Bản án số 236/2024/DS-ST ngày 24/12/2024 của TAND TP. Sóc Trăng, tỉnh Sóc Trăng về tranh chấp quyền sử dụng đất

  • Thuộc tính
  • Nội dung
  • VB gốc
  • VB liên quan
  • Lược đồ
  • Đính chính
  • Án lệ
  • BA/QĐ cùng nội dung
  • Tải về
Tải văn bản
Báo lỗi
  • Gửi liên kết tới Email
  • Chia sẻ:
  • Chế độ xem: Sáng | Tối
  • Thay đổi cỡ chữ:
    17

Thuộc tính Bản án 236/2024/DS-ST

Tên Bản án: Bản án số 236/2024/DS-ST ngày 24/12/2024 của TAND TP. Sóc Trăng, tỉnh Sóc Trăng về tranh chấp quyền sử dụng đất
Quan hệ pháp luật: Tranh chấp quyền sử dụng đất
Cấp xét xử: Sơ thẩm
Tòa án xét xử: TAND TP. Sóc Trăng (TAND tỉnh Sóc Trăng)
Số hiệu: 236/2024/DS-ST
Loại văn bản: Bản án
Ngày ban hành: 24/12/2024
Lĩnh vực: Dân sự
Áp dụng án lệ:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Đính chính:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Thông tin về vụ/việc: ông Trần Thanh M yêu cầu Tòa án buộc bà Cao Thanh T, ông Lê Thanh H trả lại cho ông Trần Thanh M và bà Đinh Thị T2 phần diện tích tranh chấp theo sơ đồ hiện trạng ngày 31/10/2023, tổng diện tích là 8,1 m2 quyền sử dụng đất thửa đất số 45, tờ bản đồ số 36, tọa lạc Khóm D, Phường H, thành phố S, tỉnh Sóc Trăng (kể cả khoảng không gian chiếu lên trên). Buộc bà Cao Thanh T, ông Lê Thanh H tháo dỡ, đập phá bỏ tương ứng phần xây dựng nhà nằm trong 8,1 m2 quyền sử dụng đất, thuộc thửa đất số 45, tờ bản đồ số 36, tọa lạc Khóm D, Phường H, thành phố S, tỉnh Sóc Trăng
Tóm tắt Bản án

Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!

Tải văn bản

1
TÒA ÁN NHÂN DÂN
THÀNH PHỐ SÓC TRĂNG
TỈNH SÓC TRĂNG
——————————
Bản án số: 236/2024/DS-ST
Ngày 24-12-2024
V/v tranh chấp quyền sử dụng đất bị
lấn chiếm và buộc tháo dỡ
công trình xây dựng”
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHNGA VIỆT NAM
Độc lập - Tdo - Hạnh phúc
—————————
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ SÓC TRĂNG, TỈNH SÓC TRĂNG
- Thành phần Hội đồng xét xử sơ thẩm gồm:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa: Ông Võ Văn Như
Các Hội thẩm nhân dân:
Ông Phạm Hữu Thắng
Bà Nguyễn Bạch Nhạn
- Thư phiên tòa: Phan Thị Bích Ngọc-TTòa án nhân dân
thành phố Sóc Trăng, tỉnh Sóc Trăng.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Sóc Trăng tham gia phiên
tòa: Bà Đồ Ngọc Tuyền -Kiểm sát viên.
Trong các ngày 23 24 tháng 12 năm 2024, tại trụ sở a án nhân dân
thành phố Sóc Trăng xét xử thẩm công khai ván dân sự thẩm thụ số
14/2023/TLST-DS ngày 09/01/2023 về việc: Tranh chấp quyền sử dụng đất b
lấn chiếm buộc tháo dỡ công trình xây dựng” theo Quyết định đưa vụ án ra
xét xử số: 605/2024/QĐXXST-DS ngày 21 tháng 11 năm 2024 giữa các đương
sự:
Nguyên đơn: Ông Trần Thanh M, sinh năm 1975; Địa chỉ: Số G L, Khóm
D, Phường H, thành phố S, tỉnh Sóc Trăng (có mặt)
Bị đơn: Cao Thanh T, sinh năm 1988; Địa chỉ: Số C N, Khóm A,
Phường A, thị xã V, tỉnh Sóc Trăng;
Người đại diện theo ủy quyền của bị đơn T: Ông Cao Minh T1, sinh năm
1982; Địa chỉ: Số C N, Khóm A, Phường A, thị xã V, tỉnh Sóc Trăng (Theo hợp
đồng ủy quyền ngày 29-10-2024-có mặt)
- Người bảo vệ quyền lợi ích hợp pháp cho bị đơn Cao Thanh T:
Ông Trần Bửu Thịnh Đ Luật sư của Công ty L thuộc Đoàn Luật thành phố
C (có mặt)
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
2
1.Ông Lê Thanh H, sinh năm 1984; Địa chỉ: Số C N, Khóm A, Phường A,
thị xã V, tỉnh Sóc Trăng (có mặt)
2. Đinh Thị T2, sinh năm 1978; Địa chỉ: G L, Khóm D, Phường H,
thành phố S, tỉnh Sóc Trăng (có mặt)
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Theo đơn khởi kiện ngày 21/11/2022 lời trình bày của nguyên đơn ông
Trần Thanh M:
Ông Trần Thanh M một thửa đất số 45, tờ bản đồ số 36, diện tích
121,1m
2
tọa lạc tại khóm D, phường H, thành phố S, tỉnh Sóc Trăng được Ủy
ban nhân dân thành phố S cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số BX
944198 ngày 02/12/2014 cho ông Trần Thanh M Đinh Thị T2. Đến tháng
10 năm 2022, Cao Thanh T xây dựng nhà lấn qua phần đất của ông Trần
Thanh M khoảng 01m ngang và phía sau khoảng 0,2m ngang, chiều dài thửa đất
10,67m, ông Trần Thanh M ngăn cản không cho T xây dựng nhưng T
vẫn cố tình xây dựng và sự việc đã được Ban N3, phường H, thành phố S Ủy
ban nhân dân phường H1, thành phố S hòa giải nhưng không thành.
Theo kết quả đo đạc, kèm theo đhiện trạng ngày 31/10/2023, nguyên
đơn ông Trần Thanh M xác định: quyền sử dụng đất bị lấn chiếm 8,1m
2
[cạnh
chiều dài 10,21m +10,25m; cạnh chiều ngang 0 m + 1,59m]
Ông Trần Thanh M yêu cầu Tòa án giải quyết như sau:
Buộc Cao Thanh T, ông Thanh H trả lại cho ông Trần Thanh M
Đinh Thị T2 phần diện tích tranh chấp theo đồ hiện trạng ngày
31/10/2023, tổng diện tích 8,1 m
2
quyền sử dụng đất
(kể cả khoảng không
gian chiếu lên trên)
Buộc Cao Thanh T, ông Thanh H tháo dỡ, đập phá bỏ tương ng
phần xây dựng nhà nằm trong 8,1 m
2
quyền sử dụng đất, thuộc thửa đất số 45, tờ
bản đồ số 36, tọa lạc Khóm D, Phường H, thành phố S, tỉnh Sóc Trăng.
do, ông Thanh H, Cao Thanh T xây dựng lấn chiếm quyền sử
dụng đất. Theo kết quả đồ hiện trạng đo đạc, thì đo gồm thửa 45 Thửa
152, do thửa 45 thửa 152 không cấm cọc ranh, Thửa 152 về số đo tứ cận
đủ theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất được cấp cho ông Trần Thanh N, bà
Thị B, chiếu theo cạnh giáp đường L đối với thửa 45 thiếu 1, 59m, phần
cạnh số đo này đã bị bà T, ông H khi xây dựng trên thửa số 175 đã lấn sang thửa
45 của vợ chồng ông M, bà T2.
Theo ông Trần Thanh M cho rằng người nhận chuyển nhượng t ông
Đinh Văn D đã thỏa thuận với bà Thạch Thị N1, nên bà N1 đã xây dựng nhà vào
khoảng năm 2019, bà N1 đã xây lấn sang thửa 175, nên năm 2022 khi bà T, ông
H xây dựng lại tiếp tục lấn sang thửa đất của vợ chồng ông.
Kèm theo đơn khởi kiện, nguyên đơn đã nộp các tài liệu, chứng cứ sau
đây: 01 (một) Căn cước công dân của ông Trần Thanh M (bản sao chứng thực);
01 (một) Bản tự khai của ông Trần Thanh M (bản chính); 01 (một) Biên bản hòa
giải sở tại Ban N3, phường H, thành phố S đề ngày 19/10/2022 (bản
photo); 01 (một) Biên bản về việc hòa giải tranh chấp đất đai giữa ông Trần
Thanh M với Cao Thanh T đề ngày 03/11/2022 (bản sao chứng thực); 01
3
(một) Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà tài sản khác
gắn liền với đất của ông Trần Thanh M và bà Đinh Thị T2 (bản sao chứng thực);
Trích lục hồ sơ cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thửa đất số 45.
Bị đơn Cao Thanh T người đại diện ông Cao Minh T1 trình bày:
Phía bị đơn bà Cao Thanh T không thống nhất về yêu cầu khởi kiện của nguyên
đơn. nguồn gốc đất, bị đơn quá trình nhận chuyển nhượng thì thửa 175 được
tách từ thửa đất 45, qua các chsở hữu vẫn giữ nguyên hiện trạng số đo và diện
tích, không việc thỏa thuận nào với Thạch Thị N1 để xây dựng lấn sang
thửa 175. Nên việc bị đơn xây dựng đến nay vẫn nằm trên phần diện tích được
cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn
liền với đất đối với thửa đất số 175 và đã được cấp Giấy phép xây dựng, Cao
Thanh T đã được phép xây dựng thực tế, chưa có cơ quan chức năng khẳng định
xây dựng trái phép, ngày 30/11/2024, các bên thỏa thuận với nhau để giải
quyết tranh chấp, phía bị đơn đã chuyển cho nguyên đơn số tiền 137 triệu đồng,
bị đơn được nguyên đơn tạo điều kiện tiếp tục xây dựng hoàn thiện bức tường
giáp phía nguyên đơn nhưng khi thực hiện thì giữa các bên không thống nhất,
việc xây dựng căn nhà của bị đơn không lấn chiếm phần diện tích thửa đất của
nguyên đơn đề nghị Hội đồng xét xử xem xét không chấp nhận yêu cầu khởi
kiện của nguyên đơn.
- Bị đơn đã giao nộp các tài liệu, chứng cứ: Văn bản trả lời ngày
21/6/2023; bản sao giấy chứng minh nhân dân tên Cao Thanh T; bản sao Giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất thửa số 175; Hợp đồng ủy quyền bà T Lý Thị
Kim C; Bản photo Phiếu kiểm tra công trình xin phép cải tạo, sửa chữa, xây
dựng mới ngày 28/6/2022; Văn bản ngày 31/10/2024; Hợp đồng y quyền Cao
Thanh T- Cao Minh T1; Bản photo Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất
từ ông Đinh Văn D- Tạ Ngọc N2- Cao Thanh T; 02 Ảnh; Hồ giấy phép xây
dựng.
Người quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà Đinh Thị T2 trình bày:
thống nhất yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn ông Trần Thanh M, yêu cầu Tòa
án giải quyết: buộc bà Cao Thanh T, ông Lê Thanh H trả lại cho ông Trần
Thanh M phần diện tích tranh chấp theo đồ hiện trạng ngày 31/10/2023, tổng
diện tích 8,1 m
2
quyền sử dụng đất
(kể cả khoảng không gian chiếu lên trên);
buộc bà Cao Thanh T, ông Lê Thanh H tháo dỡ, đập phá bỏ tương ứng phần xây
dựng nhà nằm trong 8,1 m
2
quyền sử dụng đất, thuộc thửa đất số 45, tờ bản đồ
số 36, tọa lạc Khóm D, Phường H, thành phố S, tỉnh Sóc Trăng.
do: Quyền sử dụng đất thửa đất số 45 của vợ chồng ông blấn
thiếu nên cho rằng việc xây dựng nhà của Cao Thanh T, ông Thanh H là
lấn sang thửa đất của ông bà. Việc từ ông Đinh Văn D đến các chủ quyền sử
dụng đất nhận chuyển nhượng sau thỏa thuận với Thạch Thị N1 hay
không thì bà không biết.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông Thanh H trình bày: Về nội
dung vụ việc thì ông thống nhất với lời trình bày của ông Cao Minh T1, khi xây
dựng ông Thanh H Cao Thanh T còn chừa cạnh giáp nguyên đơn một
tất hai (12cm).
4
Tài liệu chứng cứ do Tòa án thu thập: Biên bản xem xét thẩm định tại ch
ngày 03/7/2023 đồ hiện trạng ngày 31/10/2023 thửa đất thuộc thửa số
45,152 175 tờ bản đồ số 36, kèm theo các bản ảnh chụp khi thẩm định;
Chứng thư thẩm định giá ngày 26 tháng 02 năm 2024 của Công ty T4, như sau:
Phần đất tranh chấp: Đất ở, diện tích 8,1 m
2
, đơn giá 21.765.000 đồng,
tổng giá trị 176.296.500 đồng.
Một phần căn nhà: Ngang trước 1m, chiều dài 10,2m, ngang sau 0,2 m
(01 triệt +02 lầu) chưa hoàn thiện, tổng diện tích 18,36 m
2
, kết cấu: móng, cột,
mái BTCT, tường xây gạch dày 10 cm (3 vách), nền lát gạch ceramic, đơn giá
5.678.000 đồng, tổng giá trị 104.248.080 đồng.
Các đương sự không ý kiến, thống nhất về kết quả đo đạc, thẩm định
và định giá phần diện tích tranh chấp.
- Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị đơn ông Trần Bửu Thịnh
Đ trình bày: Quyền sử dụng đất đối với thửa đất 175 của bị đơn nguồn gốc
nhận chuyển nhượng từ thửa đất số 45 của nguyên đơn qua các lần chuyển
nhượng không sự thay đổi về diện tích 49,6m
2
(ODT); Việc xây dựng căn
nhà của bị đơn được cấp giấy phép xây dựng ông Trần Thanh M kế cận,
diện tích xây dựng 45,5 m
2
, phù hợp với trình bày phía bị đơn khi xây dựng đã
chừa ra một tất hai phần giáp ranh với ông M; Căn nhà được xây dựng sau giữa
hai căn nhà đã được xây dựng trước đó; hiện trạng quyền sử dụng đất của bị đơn
so với giấy chứng nhận quyền sử dụng đất được cấp các ranh cặp hai nền là song
song, hướng thẳng mặt lộ đường L. Do đó, bị đơn sử dụng thửa đất số 175
không lấn ranh thửa đất số 45 của nguyên đơn đề nghị Hội đồng xét xử không
chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Sóc Trăng, tỉnh Sóc Trăng
phát biểu: Thẩm phán, Hội đồng xét xử đã thực hiện đu
́
ng quy định của pháp
luật tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án và đề nghị Tòa a
́
n không chấp nhận
yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Sau khi nghiên cứu các tài liệu trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại
phiên tòa căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận
định:
[1]. Ông Trần Thanh M yêu cầu Tòa án giải quyết buộc bà Cao Thanh T,
ông Thanh H trả phần đất bị lấn chiếm buộc tháo dỡ công trình xây dựng.
Đây tranh chấp quyền sử dụng đất bị chiếm buộc tháo dỡ công trình xây
dựng tại địa bàn thành phố S nên Tòa án nhân dân thành phố Sóc Trăng thụ
giải quyết đúng thẩm quyền theo quy định tại khoản 9 Điều 26, điểm a khoản
1 Điều 35; điểm c Khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.
[2]. Xét yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn về việc bị đơn lấn chiếm
quyền sử dụng đất diện tích 8,1 m
2
buộc tháo dỡ công trình trên đất tương
ứng diện tích đất (kể cả không gian phía trên) so đơn khởi kiện ban đầu theo quy
định tại khoản 1 Điều 244 của Bộ luật Tố tụng dân skhông ợt quá phạm
vi yêu cầu khởi kiện nên Hội đồng xét xử chấp nhận, bị đơn phản đối không
chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, Hội đồng xét xử xét thấy:
5
[3]. Về nguồn gốc hai thửa đất số 45 175, tờ bản đồ s36 cùng tọa lạc
khóm D, Phường H, thành phố S: thửa đất số 45, tờ bản đồ số 36, diện tích
170,7m
2
tọa lạc tại khóm D, phường H, thành phố S, tỉnh Sóc Trăng được Ủy
ban nhân dân thành phố S cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số BX
944198 ngày 02/12/2014 cho ông Trần Thanh M Đinh Thị T2, đến ngày
05/4/2018, chuyển nhượng quyền sử dụng đất cho ông Đinh Văn D diện tích
49,6m
2
(ODT) thửa đất 175, diện tích còn lại 121,1 m
2
(ODT:40m
2
, CLN: 81,1
m
2
). Thửa đất số 175 đến ngày 24/01/2019, ông Đinh Văn D, Thành
Nguyên T3 chuyển nhượng cho Tạ Ngọc N2; đến ngày 13/8/2019, bà Tạ
Ngọc N2 chuyển nhượng cho bà Cao Thanh T, Cao Thanh T được cấp Giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà tài sản khác gắn liền với
đất số CQ733755, số vào s cấp GCN:CS00570 ngày 20/9/2019 do Sở Tài
nguyên và môi trường tỉnh S cấp, thì diện tích thửa đất số 175 không thay đổi là
49,6m
2
(ODT).
[4]. Nguyên đơn ông Trần Thanh M, người quyền lợi, nghĩa vụ liên
quan bà Đinh Thị T2 cho rằng từ khi bà Cao Thanh T ông Thanh H xây
dựng căn nhà đã lấn sang phần diện tích thửa đất số 45, diện tích 121,1 m
2
, vì
phần diện tích của ông Trần Thanh M, Đinh Thị T2 bị thiếu so với Giấy
chứng nhận được cấp. Khi Tòa án tiến hành xem xét, thẩm định tại chỗ thì
nguyên đơn không chỉ được mốc ranh giới thửa đất số 45 giáp thửa 152 hướng
Bắc, mà phải đo đạc cả hai thửa đất 45 152, để xác định phần đất thực tế ông
Trần Thanh M, Đinh Thị T2 sử dụng ở thửa 45 là bao nhiêu, ông M cho rằng
trừ đi phần cạnh giáp mặt đường Duẩn thửa đất số 152 phần cạnh giáp mặt
đường D1 thửa số 45 tính đến nhà xây dựng của bị đơn thì thửa đất 45 của
ông đã thiếu, là chưa có cơ sở xác định phần diện tích 121,1 m
2
thửa đất số 45 là
không đủ theo tính toán số học như ông M, T2 trình bày. Đối với thửa đất số
175 được đo đạc theo chdẫn của nguyên đơn, phần C thuộc thửa đất số 175
diện tích 38,1m
2
, tính cả phần tranh chấp phần B: 8,1m
2
, diện tích là 46,2m
2
vẫn
chưa đủ phần diện tích được cấp tại thửa đất số 175: 49,6m
2
(ODT). Đối chiếu
cạnh tiếp giáp hai thửa 175 (hướng bắc) thửa 45 (hướng nam) so với hai hồ
kỹ thuật của hai Giấy chứng nhận được cấp thì từ điểm 7 đến điểm 3 (tiếp
giáp vỉa hè, đường L) gần như cạnh vuông gốc so với thực tế sử dụng đất
phù hợp hơn so với cạnh từ điểm 7 đến điểm 4 (theo sơ đồ hiện trạng). Như vậy,
thửa đất số 45 chưa đủ sở xác định là thiếu diện tích so với Giấy chứng nhận
được cấp, nhưng thửa số 175 tính luôn phần tranh chấp theo yêu cầu khởi kiện
của nguyên đơn là vẫn thiếu so với giấy chứng nhận được cấp.
[5]. Nguyên đơn ông Trần Thanh M nêu do thửa đất số 175 đã bị phía
người sử dụng đất cạnh phía nam thửa đất số 175 Thạch Thị N1 lấn khoảng
2m, dẫn đến khi Cao Thanh T ông Thanh H xây dựng căn nhà tiếp tục
lấn sang thửa đất 45 của ông, ông M không cung cấp được tài liệu, chứng cứ nào
thể hiện cho việc trình bày của mình căn cứ hợp pháp theo quy định về
nghĩa vụ chứng minh tại khoản 1 Điều 91 của Bộ luật Tố tụng dân sự.
[6]. Đối với Cao Thanh T, ông Thanh H khi xây dựng căn nhà đã
được cấp giấy phép xây dựng trong phạm vi diện tích 45,5 m
2
, quy trình Phòng
quản đô thị Ủy ban nhân dân thành phố S lập phiếu kiểm tra ng trình xin
6
phép cải tạo, sửa chữa, xây dựng mới ngày 28/6/2022, thì ông Trần Thanh M
kế cận 2, xác định vị trí xây dựng căn nhà tbản đồ số 36, thửa số 175, tại
đường L, phường H, thành phố S phần xây dựng căn nhà được thực hiện vào
thời điểm thẩm định so với giấy phép xây dựng được cấp là phù hợp với nhau.
[7]. Như vậy, đối với quyền sdụng đất thửa đất số 45 của nguyên đơn
không chứng minh được bị đơn lấn chiếm, trong khi diện tích sử dụng đất của bị
đơn sử dụng vẫn thiếu nguồn gốc từ nhận chuyển nhượng qua các thời kỳ
không biến động về diện tích từ nguyên đơn ông Trần Thanh M chuyển
nhượng một phần thửa đất 45, Cao Thanh T khi xây dựng đăng giấy
phép xây dựng được xây dựng trên thực tế đều nằm trong phần diện tích
quyền sử dụng đất được cấp phép. Hơn nữa, ranh giới các thửa đất đã ổn định và
ông M bên chuyển nhượng phải có nghĩa vụ đảm bảo quyền về phần diện tích
đã được chuyển nhượng. Do đó, theo quy định Điều 26 Luật đất đai năm 2024
Điều 158; Điều 163; Điều 164 của Bluật Dân sự năm 2015 thì không
căn cứ xác định quyền sử dụng đất của nguyên đơn bị lấn chiếm cần được Nhà
nước bảo vệ.
[8]. Đối với vụ án tranh chấp: Sau ngày 08/11/2024 (ngày Tòa án hòa giải
các bên không thống nhất) các bên đã tự thỏa thuận với nhau ngày 30/11/2024,
phía Cao Thanh T đã chuyển tiền cho ông Trần Thanh M, Đinh Thị T2 số
tiền 137 triệu đồng; ông Trần Thanh M tạo điều kiện cho Cao Thanh T tiếp
tục xây dựng bức tường tiếp giáp thửa 45, nhằm kết thúc vụ án tranh chấp.
Nhưng về cách thức thực hiện các bên không thống nhất với nhau. Tại phiên tòa,
Hội đồng xét xử động viên các bên tiếp tục thỏa thuận giải quyết vụ án, nhằm
bảo đảm giữ gìn bản sắc dân tộc, tôn trọng phát huy phong tục, tập quán,
truyền thống tốt đẹp, tình đoàn kết, tương thân, tương ái giữa các bên theo tinh
thần tại Điều 3 Điều 7 Bộ luật Dân sự 2015, nhưng các bên không thống
nhất, Hội đồng xét xử tiếp tục giải quyết vụ án, giải thích ông Trần Thanh M, bà
Đinh Thị T2 đã nhận tiền số từ phía người thân Cao Thanh T thì tự nguyện
trả lại, không xem xét nội dung này trong vụ án, trường hợp các nhân phát
sinh tranh chấp liên quan số tiền 137 triệu đồng được giải quyết thành vụ án
khác.
[9]. Từ những phân tích trên, Hội đồng xét xử đủ sở kết luận không
chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn; lời bảo vệ quyền lợi ích hợp
pháp cho bị đơn bà Cao Thanh T của người bảo vệ quyền lợi ích hợp pháp
luật sư ông Trần Bửu Thịnh Đ và phát biểu của Đại diện Viện kiểm sát nhân dân
thành phố Sóc Trăng là đúng quy định pháp luật nên Hội đồng xét xử chấp nhận.
[10]. Về chi ptố tụng: Do yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn không
được chấp nhận nên nguyên đơn phải chịu chi phí đo đạc, xem xét, thẩm định
tại chỗ định giá tài sản 16.564.330đồng theo quy định tại Điều 157, Điều
158, Điều 165 Điều 166 của Bộ luật Tố tụng dân snăm 2015, nguyên đơn
đã thực hiện xong.
[11]. Về án phí dân sự thẩm: Do yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn
ông Trần Thanh M không được chấp nhận nên nguyên đơn phải chịu án phí dân
sự sơ thẩm theo quy định Khoản 3 Điều 26, điểm a Khoản 2 Điều 27 Nghị
quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 cu
̉
a Ủy ban Thường vụ Quốc
7
hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản và sử dụng án phí lê
̣
phí Tòa án.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ vào khoản 9 Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35; điểm c khoản 1
Điều 39; Khoản 1 Điều 91; Khoản 1 Điều 147; Điều 157, Điều 158; Điều 165
Điều 166; Khoản 1 Điều 244; Điều 271; Điều 273; Điều 278 của Bộ luật T
tụng dân sự năm 2015.
Căn cứ vào Điều 158; Điều 163; Điều 164 của Bộ luật Dân sự năm 2015
Căn cứ vào Điều 26của Luật Đất đai năm 2024.
Căn cứ Khoản 3 Điều 26, điểm a Khoản 2 Điều 27 của Nghị quyết số
326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 cu
̉
a Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy
định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản sdụng án phí lê
̣
phí Tòa
án.
Tuyên xử:
1. Không chấp nhận toàn bộ yêu cầu của nguyên đơn ông Trần Thanh M
về việc:
Buộc Cao Thanh T, ông Thanh H trả lại cho ông Trần Thanh M
Đinh Thị T2 phần diện tích tranh chấp theo đồ hiện trạng ngày
31/10/2023, tổng diện tích là 8,1 m
2
quyền sử dụng đất thửa đất số 45, tờ bản đồ
số 36, tọa lạc Khóm D, Phường H, thành phố S, tỉnh Sóc Trăng
(kể cả khoảng
không gian chiếu lên trên).
Buộc Cao Thanh T, ông Thanh H tháo dỡ, đập phá bỏ tương ng
phần xây dựng nhà nằm trong 8,1 m
2
quyền sử dụng đất, thuộc thửa đất số 45, tờ
bản đồ số 36, tọa lạc Khóm D, Phường H, thành phố S, tỉnh Sóc Trăng.
2. Về chi phí tố tụng: Ông Trần Thanh M phải chịu chi phí xem xét, thẩm
định tại chỗ và định giá tài sản la
̀
16.564.330đồng (Mười sáu triệu năm trăm sáu
mươi bốn nghìn ba trăm ba mươi đồng) ông Trần Thanh M đã thực hiện xong.
3. Về án phí dân sự thẩm: Ông Trần Thanh M phải chịu 300.000
đồng (Ba trăm nghìn đồng) nhưng được khấu trừ số tiền 300.000 đồng (Ba trăm
nghìn đồng) theo Biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0000894 ngày
12/12/2022 của Chi Cục Thi hành án dân sự thành phố c Trăng, tỉnh Sóc
Trăng
4. Nguyên đơn, bị đơn, người quyền lợi, nghĩa vụ liên quan mặt
được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án, đ
yêu cầu xét xử lại theo trình tự phúc thẩm.
Trường hợp Bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 của Luật Sửa
đổi bổ sung một số điều của Luật Thi hành án Dân sự năm 2014, thì người được
thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự quyền thỏa thuận thi hành
án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành
án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a 9 của Luật Sửa đổi bổ sung một số
điều của Luật Thi hành án Dân sự năm 2014; Thời hiệu thi hành án được thực
8
hiện theo quy định tại Điều 30 của Luật Sửa đổi bổ sung một số điều của Luật
Thi hành án Dân sự năm 2014.
Nơi nhận:
- TAND tỉnh Sóc Trăng;
- VKSND TPST;
- Chi cục THADS TPST;
- Các đương sự;
- Lưu hồ sơ.
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ SƠ THẨM
THẨM PHÁN–CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
(đã ký)
Võ Văn Như
Tải về
Bản án số 236/2024/DS-ST Bản án số 236/2024/DS-ST

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án số 236/2024/DS-ST Bản án số 236/2024/DS-ST

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án/ Quyết định cùng đối tượng

Bản án cùng lĩnh vực

Bản án mới nhất