì hiện trạng
phần đất tranh chấp chỉ có một số cây tạp không có giá trị, không thể hiện có trụ
ranh. Tại phiên tòa sơ thẩm, người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn cung
8
cấp chứng cứ là đoạn ghi hình về việc con bà L nhổ trụ ranh; bà L cũng thừa
nhận sự việc trên là do con bà không đồng ý trụ ranh bà đã cấm với ông V nên
con bà mới nhổ trụ. Lời thừa nhận của bà L cũng phù hợp với lời trình bày của
người đại diện theo ủy quyền nguyên đơn nên đây là tình tiết, sự kiện không
phải chứng minh theo quy định tại Điều 92 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.
Theo đoạn ghi hình cũng thể hiện trụ ranh các bên thỏa thuận cắm vào ngày
04/3/2020 và bị con bà L nhổ là nằm ngoài hàng rào lưới B40 của nguyên đơn.
Phần đất tranh chấp qua đo đạc thực tế có diện tích 53,9m
2
thuộc phần (2) họa
đồ hiện trạng thửa đất ngày 28/4/2023 của Chi nhánh Văn phòng Đăng ký đất
đai huyện B.
[2.3] Từ những phân tích, nhận định nêu trên, Tòa án sơ thẩm chấp nhận
yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, buộc bà Tôn Thị L phải có nghĩa vụ trả lại
cho nguyên đơn ông Lê Thanh V, ông Lê Khắc V1 phần đất có diện tích 53,9m
2
thuộc phần (2) họa đồ hiện trạng thửa đất tranh chấp ngày 28/4/2023 của Chi
nhánh Văn phòng Đăng ký đất huyện B là có căn cứ.
[3] Tại phiên tòa phúc thẩm, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bà
L trình bày nguyên đơn ông V đang sử dụng một phần đất của bà L (ở vị trí khác
với vị trí phần đất tranh chấp trong vụ án này), tuy nhiên, trong vụ án này bà L
không có yêu cầu gì. Vì vậy, trường hợp bà L có tranh chấp với nguyên đơn
phần đất ở vị trí khác thì có quyền khởi kiện vụ kiện khác nếu có yêu cầu.
[4] Tại phiên tòa phúc thẩm, bà L kháng cáo nhưng không cung cấp được
chứng cứ chứng minh cho kháng cáo của bà là có căn cứ nên không được chấp
nhận.
[5] Quan điểm của người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị đơn là
không phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên không được chấp nhận.
[6] Quan điểm của đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bến Tre không
phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên không được chấp nhận.
[7] Về án phí dân sự phúc thẩm: Do bà Tôn Thị L là người cao tuổi nên
được miễn án phí.
[8] Về chi phí tố tụng khác: Tổng số tiền chi phí thu thập chứng cứ ở cấp sơ
thẩm là 4.795.000 (bốn triệu bảy trăm chín mươi lăm nghìn) đồng và số tiền chi
phí thu thập chứng cứ ở cấp phúc thẩm là 122.000 (một trăm hai mươi hai
nghìn) đồng.
9
Tại phiên tòa phúc thẩm, người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn
trình bày nguyên đơn ông Lê Thanh V, ông Lê Khắc V1 tự nguyện chịu số tiền
này và đã nộp xong. Vì vậy, Hội đồng xét xử điều chỉnh nội dung trong phần
quyết định của bản án về chi phí tố tụng khác theo hướng không buộc bà L trả
cho nguyên đơn ông Lê Thanh V, ông Lê Khắc V1 số tiền 4.795.000 (bốn triệu
bảy trăm chín mươi lăm nghìn) đồng.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ khoản 1 Điều 308 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015,
Không chấp nhận kháng cáo của bà Tôn Thị L.
Giữ nguyên Bản án dân sự sơ thẩm số 214/2024/DS-ST ngày 24 tháng 12
năm 2024 của Tòa án nhân dân huyện Ba Tri, tỉnh Bến Tre.
Cụ thể tuyên:
Căn cứ các điều 175, 197, 199, 221 Bộ luật Dân sự năm 2015, các điều 95,
97 Luật Đất đai năm 2013;
Căn cứ các điều 147, 148 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015; Nghị quyết số
326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ
Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí
và lệ phí Tòa án.
1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Lê Thanh V, ông Lê Khắc V1.
Buộc bà Tôn Thị L phải trả lại cho ông Lê Thanh V, ông Lê Khắc V1 phần
đất có diện tích 53,9m
2
thuộc phần (2) Họa đồ hiện trạng thửa đất tranh chấp
ngày 28/4/2023 của Chi nhánh Văn phòng Đăng ký đất huyện B.
(Có Họa đồ hiện trạng thửa đất tranh chấp kèm theo).
2. Về án phí:
2.1. Về án phí dân sự sơ thẩm: Bà Tôn Thị L là người cao tuổi nên được
miễn án phí.
Hoàn trả cho ông Lê Khắc V1 số tiền tạm ứng án phí là 300.000 (ba trăm
nghìn) đồng theo biên lai thu tiền tạm ứng án phí số 0002755 ngày 22/6/2020 tại
Chi cục Thi hành án dân sự huyện Ba Tri.
2.2. Về án phí dân sự phúc thẩm: Bà Tôn Thị L là người cao tuổi nên được
10
miễn án phí.
3. Về chi phí tố tụng khác:
Tổng số tiền chi phí thu thập chứng cứ ở cấp sơ thẩm là 4.795.000 (bốn
triệu bảy trăm chín mươi lăm nghìn) đồng và số tiền chi phí thu thập chứng cứ ở
cấp phúc thẩm là 122.000 (một trăm hai mươi hai nghìn) đồng. Ông Lê Thanh
V, ông Lê Khắc V1 tự nguyện chịu và đã nộp xong.
Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định Điều 2 Luật
Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án
dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện
thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo qui định tại các Điều 6, 7, 7a và 9
Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo qui định tại
Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Nơi nhận: TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM
- Các đương sự; THẨM PHÁN - CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
- VKSND tỉnh Bến Tre;
- TAND huyện Ba Tri;
- Chi cục THADS huyện Ba Tri;
- Phòng Thanh tra, Kiểm tra và
Thi hành án TAND tỉnh;
- Lưu hồ sơ vụ án, VP.
Phạm Thị Thu Trang
Tải về
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án/ Quyết định cùng đối tượng
1
Ban hành: 14/08/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
2
Ban hành: 14/08/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
3
Ban hành: 13/08/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
4
Ban hành: 12/08/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
5
Ban hành: 11/08/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
6
Ban hành: 08/08/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
7
Ban hành: 08/08/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
8
Ban hành: 08/08/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
9
Ban hành: 06/08/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
10
Ban hành: 06/08/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
11
Ban hành: 06/08/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
12
Ban hành: 06/08/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
13
Ban hành: 05/08/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
14
Ban hành: 01/08/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
15
Ban hành: 31/07/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
16
Ban hành: 30/07/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
17
Ban hành: 29/07/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
18
Ban hành: 25/07/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
19
Ban hành: 25/07/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
20
Ban hành: 24/07/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm