Bản án số 25/2025/DS-PT ngày 14/01/2025 của TAND tỉnh Đắk Lắk về tranh chấp hợp đồng vay tài sản

  • Thuộc tính
  • Nội dung
  • VB gốc
  • VB liên quan
  • Lược đồ
  • Đính chính
  • Án lệ
  • BA/QĐ cùng nội dung
  • Tải về
Tải văn bản
Báo lỗi
  • Gửi liên kết tới Email
  • Chia sẻ:
  • Chế độ xem: Sáng | Tối
  • Thay đổi cỡ chữ:
    17

Thuộc tính Bản án 25/2025/DS-PT

Tên Bản án: Bản án số 25/2025/DS-PT ngày 14/01/2025 của TAND tỉnh Đắk Lắk về tranh chấp hợp đồng vay tài sản
Quan hệ pháp luật: Tranh chấp hợp đồng vay tài sản
Cấp xét xử: Phúc thẩm
Tòa án xét xử: TAND tỉnh Đắk Lắk
Số hiệu: 25/2025/DS-PT
Loại văn bản: Bản án
Ngày ban hành: 14/01/2025
Lĩnh vực: Dân sự
Áp dụng án lệ:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Đính chính:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Thông tin về vụ/việc: Bà Đoàn Thị N khởi kiện yêu cầu bà Nguyễn Thị N và ông Phạm Hoài T phải trả số tiền là 92.500.000 đồng và 21 chỉ vàng.
Tóm tắt Bản án

Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!

Tải văn bản

1
TÒA ÁN NHÂN DÂN CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TỈNH ĐẮK LẮK Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
Bản án số: 25/2025/DS-PT
Ngày: 14 - 01 - 2025
“V/v: Tranh chấp hợp đồng vay tài sản”
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH ĐẮK LẮK
- Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa: Ông Trương Công Bình.
Các Thẩm phán: 1. Ông Nguyễn Văn Bằng;
2. Bà Nguyễn Thị Nhung.
- Thư phiên toà: Bà Lê Thị Hồng Yến - Thẩm tra viên Tòa án nhân dân tỉnh
Đắk Lắk.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đắk Lắk tham gia phiên tòa:
Thị Bích Thủy - Kiểm sát viên.
Ngày 14 tháng 01 năm 2025, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Lắk, xét xử
phúc thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số: 353/2024/TLPT-DS, ngày 13/11/2024,
về việc: “Tranh chấp hợp đồng vay tài sản”. Do Bản án dân sự thẩm số
25/2024/DS-ST ngày 30/8/2024 của Tòa án nhân dân huyện M’Đrắk, tỉnh Đắk Lắk
bị kháng cáo. Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 425/2024/QĐ-PT, ngày
20/12/2024 Quyết định hoãn phiên tòa số 01/2025/QĐ-PT ngày 02/01/2025, giữa
các đương sự:
1. Nguyên đơn: Đoàn Thị N, sinh năm 1956; địa chỉ: Tổ dân phố A, thị trấn
M, huyện M, tỉnh Đắk Lắk, vắng mặt và có đơn đề nghị xét xử vắng mặt.
2. Bị đơn: Ông Phạm Hoài T, sinh năm 1956 Nguyễn Thị H, sinh năm
1958; cùng địa chỉ: Thôn H, C, huyện M, tỉnh Đắk Lắk, vắng mặt đã đơn
đề nghị xét xử vắng mặt.
3. Người có quyn li, nghĩa v liên quan:
3.1. Ông Phạm Hoài Q, sinh năm 1983; nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: Thôn
H, xã C, huyện M, tỉnh Đắk Lắk; chỗ ở hiện nay: Đường A, phường T, thành phố B,
tỉnh Đắk Lắk, có mặt.
3.2. Nguyễn Minh T1, sinh năm 1992; địa chỉ: Thôn A, xã K, huyện M, tỉnh
Đắk Lắk, vắng mặt.
3.3. Ông Nguyễn Minh H1, sinh năm 1983; địa chỉ: Đường N, thị trấn M, huyện
M, tỉnh Đắk Lắk, vắng mặt.
3.4. Ông Nguyễn Minh T2, sinh năm 1985; địa chỉ: Đường H, phường T, thị
B, tỉnh Đắk Lắk, vắng mặt.
2
3.5. Ông Nguyễn Đoàn Ngọc S, sinh năm 1995; địa chỉ: Đường N, thị trấn M,
huyện M, tỉnh Đắk Lắk, vắng mặt.
4. Người kháng cáo: Bị đơn bà Nguyễn Thị H.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
*/ Theo đơn khởi kiện và quá trình giải quyết vụ án nguyên đơn bà Đoàn Thị N
trình bày có nội dung như sau:
Từ ngày 24/7/2011 âm lịch đến ngày 01/10/2011 âm lịch, vợ chồng ông Phạm
Hoài T, Nguyễn Thị H vay của Đoàn Thị N nhiều lần với tổng số tiền
92.500.000 đồng 21 chỉ vàng 9999, cụ thể n sau: Ngày 24/7/2011, vay
50.000.000 đồng và 06 chỉ vàng 9999; ngày 24/8/2011, vay 28.000.000 đồng; ngày
01/9/2011, vay 07 chỉ vàng 9999 và 3.000.000 đồng; ngày 3/9/2011, vay 1.500.000
đồng và 04 chỉ vàng 9999; ngày 18/9/2011 vay 10.000.000 đồng; ngày 01/10/2011,
vay 4 chỉ vàng 9999, khi vay các bên không thỏa thuận lãi suất và thời hạn trả nợ.
Việc N cho bà H vay tiền và vàng thì chồng và các con của N không biết.
Khi bà H vay tiền và vàng của bà N, thì đều có mặt của cả ông T nhưng chỉ có một
mình bà H xác nhận nợ. Vợ chồng ông T, bà H không nói mục đích vay để làm
gì, sau này bà N mới biết là vay để mua giống mía và phân bón. Khi vay, vợ chồng
ông T, bà H đưa cho N giấy tờ để làm tin 01 bản gốc giấy chứng nhận quyền
sử dụng đất số vào sổ cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số: H00812, thửa đất
số 07, tờ bản đồ số 93, diện tích: 4.628m
2
, địa chỉ thửa đất tại Thôn H, xã C, huyện
M, tỉnh Đắk Lắk do Ủy ban nhân dân huyện M cấp ngày 02/8/2007 mang tên ông
Phạm Hoài Q.
Sau đó, N đã nhiều lần gọi điện đến nhà yêu cầu vợ chồng ông T, H
phải trả tiền vàng đã vay nhưng cho đến nay vợ chồng ông T, H chưa thanh
toán cho bà N số tiền và vàng đã vay.
Do đó, bà N khởi kiện yêu cầu Tòa án buộc vợ chồng ông T, bà H phải trả cho
N số tiền 92.500.000 đồng và 21 chỉ vàng 9999, bà N không yêu cầu phải trả lãi
suất. Sau khi vợ chồng ông T, bà H hoàn trả hết số nợ thì N strả lại bản gốc giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất đã giao cho bà N giữ làm tin.
*/ Quá trình giải quyết vụ án, bị đơn vợ chồng ông Phạm Hoài T bà
Nguyễn Thị H trình bày có nội dung như sau:
Nguyễn Thị H thừa nhận vào năm 2011 vay tiền vàng của Đoàn
Thị N, số tiền 92.500.000 đồng 21 chỉ vàng 9999 (vàng nhẫn, chỉ), tuy nhiên
việc N khởi kiện thì H không đồng ý, trong tổng số tiền nợ số lượng vàng
mà bà N yêu cầu đã bao gồm cả nợ gốc và tiền lãi suất, nhưng bà H không xác định
được cụ thể số nợ lãi gốc. Số tiền vàng H vay không sử dụng vào sử
dụng chung trong gia đình, mà là để sử dụng riêng, cụ thể bà H vay giúp cho người
khác (không xác định được người vay cụ thể).
H xác định đã trả tiền lãi của số tiền vàng vay nhiều lần nhưng không
nhớ số tiền lãi đã trả cụ thể, khi trả lãi các bên không lập biên bản và cũng không có
ai chứng kiến. Khi đi vay, chồng H ông T chở H đến nhà N khoảng
3
02 đến 03 lần, nhưng ông T không biết về việc vay cũng như số tiền và vàng mà bà
H vay của bà N, đồng thời ông T cũng không ký xác nhận số ntiền và vàng đã vay
của N. Số tiền vàng H vay sử dụng vào mục đích ông T không rõ.
Sau này khi bà N đến nhà đòi nợ thì ông T mới biết là bà H có vay tiền của bà N.
Khi vay tiền và vàng, để bà N tin tưởng thì bà H có đưa cho N giữ bản gốc
Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thửa đất số 07, tờ bản đồ số 93, diện tích:
4.628m
2
; địa chỉ: Thôn H, xã C, huyện M, tỉnh Đắk Lắk, do Ủy ban nhân dân huyện
M cấp ngày 02/8/2007 đứng tên ông Phạm Hoài Q. Tuy nhiên việc vay tiền và vàng
không liên quan đến ông Phạm Hoài Q ông Q không biết H đã đưa giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất cho N, nên đề nghị bà N trả lại giấy chứng nhận quyền
sử dụng đất cho ông Q.
H xác nhận hiện nay chỉ còn nợ bà N tổng số tiền là 150.000.000 đồng, đã
bao gồm cả tiền và vàng quy ra tiền, nhưng không xác định cụ thể số nợ tiền, vàng
là bao nhiêu. Do đó bà H đồng ý như yêu cầu khởi kiện của bà N mà chỉ đồng ý trả
số tiền 150.000.000 đồng.
Ông Phạm Hoài T trình bày: Ông là chồng của của bà Nguyễn Thị H, việc
H có vay tiền và vàng của N hay không, số lượng bao nhiêu và sử dụng vào mục
đích thì ông không biết, sau này khiN khởi kiện thì ông mới biết. Ông T xác
định ông hoàn toàn không biết và không liên quan gì đến số tiền mà bà H còn nợ
N, nên đề nghị Tòa án giải quyết vụ án theo pháp luật.
*/ Tại đơn yêu cầu và quá trình giải quyết vụ án, người có quyền lợi, nghĩa vụ
liên quan là ông Phạm Hoài Q trình bày có nội dung như sau:
Việc bố mẹ ông Q là Nguyễn Thị H và ông Phạm Hoài T vay tiền, vàng của
Đoàn Thị N như thế nào thì ông hoàn toàn không biết và cũng không liên quan
đến số nmà N đang khởi kiện vợ chồng ông T, H việc H giao cho
bà N giấy tờ đất để làm tin khi vay thì ông hoàn toàn không biết. Sau khi bà N khởi
kiện thì ông Q mới biết việc khi vay bà H thế chấp cho N 01 bản gốc Giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất số AK 558025, đối với thửa đất số 07, tờ bản đồ s
93, diện tích 4.628m
2
, địa chỉ tại thôn H, xã C, huyện M'Đrắk, tỉnh Đắk Lắk do Ủy
ban nhân dân huyện M’Đrắk cấp ngày 02/8/2007 đứng tên ông Phạm Hoài Q.
Ông Q xác định quyền sử dụng đất theo giấy chứng nhận quyền sử dụng đất
thửa đất số 07, tờ bản đồ số 93, diện tích 4628m
2
, địa chỉ tại thôn H, xã C, huyện M,
tỉnh Đắk Lắk tài sản riêng của ông Q việc H giao cho N đlàm tin thì
ông không biết và không hỏi ý kiến của ông. Do đó ông Q đã có đơn khởi kiện độc
lập đối với N đề nghị Tòa án giải quyết buộc Đoàn Thị N phải trả lại cho
ông Q Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số AK 558025, đối với thửa đất s07, tờ
bản đồ s93, diện tích 4.628m
2
, địa chỉ tại thôn H, xã C, huyện M, tỉnh Đắk Lắk do
Ủy ban nhân dân huyện M cấp ngày 02/8/2007 đứng tên ông Phạm Hoài Q.
*/ Quá trình tố tụng người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà Nguyễn Minh
T1, ông Nguyễn Minh H1, ông Nguyễn Minh T2 và ông Nguyễn Đoàn Ngọc S trình
bày nội dung như sau: Các anh, chị con của Đoàn Thị N, việc vay tiền
vàng giữa bà N và vợ chồng ông Phạm Hoai T3, Nguyễn Thị H thì các anh chị
4
đều không biết không liên quan đến tài sản này. N quyền quyết định đối
với số tiền và vàng đã cho bà H vay, đề nghị Tòa án giải quyết vụ án theo quy định
của pháp luật.
Tại Bản án dân sự sơ thẩm số 25/2024/DS-ST, ngày 30/8/2024 của Tòa án
nhân dân huyện M’Đrắk đã quyết định:
Căn cứ khoản 3 Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39,
Điều 147, Điều 227, Điều 228, Điều 266, Điều 271, Điều 273 của Bộ luật tố tụng
dân sự;
Căn cứ khoản 2 Điều 357, Điều 463, Điều 466, khoản 2 Điều 468 của Bộ luật
dân sự; điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày
30/12/2016 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn giảm, thu,
nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án.
Tuyên xử:
1. Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của bà Đoàn Thị N.
Buộc bà Nguyễn Thị H phải trả cho bà Đoàn Thị N số tiền 92.500.000 đồng và
21 chỉ vàng 9999.
Kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành cho đến khi thi
hành án xong tất cả các khoản tiền, hàng tháng bên phải thi hành án còn phải chịu
thêm khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại
Điều 357, khoản 2 Điều 468 của Bộ luật dân sự.
2. Chấp nhận yêu cầu độc lập của người quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông
Phạm Hoài Q.
Buộc Đoàn Thị N phải trả lại cho ông Phạm Hoài Q bản gốc Giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất tại thửa đất số 07, tờ bản đồ số 93, diện tích: 4628m
2
; địa
chỉ: Thôn H, C, huyện M, tỉnh Đắk Lắk do Ủy ban nhân dân huyện M cấp ngày
02/8/2007 cho ông Phạm Hoài Q.
Ngoài ra, bản án thẩm còn quyết định ván phí tuyên quyền kháng cáo
cho các đương sự theo quy định của pháp luật.
Sau khi xét xử sơ thẩm xong, ngày 30/9/2024, bị đơn bà Nguyễn Thị H có đơn
kháng cáo, với nội dung: Bản án thẩm tuyên buộc trả cho N số tiền
92.500.000 đồng 21 chỉ vàng 9999 không phù hợp, đã trả cho bà N tiền
lãi nhiều lần và số nợ trên đã bao gồm cả tiền lãi suất cao cộng lại; bà H chỉ đồng ý
trả cho bà Đoàn Thị N số tiền 150.000.000 đồng, bao gồm cả tiền và vàng; đề nghị
Tòa án cấp phúc thẩm xem xét và sửa bản án sơ thẩm.
Tại Đơn xin xét xvắng mặt, bị đơn Nguyễn Thị H giữ nguyên nội dung
kháng cáo và đề nghị Tòa án xem xét, giải quyết vụ án theo quy định của pháp luật.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đắk Lắk tham gia phiên tòa trình bày ý
kiến, với nội dung: Về tố tụng: Trong quá trình giải quyết vụ án của Thẩm phán cũng
như tại phiên tòa, Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký và các đương sự đã tuân thủ
đúng các quy định của pháp luật tố tụng dân sự; về nội dung: Bị đơn bà Nguyễn Thị
5
H thừa nhận vay tiền vàng của N và cho rằng đã trả tiền lãi nhiều lần
hiện chỉ còn n150.000.000 đồng, nhưng không cung cấp được chứng cứ chứng
minh. Căn cứ vào lời trình bày của bà Đoàn Thị N và các giấy xác nhận nợ có đủ cơ
sở xác định H có vay hiện nay còn nợ N số tiền 92.500.000 đồng và 21
chỉ vàng 9999; bản án thẩm chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn
căn cứ và phù hợp với pháp luật. Do đó kháng cáo bị đơn bà Nguyễn Thị H không
có cơ sở chấp nhận. Đại diện Viện kiểm sát đề nghị Hội đồng xét xử:
Căn cứ khoản 1 Điều 308 Bộ luật tố tụng dân sự: Không chấp nhận kháng cáo
của bị đơn bà Nguyễn Thị H; giữ nguyên bản án sơ thẩm.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Căn cứ vào tài liệu, chứng cứ đã được thẩm tra tại phiên toà; căn cứ vào kết quả
tranh tụng tại phiên toà, trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện các tài liệu, chứng cứ,
lời trình bày của đương sự và ý kiến của Kiểm sát viên, Hội đồng xét xử nhận định
như sau:
[1] Về tố tụng: Đối với người kháng cáo bị đơn bà Nguyễn Thị H, bị đơn ông
Phạm Hoài T và nguyên đơn bà Đoàn Thị N vắng mặt tại phiên a nhưng đã đơn
đề nghị xét xử vắng mặt; những người quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà Nguyễn
Minh T1, ông Nguyễn Minh H1, ông Nguyễn Minh T2 và ông Nguyễn Đoàn Ngọc
S đã được triệu tập hợp lđến lần thứ hai nhưng vắng mặt. Căn cứ khoản 2 khoản
3 Điều 296 của Bộ luật tố tụng dân sự, Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt các đương
sự là phù hợp với quy định của pháp luật.
[2] Về nội dung: Đối với kháng cáo của bị đơn bà Nguyễn Thị H, Hội đồng xét
xử xét thấy:
[2.1] Nguyên đơn Đoàn Thị N khởi kiện yêu cầu bị đơn Nguyễn Thị H
phải trả lại số tiền 92.500.000 đồng 21 chỉ vàng 9999; đồng thời nguyên đơn cung
cấp các giấy xác nhận vay tiền, vàng của 06 lần vay chữ ký của bị đơn bà Nguyễn
Thị H, tổng cộng số tiền vay là 92.500.000 đồng và 21 chỉ vàng 9999.
[2.2] Đối với bị đơn Nguyễn Thị H thừa nhận từ ngày 24/7/2011 (âm lịch)
đến ngày 01/10/2011 m lịch), H 06 lần viết giấy vay tiền vàng của
Đoàn Thị N với tổng số tiền vay 92.500.000 đồng 21 chỉ vàng 9999 như nội
dung N đã trình bày. Bà H xác định trong số tiền vàng mà bà N đã khởi kiện
thì bao gồm cả tiền lãi của khoản tiền và vàng đã vay và H đã trả tiền lãi của số
tiền và vàng vay nhiều lần hiện nay chỉ con nợ N số tiền 150.000.000 đồng,
nên không đồng ý với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn. Tuy nhiên, phía nguyên
đơn N không thừa nhận nội dung này bị đơn bà H không cung cấp được chứng
cứ chứng minh nên trình bày của bị đơn bà Nguyễn Thị H không có căn cứ chấp
nhận.
[2.3] Như vậy, đủ sở kết luận từ ngày 24/7/2011 (âm lịch) đến ngày
01/10/2011 (âm lịch), bà Nguyễn Thị H đã 06 lần vay tiền và vàng của bà Đoàn Thị
N, tổng cộng số tiền vay là 92.500.000 đồng và 21 chỉ vàng 9999. N đã nhiều lần
yêu cầu trả nợ nhưng bà H không thanh toán vi phạm nghĩa vụ trả nợ của bên vay.
Bản án sơ thẩm đã chấp nhận đơn khởi kiện của bà Đoàn Thị N và buộc bà Nguyễn
6
Thị H phải trả cho Đoàn Thị N số tiền nợ 92.500.000 đồng 21 chvàng
9999, là có căn cứ và phù hợp với quy định của pháp luật. Do đó, kháng cáo của bà
Nguyễn Thị H là không có căn cứ chấp nhận nên cần giữ nguyên bản án sơ thẩm là
đúng đắn.
[3] Về án phí phúc thẩm: Do kháng cáo không được chấp nhận nên người kháng
cáo Nguyễn Thị H phải chịu án phí dân sự phúc thẩm, tuy nhiên Nguyễn
Thị H, sinh năm 1956, người cao tuổi và thuộc hộ nghèo nên được miễn toàn bộ
tiền án phí dân sự phúc thẩm.
[4] Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không kháng cáo, kháng nghị
nên Hội đồng xét xử không xem xét và đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời
hạn kháng cáo, kháng nghị.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ khoản 1 Điều 308 của B luật tố tụng dân sự;
Không chấp nhận kháng cáo của bị đơn Nguyễn Thị H; giữ nguyên Bản án
dân sự thẩm số: 25/2024/DS-ST, ngày 30/8/2024 của Tòa án nhân dân huyện
M’Đrắk, tỉnh Đắk Lắk.
Áp dụng: Điều 463, Điều 466 và khoản 2 Điều 468 của Bộ luật dân sự; điểm đ
khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban
Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng
án phí và lệ phí Toà án.
Tuyên xử:
1. Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của bà Đoàn Thị N.
Buộc bà Nguyễn Thị H phải trả cho bà Đoàn Thị N số tiền 92.500.000 đồng
(chín mươi hai triệu năm trăm nghìn đồng) và 21 (hai mươi mốt) chỉ vàng 9999.
Kể từ ngày đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án cho đến khi
thi hành án xong, bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền phải
thi hành án theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 của Bộ luật dân sự năm
2015.
2. Chấp nhận yêu cầu độc lập của người quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông
Phạm Hoài Q.
Buộc Đoàn Thị N phải trả lại cho ông Phạm Hoài Q bản gốc Giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất số AK 558025, thửa đất số 07, tờ bản đồ số 93, diện tích
4.628m
2
, địa chỉ thửa đất tại thôn H, xã C, huyện M, tỉnh Đắk Lắk do Ủy ban nhân
dân huyện M, tỉnh Đắk Lắk cấp ngày 02/8/2007 đứng tên ông Phạm Hoài Q.
3. Về án phí:
3.1. Án phí dân sự thẩm: Nguyên đơn Đoàn Thị N người cao tuổi, bị
đơn Nguyễn Thị H người cao tuổi thuộc hộ nghèo, nên Đoàn Thị N
Nguyễn Thị H được miễn toàn bộ tiền án phí dân sự sơ thẩm.
7
Ông Phạm Hoài Q không phải chịu án phí và được nhận lại 300.000 đồng tiền
tạm ứng án phí đã nộp theo Biên lai thu tiền tạm ứng án phí số AA/2023/0009044
ngày 14/5/2024 của Chi cục thi hành án dân sự huyện M, tỉnh Đắk Lắk.
3.2. Áp phí dân sự phúc thẩm: Người kháng cáo là bị đơn Nguyễn Thị H
người cao tuổi và thuộc hộ nghèo, nên được miễn tiền án phí dân sự phúc thẩm.
4. Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị có
hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi
hành án dân sự thì người được thi hành án, người phải thi hành án dân sự có quyền
thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị
cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b 9 của Luật Thi hành
án dân sự, thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi
hành án dân sự.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật, kể từ ngày tuyên án.
Nơi nhận: TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM
- TAND tối cao (Vụ 2); Thẩm phán - Chủ tọa phiên toà
- TAND cấp cao tại Đà Nẵng;
- VKSND tỉnh Đắk Lắk;
- TAND huyện M’Đrắk; (Đã ký)
- Chi cục huyện M;
- Các đương sự; Trương Công Bình
- Lưu hồ sơ.
Tải về
Bản án số 25/2025/DS-PT Bản án số 25/2025/DS-PT

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án số 25/2025/DS-PT Bản án số 25/2025/DS-PT

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án/ Quyết định cùng đối tượng

Bản án cùng lĩnh vực

Bản án mới nhất