Bản án số 22/2025/DS-ST ngày 29/09/2025 của Tòa án nhân dân khu vực 6 - Phú Thọ, tỉnh Phú Thọ về tranh chấp quyền sử dụng đất
- Thuộc tính
- Nội dung
- VB gốc
- VB liên quan
- Lược đồ
- Đính chính
- Án lệ
- BA/QĐ cùng nội dung
- Tải về
Tải văn bản
-
Bản án số 22/2025/DS-ST
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
-
Bản án số 22/2025/DS-ST
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Báo lỗi
Thuộc tính Bản án 22/2025/DS-ST
| Tên Bản án: | Bản án số 22/2025/DS-ST ngày 29/09/2025 của Tòa án nhân dân khu vực 6 - Phú Thọ, tỉnh Phú Thọ về tranh chấp quyền sử dụng đất |
|---|---|
| Quan hệ pháp luật: | Tranh chấp quyền sử dụng đất |
| Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
| Tòa án xét xử: | Tòa án nhân dân khu vực 6 - Phú Thọ, tỉnh Phú Thọ |
| Số hiệu: | 22/2025/DS-ST |
| Loại văn bản: | Bản án |
| Ngày ban hành: | 29/09/2025 |
| Lĩnh vực: | Dân sự |
| Áp dụng án lệ: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
| Đính chính: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
| Thông tin về vụ/việc: | Bà H yêu cầu bà N, bà T phải trả lại diện tích đất |
Tóm tắt Bản án
Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!
Tải văn bản

1
TOÀ ÁN NHÂN DÂN
KHU VỰC 6 - PHÚ THỌ
Bản án số: 22/2025/DS-ST
Ngày: 29/9/2025
V/v: “Tranh chấp
quyền sử dụng đất”.
CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIÊT NAM
Độc lập -Tự do-Hạnh phúc
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TOÀ ÁN NHÂN DÂN KHU VỰC 6 - PHÚ THỌ
- Thành phần Hội đồng xét xử sơ thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ toạ phiên toà: Ông Trần Việt Dũng
Các Hội thẩm nhân dân: Bà Lê Thị H Ánh
Bà Nguyễn Thị Sâm
- Thư ký phiên toà: Bà Hà Thị Phương Chinh - Thư ký Toà án nhân dân
khu vực 6 - Phú Thọ.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân khu vực 6 - Phú Thọ tham gia phiên tòa:
Bà Nguyễn Thị Thu Hà – Kiểm sát viên.
Ngày 29 tháng 9 năm 2025, tại Trụ sở Toà án nhân dân khu vực 6 - Phú
Thọ xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số: 33/2024/TLST- DS
ngày
02 tháng 01 năm 2024, về việc “Tranh chấp quyền sử dụng đất” theo Quyết định
đưa vụ án ra xét xử số: 03/2025/QĐXXST- DS ngày 04 tháng 7 năm 2025;
Quyết định hoãn phiên toà số: 13/2025/QĐST-DS ngày 31/7/2025 và Quyết
định hoãn phiên toà số: 51/2025/QĐST-DS ngày 29/8/2025 giữa các Đ sự:
Nguyên đơn: Bà Trịnh Thị H, sinh năm 1959
Địa chỉ: Khu Đ, xã M, huyện C, tỉnh Phú Thọ (nay là khu Đ, xã C, tỉnh Phú
Thọ);
Người được bà H ủy quyền là ông Đ, sinh năm 1962;
Địa chỉ: Khu Đ, xã M, huyện C, tỉnh Phú Thọ. (nay là khu Đ, xã C, tỉnh
Phú Thọ);
Bị đơn:
1. Bà Trịnh Thị N, sinh năm 1950
Địa chỉ: Khu Đ, xã M, huyện C, tỉnh Phú Thọ; (nay là khu Đ, xã C, tỉnh
Phú Thọ);
Người được bà N ủy quyền là anh Nguyễn Hữu D, sinh năm 1974 (con của
bà N); Địa chỉ: Khu Đ, xã M, huyện C, tỉnh Phú Thọ. (nay là khu Đ, xã C, tỉnh
Phú Thọ);
2
2. Ông Quán Đức B, sinh năm 1963 (đã chết) và bà Trịnh Thị T, sinh năm
1966; Địa chỉ: Khu Đ, xã M, huyện C, tỉnh Phú Thọ; (nay là khu Đ, xã C, tỉnh
Phú Thọ);
Người được bà Trịnh Thị T, anh Quán Đức Đ, chị Quán Thị Đ ủy quyền là
anh Quán Đức Đ, sinh năm 1991 (con của ông B, bà T); Địa chỉ: Khu Đ, xã M,
huyện C, tỉnh Phú Thọ. (nay là khu Đ, xã C, tỉnh Phú Thọ);
Người làm chứng: Bà Trịnh Thị X, sinh năm 1973
Địa chỉ: Khu Đ, xã M, huyện C, tỉnh Phú Thọ. (nay là khu Đ, xã C, tỉnh Phú
Thọ);
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Theo đơn khởi kiện ngày 27 tháng 11 năm 2023, các lời khai trong quá
trình giải quyết vụ án, nguyên đơn bà Trịnh Thị H và người đại diện theo ủy
quyền của nguyên đơn là ông Đ thống nhất trình bày:
Năm 2010, gia đình bà H được Ủy ban nhân dân huyện C cấp cho giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất đối với thửa đất số 253, tờ bản đồ số 13 tại khu 4
xã P(nay là khu Đ, xã C), tỉnh Phú Thọ với diện tích 1.816,7m
2
. Đất nhà bà giáp
với các gia đình: bà Trịnh Thị N, ông Quán Đức B, vợ là bà Trịnh Thị T và bà
Trịnh Thị X đều ở khu Đ, xã C. Gia đình bà đã sử dụng đất ổn định từ đó cho
đến nay không có tranh chấp với các gia đình liền kề. Đến tháng 4/2022, gia
đình bà cùng với các gia đình: bà X, vợ cH ông B bà T và gia đình bà N có
thống nhất với nhau để hạ mặt bằng đất vì trước kia đất các gia đình là đồi gò
cao, mấp mô. Trước khi hạ mặt bằng, gia đình nhà bà cùng gia đình bà X, vợ cH
ông B và gia đình bà N đã thống nhất mốc giới và đường đi mà các gia đình
cũng như mọi người đang đi, kể cả hàng rào giáp ranh giữa gia đình nhà bà với
gia đình bà X, gia đình ông B và gia đình bà N đều được thống nhất rõ ràng.
Đồng thời các gia đình đã thống nhất chốt mốc giới để làm ranh giới cho các
bên, tránh sau khi hạ đất xong sẽ bị dịch chuyển mốc giới cũ, lấn chiếm sang đất
của nhau, gây mất đoàn kết. Nhưng sau khi hạ đất xong, gia đình bà N và gia
đình bà T, ông B đã tự ý chuyển mốc giới cũ đã được thống nhất và lấn chiếm
sang đất nhà bà. Cụ thể: Phần đất giáp nhà ông B, bà T đã bị ông B và bà T tự ý
chuyển mốc giới lấn sang đất nhà bà khoảng 4,3m; Phần đất giáp gia đình nhà
bà N thì gia đình bà N tự ý dịch chuyển mốc giới, cổng nhà bà lại nằm trong
phần đất thổ cư nhà bà N.
Sau khi phát hiện các gia đình tự ý dịch chuyển mốc giới lấn chiếm đất
của gia đình nhà bà và thay đổi hiện trạng sử dụng đất, bà đã yêu cầu gia đình bà
N, gia đình bà T, ông B trả lại cho gia đình bà phần đất đã lấn chiếm, giữ
nguyên hiện trạng và mốc giới như ban đầu đã thống nhất nhưng các gia đình
không đồng ý. Bà đã có đơn đề nghị Ủy ban nhân dân xã M cũ giải quyết, hòa
giải. Tại buổi làm việc với Ủy ban nhân dân xã, các gia đình vẫn không nhất trí
trả lại đất cho gia đình bà và không đồng ý giữ nguyên hiện trạng như trước khi
hạ đất đã thống nhất. Cụ thể đường thẳng biên giới giáp đất với nhà ông B địa
phương đo sai 2,90m sang đất của ông T; Cổng đi của gia đình anh D xây nhà
3
trái phép trên đất tranh chấp lấn cổng đi của ba hộ, phần nhà mới xây của anh D
cách bức tường rào xây gạch chỉ khoảng 50cm mà phần bức tường rào xây gạch
chỉ này xây lấn ra phía đường đi ba hộ.
Bà H và ông Đ đều khẳng định gia đình bà N xâm lấn sang phần đất thổ
cư của ông T và bà H khoảng 100m
2
. Hộ ông B, bà T lấn sang phần đất hộ ông
T khoảng 20m
2
.
Đo chiều phía Đ giáp với thổ cư của ông B và của bà X từ điểm mốc tiếp
giáp với thửa số 268 đến mốc giới thửa 288 đủ 43,59m là chính xác, không có
điểm 2,9m sang đất thổ cư của gia đình bà.
Gia đình bà H đề nghị cơ quan chức năng trả lại đường cổng đi của ba hộ
đúng vị trí cũ để tránh việc về mai sau lại tranh chấp vì hiện giờ hộ bà N xây
tường rào bằng gạch chỉ xây lấn chiếm vào đất đường đi của ba hộ.
Nay bà H khởi kiện đến Tòa án yêu cầu các bị đơn sử dụng đúng mốc giới
theo bìa đỏ, theo bản đồ đã được cấp cho các bị đơn để trả lại đủ đất cho gia
đình bà theo giấy chứng nhận mà gia đình bà H được cấp gia đình bà thì còn
thiếu 43m
2
, bà nhận thấy còn thiếu ở điểm vòng cung từ điểm 1 đến điểm 5.
Bị đơn bà Trịnh Thị T và ông Quán Đức B (đã chết) nên những người
thừa kế của ông B thống nhất ủy quyền cho anh Quán Đức Đ trình bày: Gia
đình anh có thửa đất số 269, tờ bản đồ số 13, diện tích 1227,5m
2
, tại khu Đ, xã
M, huyện C, tỉnh Phú Thọ. Đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất
đứng tên bà Trịnh Thị T và ông Quán Đức B. Đất nhà anh giáp với đất nhà bà H.
Khoảng đầu năm 2022, gia đình anh có múc đất, hạ mặt bằng như các gia đình
trên để sử dụng. Nhà bà H múc đất trước gia đình nhà anh, trước khi múc đất, 2
gia đình đã xác định ranh giới bằng 1 vở đất, sau khi múc đất, vở đất này hiện
nay vẫn còn, nhưng bà H không nhất trí với mốc giới mà 2 gia đình đã thống
nhất trước khi múc đất, mà muốn dưới chân vở đất chéo xê dịch sang đất nhà
anh 1,5m, gia đình anh không nhất trí. Sau đó, uỷ ban xã, uỷ ban huyện đã kiểm
tra, cắm lại mốc giới cho các hộ gia đình sử dụng theo đúng bìa đỏ đã được cấp,
gia đình anh cũng nhất trí với mốc giới mà uỷ ban xã, uỷ ban huyện đã kiểm tra,
nhưng bà H không đồng ý mà nói gia đình anh lấn chiếm đất thì anh không nhất
trí yêu cầu của bà H vì gia đình anh đang sử dụng đất đúng với giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất đã được cấp.
- Bà Trịnh Thị N và người được bà N ủy quyền là anh Nguyễn Hữu D
trình bày: Gia đình anh có thửa đất số 228, tờ bản đồ số 13, diện tích
2705,5㎡,tại khu Đ, xã M, huyện C, tỉnh Phú Thọ. Đã được cấp giấy chúng nhận
quyền sử dụng đất đứng tên vợ cH bà Trịnh Thị N và ông Nguyễn Minh Đức
(Ông Đức đã chết 21/3/2022 âm lịch). Đất nhà anh không giáp với đất nhà bà H,
mà cách đất gia đình bà H 1 con đường đi chung. Khoảng đầu năm 2022, gia
đình anh có múc đất, hạ mặt bằng để sử dụng.Việc múc đất gia đình anh thực
hiện đúng theo đúng mốc giới bà H đã đóng cọc, chăng dây vì gia đình anh múc
đất sau cùng. Sau khi múc đất, thì không còn con đường đi chung, nên 4 gia đình
gồm gia đình bà H, gia đình bà T, gia đình bà Trịnh Thị X và gia đình anh có
góp tiền (Mỗi gia đình 1.500.000đ) để đề nghị đơn vị đo đạc độc lập, kiểm tra
4
đo, xác định lại con đường theo bản đồ. Sau khi đo, thì xác định được gia đình
anh có múc vào phần đường đi chung, sau đó gia đình anh đã trả lại con đường
theo đúng vị trí mà đơn vị đo đạc đã kiểm tra. Nhưng bà H không nhất trí với vị
trí con đường mà đơn vị đo đạc đã đo. Sau đó bà H đề nghị UBND xã M kiểm
tra lại đất nhà bà H, uỷ ban xã đã kiểm tra, cắm mốc giới và bàn giao mốc giới
cho các gia đình sử dụng theo bản đồ và bìa đỏ mà các gia đình đã được cấp,
nhưng bà H không nhất trị với mốc giới mà ủy ban xã đã kiểm tra, mà vẫn cho
rằng gia đình anh đang lấn ra đường đi chung, để đường đi lấn vào đất nhà bà H
thì anh không nhất trí yêu cầu của bà H, vì hiện nay gia đình anh đang sử dụng
đúng mốc giới, chỉ giới với giấy chứng nhận quyền sự dụng đất đã cấp cho gia
đình anh.
Đối với bức tường rào xây gạch chỉ cũng như ngôi nhà của gia đình anh
đã xây dựng theo đúng chỉ giới được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất
cho gia đình anh chứ không xây dựng lấn chiếm đường đi của ba hộ.
Người làm chứng: Bà Trịnh Thị X trình bày: Ranh giới chỉ giới thửa đất
nhà nước cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho bà như thế nào thì bà sử
dụng như thế, bà không có ý kiến gì khác.
Tại biên bản xác minh ngày 04/7/2025 đối với ông Tạ Duy K – Cán bộ chi
nhánh văn phòng đăng ký đất đai C có quan điểm: Theo kết quả dẫn đạc của bà
Trịnh Thị H thì diện tích đất của ông Bùi Văn T và bà Trịnh Thị H có hiện trạng
sử dụng đất của ông T bà H không đúng với vị trí, tọa độ các điểm mốc đã cấp
cho ông T và bà H đối với thửa đất 253, tờ bản đồ số 13, diện tích 1816,7m
2
, địa
chỉ: khu Đ, xã M, huyện C (nay là khu Đ, xã C, tỉnh Phú Thọ) đã được cấp giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất ngày 07/9/2010.
Tại sơ đồ hiện trạng thửa đất của ông Bùi Văn T và bà Trịnh Thị H do
chi nhánh văn phòng đăng ký đất đai huyện C lập thể hiện: Tổng diện tích
ông T, bà H đang sử dụng là 1773,7m
2
. Sơ đồ trên là do bà H tự dẫn đạc ngày
27/3/2024, không đúng chỉ giới đã cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của
bà H, ông T.
Tại biên bản xem xét, thẩm định và định giá tài sản ngày 27/3/2024 thể
hiện:
Thửa đất số 253, tờ bản đồ số 15 đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất đứng tên ông Bùi Văn T và bà Trịnh Thị H, diện tích 1816,7m
2
. Đo
hiện trạng theo các chỉ giới, mốc giới được bà H, ông Đ tự dẫn đạc cho đơn vị
đo vẽ nên có diện tích là 1773,7m
2
được thể hiện theo chỉ giới
21,22,23,24,25,26,27,28,29,30,31,32,33,34,35,36,37,21.
Thửa đất số 259, tờ bản đồ số 15, đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất đứng tên ông Nguyễn Minh Đ và bà Trịnh Thị N, diện tích 2705,5m
2
.
Đo hiện trạng là 2705,5m
2
(ONT:400m
2
, CLN:2305,5m
2
). Theo chỉ giới
1,2,3,4,5,6,7,8,9,10,11,12,13,14,15,16,17,18,19,20,1.
Diện tích đất đang tranh chấp giữa bà H với hộ ông B là: 22,8m
2
; với hộ
bà Trịnh Thị N là 65,9m
2
, trên đất tranh chấp có 41,51m dài tường rào xây gạch
chỉ không trát, cao 1,6m có bổ trụ.
5
Hiện trạng đường đi chung của các hộ gia đình bà H, ông B, bà T thể hiện
như trong sơ đồ tại bản trích đo hiện trạng ranh giới, quyền sử dụng đất, quyền
sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất cho ông Đức, bà H, bà X.
Hộ gia đình bà N không đi con đường này nhưng nguyên đơn bà H cho
rằng gia đình bà N sau khi múc đất đã sử dụng không đúng mốc giới nên xây
tường rào lấn vào đường đi chung này.
Tại biên bản định giá tài sản ngày 27/3/2024 thể hiện:
Quyền sử dụng 1m
2
đất ở được định giá 600.000đ/m
2
; Quyền sử dụng 1m
2
đất vườn có giá 250.000đ/m
2
; Tường rào xây gạch chỉ, không trát, có bổ trụ cao
trung bình 1,6m, dài: 41,51m, được định giá 350.000đ/m
2
.
Tại biên bản xác minh ngày 30/7/2025, đại diện chi nhánh văn phòng
đăng ký đất đai C có quan điểm: Vào ngày 14/11/2023, văn phòng đăng ký đất
đai và phát triển quỹ đất (nay là chi nhánh văn phòng đất đai C) nhận được việc
phân chia thừa kế, tặng cho tài sản của bà N. Cụ thể, bà N tặng cho quyền sử
dụng đất cho anh Nguyễn Hữu D và chị Quán Thị H diện tích 1015,7m
2
(ONT:
150m
2
, CLN: 865,7m
2
), tặng cho chị Nguyễn Thị D diện tích 240,2m
2
(ONT:
50m
2
, CLN: 190,2m
2
), tặng cho chị Nguyễn Thị Đ diện tích 280,5m
2
(ONT:150m
2
,CLN:230,5m
2
), tặng cho chị Nguyễn Thị Đ diện tích 248,6m
2
(ONT:50m
2
, CLN:198,6m
2
). Căn cứ Quyết định của UBND huyện C, cấp đổi
cho bà N diện tích 346,3m
2
(ONT:50m
2
,CLN:296,3m
2
). Thửa đất số 406, diện
tích còn lại là 0m
2
. Thu hồi giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Tuy nhiên, khi
đó văn phòng đăng ký đất đai và phát triển quỹ đất huyện C đang hoàn thiện hồ
sơ, thủ tục giấy tờ thì nhận được đơn thư của của bà Trịnh Thị H về việc tranh
chấp đất đai với bà Trịnh Thị N. Do vậy hồ sơ tặng cho đất của bà N cho những
người có tên nêu trên chưa hoàn thiện để cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng
đất cho những người có tên ở trang số 4 giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của
ông Đức, bà N. Nên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất vẫn thuộc quyền sử
dụng đất của bà N.
Tại bản trích đo hiện trạng ranh giới quyền sử dụng đất, quyền sở hữu
nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất cho bà N, bà H, bà X ngày 19/8/2025 của
Công ty TNHH tư vấn tài nguyên môi T Minh Quang đã xác định được hộ gia
đình bà H, bà N và bà T đều sử dụng đúng diện tích được cấp theo chỉ giới đã
được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, không có việc lấn chiếm. Ngoài
ra, đã xác định được hộ gia đình bà X đã xâm lấn có diện tích 47,9m
2
đất ra
đường giao thông của ba hộ theo chỉ giới
33,38,39,40,41,42,43,44,45,46,47,34,33. Tuy nhiên bà H, ông Đ không đồng ý
cho rằng việc đo đạc, xác định chưa rõ ràng, bức tường rào nhà bà N đã được
xây dựng ra bên ngoài, không đúng với đường đi chung.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện C phát biểu quan điểm:
- Về thủ tục tố tụng: Việc tuân theo pháp luật tố tụng dân sự trong quá
trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa, Thẩm phán, Hội đồng xét xử, người tiến
hành tố tụng và người tham gia tố tụng từ khi thụ lý vụ án cho đến trước thời
điểm Hội đồng xét xử nghị án, đều thực hiện đúng quy định của pháp luật.

6
- Về việc giải quyết vụ án: Đề nghị Hội đồng xét xử: Áp dụng Điều 166,
174, 175, 176, 186, 246 Bộ luật dân sự năm 2015; khoản 1 Điều 147, Điều 227
Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015; Khoản 2 Điều 1 Luật số 85/2025/QH15 ngày
25/6/2025 của Quốc hội về sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật tố tụng dân
sự, Luật tố tụng hành chính, Luật tư pháp người chưa thành niên, Luật phá sản
và Luật hòa giải, đối thoại tại Tòa án; Điều 12, Điều 26 Luật đất đai năm 2013;
khoản 1 Điều 11, khoản 1 Điều 17, khoản 3,6 Điều 23, khoản 1,3 Điều 25,
khoản 1 Điều 236 Luật Đất đai 2024; Căn cứ điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị
quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc
hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ
phí tòa án. Xử:
1. Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Trịnh Thị H về việc bà
Trịnh Thị N lấn chiếm sử dụng khoảng 100m
2
của gia đình bà H. Yêu cầu bà N
sử dụng đúng mốc giới theo bìa đỏ, theo bản đồ đã được cấp cho bà N để trả lại đủ
đất cho gia đình bà H theo giấy chứng nhận mà gia đình bà H được cấp khoảng
100m
2
; Buộc bà N phải tháo dỡ bức tường rào xây gạch chỉ dài 41,51m xây lấn
ra phía đường đi ba hộ.
2. Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Trịnh Thị H về việc gia đình
ông Quán Đức B, bà Trịnh Thị T lấn chiếm 20m
2
đất và trả lại diện tích đất.
3. Về chi phí tố tụng: Nguyên đơn bà Trịnh Thị H phải chịu toàn bộ chi
phí xem xét, thẩm định tại chỗ định giá tài sản và đo vẽ số tiền 16.039.257đ
(Mười sáu triệu không trăm ba mươi chín nghìn hai trăm năm mươi bảy đồng).
Xác nhận bà H đã nộp đủ số tiền trên.
4. Về án phí: Bà H được miễn án phí dân sự sơ thẩm do là người cao tuổi.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Căn cứ vào các tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, trên cơ sở xem xét
đầy đủ toàn diện các chứng cứ, được thẩm tra tại phiên tòa hôm nay, căn cứ vào
kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Về tố tụng:
[1.1]. Về quan hệ pháp luật tranh chấp: Tranh chấp giữa các bên là tranh
chấp về quyền sử dụng đất, đây là tranh chấp thuộc quyền giải quyết của Tòa án
theo quy định tại điều 26 Bộ luật tố tụng dân sự.
[1.2]. Về thẩm quyền giải quyết của Tòa án: Bị đơn có hộ khẩu thường trú
tại khu Đ, xã M, huyện C, tỉnh Phú Thọ (nay là khu Đ, xã C, tỉnh Phú Thọ. Căn
cứ điểm a khoản 1 điều 35; điểm a khoản 1 điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự;
Khoản 2 Điều 1 Luật số 85/2025/QH15 ngày 25/6/2025 của Quốc hội về sửa
đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật tố tụng dân sự, Luật tố tụng hành chính,
Luật tư pháp người chưa thành niên, Luật phá sản và Luật hòa giải, đối thoại tại
Tòa án; thì vụ án thuộc thẩm quyền của Tòa án nhân dân huyện C, tỉnh Phú Thọ
(nay là Toà án nhân dân khu vực 6 – Phú Thọ).
[2] Về nội dung vụ án:
[2.1] Về yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn:
Nguyên đơn bà Trịnh Thị H khởi kiện bà Trịnh Thị N xâm lấn sang phần
7
đất thổ cư của gia đình bà H khoảng 100m
2
và bức tường rào xây gạch chỉ của
gia đình bà N dài 41,51m xây lấn ra phía đường đi ba hộ. Hộ ông Quán Đức B -
bà Trịnh Thị T lấn sang phần đất gia đình bà H khoảng 20m
2
, Hội đồng xét xử
thấy rằng:
Căn cứ vào nguồn gốc phần diện tích đất đang tranh chấp giữa bà Trịnh
Thị H đối với bà Trịnh Thị N, ông Quán Đức B – bà Trịnh Thị T:
- Ngày 07/9/2010, gia đình ông Bùi Văn T và bà Trịnh Thị H được Ủy
ban nhân dân huyện C cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đối với thửa đất
số 253, tờ bản đồ số 13 tại khu 4 xã P(nay là khu Đ, xã C), tỉnh Phú Thọ với
diện tích 1.816,7m
2
(Theo chỉ giới
21,22,23,24,25,26,27,28,29,30,31,32,33,34,35,36,37,21) là đúng quy định của
pháp luật.
- Thửa đất số 228, tờ bản đồ số 13, diện tích 2705,5m
2
tại khu Đ, xã M,
huyện C, tỉnh Phú Thọ. Đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đứng
tên vợ cH bà Trịnh Thị N và ông Nguyễn Minh Đ (Ông Đ đã chết 21/3/2022 âm
lịch). Thửa đất trên được bà N làm hợp đồng tặng cho các con nhưng trong quá
trình làm thủ tục để cấp giấy chứng nhận đất thì phát sinh chấp quyền sử dụng
đất giữa bà H và bà N nên vẫn chưa hoàn tất thủ tục sang tên cho các con của bà
N. Nên hiện tại thửa đất trên vẫn mang tên bà N.
(Theo chỉ giới 1,2,3,4,5,6,7,8,9,10,11,12,13,14,15,16,17,18,19,20,1.)
- Thửa đất số 269, tờ bản đồ số 13, diện tích 1227,5m
2
,tại khu Đ, xã M,
huyện C, tỉnh Phú Thọ. Đã được cấp giấy chúng nhận quyền sử dụng đất đứng
tên vợ cH Quán Đức B và bà Trịnh Thị T.
Về ranh giới, mốc giới thửa đất giữa bà H, bà N, bà T thể hiện: Nhà bà H
và bà N cách nhau ranh giới là 01 con đường, cũng như gia đình bà T có thửa đất
giáp với đất của bà H. Theo bản đồ địa chính các gia đình đã sử dụng để làm lối đi
chung. Quá trình sử dụng đất do trước kia là phần đất trên cao nên các gia đình đã
hạ thấp đất xuống, trong đó gia đình bà H đã hạ phần đất của bà H trước, sau đó
các hộ liền kề bà N, bà T hạ phần đất sau.
Đến tháng 4/2022, gia đình bà H cùng với các gia đình: bà X, vợ cH ông
B - bà T và gia đình bà N có thống nhất với nhau để hạ mặt bằng đất vì trước kia
đất các gia đình là đồi gò cao, mấp mô. Trước khi hạ mặt bằng, gia đình nhà bà
H cùng gia đình bà X, vợ cH ông B và gia đình bà N đã thống nhất mốc giới và
đường đi mà các gia đình cũng như mọi người đang đi, kể cả hàng rào giáp ranh
giữa gia đình nhà bà với gia đình bà X, gia đình ông B và gia đình bà N đều
được thống nhất rõ ràng. Đồng thời các gia đình đã thống nhất chốt mốc giới để
làm ranh giới cho các bên, tránh sau khi hạ đất xong sẽ bị dịch chuyển mốc giới
cũ, lấn chiếm sang đất của nhau. Việc thống nhất này không có sự chứng kiến
của chính quyền địa phương để ghi nhận lại. Nhưng sau khi hạ xong, bà H cho
rằng gia đình bà N và gia đình bà T, ông B đã tự ý chuyển mốc giới cũ đã được
thống nhất và lấn chiếm sang đất nhà bà H. Cụ thể: Phần đất giáp nhà ông B, bà
T đã bị ông B và bà T tự ý chuyển mốc giới lấn sang đất nhà bà khoảng 4,3m;
Phần đất giáp gia đình nhà bà N thì gia đình bà N tự ý dịch chuyển mốc giới,
8
cổng nhà bà H lại nằm trong phần đất thổ cư nhà bà N. Các gia đình đã đề nghị
đơn vị đo đạc độc lập, kiểm tra đo, xác định lại con đường theo bản đồ. Sau khi
đo, thì xác định được gia đình bà N có múc vào phần đường đi chung, sau đó gia
đình bà N đã trả lại con đường theo đúng vị trí mà đơn vị đo đạc đã kiểm tra.
Nhưng bà H không nhất trí với vị trí con đường mà đơn vị đo đạc đã đo. Bà H
có đề nghị UBND xã M kiểm tra lại đất nhà bà H, uỷ ban xã đã kiểm tra, cắm
mốc giới và bàn giao mốc giới cho các gia đình sử dụng theo bản đồ và bìa đỏ
mà các gia đình đã được cấp, nhưng bà H không nhất trí với mốc giới mà ủy ban
xã đã kiểm tra, mà vẫn cho rằng gia đình bà N đang sử dụng đất lấn chiếm vào
diện tích của bà H có diện tích 100m
2
, bức tường rào xây gạch chỉ dài 41,51m
xây ra phần đường đi chung của ba hộ.
Quá trình Toà án tiến hành xem xét thẩm định tại chỗ ngày 27/3/2024 bà
H cũng như ông Đ là người đại diện theo uỷ quyền đều cho rằng ranh giới phần
đất phía sau nhà bà H không giáp ranh với thửa đất 268 (533,9m
2
đất LNK) nên
bà H tự dẫn đạc các mốc giới khiến diện tích đất bà H bị giảm từ 1816,7m
2
xuống
còn 1773,7m
2
. Việc bà H tự dẫn đạc này không đúng với các toạ độ các điểm mốc
giới tại giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đã cấp cho bà H cũng như các hộ liền
kề.
Ngày 19/8/2025 Tòa án đã xem xét, thẩm định đối với hiện trạng sử dụng
đất theo giấy chứng nhận quyền sử dụng đất (Bản trích đo hiện trạng ranh giới,
quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất cho hộ
ông Nguyễn Minh Đức, bà Trịnh Thị H của Công ty TNHH tư vấn tài nguyên môi
T Minh Quang). Xác định được mốc giới, chỉ giới, toạ độ của gia đình bà H, bà N
đang sử dụng đúng mốc giới, diện tích được giao, không có sự lấn chiếm của bà
N đối với gia đình bà H; Đồng thời tại chỉ giới 30, 31 (đã cấp cho gia đình bà H)
tiếp giáp với thửa đất 268 (533,9m
2
đất LNK) chứ không phải là thửa đất nào
khác như việc bà H tự dẫn đạc ngày 27/3/2024. Bà H, ông Đ đều cho rằng mặc dù
đã được đơn vị đo đạc xác định đúng vị trí toạ độ được cấp giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất cho ông T - bà H nhưng bà H, ông Đ chưa thấy rõ ràng, giữa
thửa đất 253 của bà H và thửa đất 268 còn có một lối đi rộng khoảng 3m của hộ
ông Quán Đức B và bà Trịnh Thị X nên bà H không thừa nhận diện tích đất của
bà H tiếp giáp với thửa đất 268. Tuy nhiên lời trình bày của bà H không phù hợp
tài liệu là bản đồ địa chính VN 2000 và bản đồ 299 nên không có căn cứ để chấp
nhận.
Đối với bức tường rào xây gạch chỉ dài 41,51m của nhà bà Trịnh Thị N
(theo chỉ giới từ 16, 17, 18, 19, 20) bà H trình bày bà N xây lấn, đẩy ra phía
đường đi ba hộ là bà Trịnh Thị H, bà Trịnh Thị X, bà Trịnh Thị T. Tuy nhiên
qua kiểm tra đo đạc bức tường này hiện đang sử dụng theo đúng chỉ giới được
cấp cho gia đình bà N. Hơn nữa nếu có việc xây dựng lấn vào diện tích của 03
hộ là lối đi chung thuộc quyền quản lý của UBND xã C, tỉnh Phú Thọ.
Từ những phân tích nêu trên thấy rằng: Việc bà Trịnh Thị H khởi kiện yêu
cầu bà Trịnh Thị N lấn chiếm sử dụng khoảng 100m
2
của gia đình bà H. Yêu cầu
bà N sử dụng đúng mốc giới theo bìa đỏ, theo bản đồ đã được cấp cho bà N để trả

9
lại đủ đất cho gia đình bà H theo giấy chứng nhận mà gia đình bà H được cấp
khoảng 100m
2
; Buộc bà N phải tháo dỡ bức tường rào xây gạch chỉ dài 41,51m
xây lấn ra phía đường đi ba hộ; Gia đình ông Quán Đức B, bà Trịnh Thị T lấn
chiếm 20m
2
đất là hoàn toàn không có căn cứ để chấp nhận.
[3]. Về chi phí tố tụng: Bà Trịnh Thị H phải chịu số tiền 16.039.257đ
(Mười sáu triệu không trăm ba mươi chín nghìn hai trăm năm mươi bảy đồng)
chi phí đo đạc, xem xét thẩm định, định giá tài sản. Xác nhận bà Trịnh Thị H đã
nộp đủ số tiền 16.039.257đ (Mười sáu triệu không trăm ba mươi chín nghìn hai
trăm năm mươi bảy đồng).
[4] Về án phí sơ thẩm: Do yêu cầu của nguyên đơn không được chấp nhận
nên nguyên đơn phải chịu án phí theo quy định của pháp luật. Tuy nhiên do bà
H là người cao tuổi nên miễn án phí dân sự sơ thẩm.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ khoản 3 Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39,
khoản 1 Điều 147, Điều 156, Điều 157, Điều 165, Điều 166, Điều 217, Điều
227, khoản 2 Điều 244, Điều 271 và Điều 273 của Bộ luật tố tụng dân sự năm
2015; Khoản 1 Điều 17; Điều 26; Khoản 1 Điều 236 của Luật đất đai năm 2024;
Điều 166, 174, 175, 176, 186, 246 Bộ luật dân sự năm 2015; khoản 1
Điều 147, Điều 227 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015; Khoản 2 Điều 1 Luật số
85/2025/QH15 ngày 25/6/2025 của Quốc hội về sửa đổi, bổ sung một số điều
của Bộ luật tố tụng dân sự, Luật tố tụng hành chính, Luật tư pháp người chưa
thành niên, Luật phá sản và Luật hòa giải, đối thoại tại Tòa án; Điều 12, Điều
26; Luật đất đai năm 2013; Căn cứ điểm đ, khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số
326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy
định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí tòa
án. Xử:
1. Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Trịnh Thị H về việc bà
Trịnh Thị N lấn chiếm sử dụng khoảng 100m
2
của gia đình bà H. Yêu cầu bà N
sử dụng đúng mốc giới theo bìa đỏ, theo bản đồ đã được cấp cho bà N để trả lại đủ
đất cho gia đình bà H theo giấy chứng nhận mà gia đình bà H được cấp khoảng
100m
2
; Buộc bà N phải tháo dỡ bức tường rào xây gạch chỉ dài 41,51m xây lấn
ra phía đường đi ba hộ.
2. Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Trịnh Thị H về việc gia đình
ông Quán Đức B, bà Trịnh Thị T lấn chiếm 20m
2
đất và yêu cầu trả lại diện tích đất.
3. Về chi phí tố tụng: Nguyên đơn bà Trịnh Thị H phải chịu toàn bộ chi
phí xem xét, thẩm định tại chỗ định giá tài sản và đo vẽ số tiền 16.039.257đ
(Mười sáu triệu không trăm ba mươi chín nghìn hai trăm năm mươi bảy đồng).
Xác nhận bà H đã nộp đủ số tiền trên.
4. Về án phí dân sự sơ thẩm:
Bà H được miễn án phí dân sự sơ thẩm do là người cao tuổi.
5. Về quyền kháng cáo: Trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, Đ sự có
mặt được quyền kháng cáo; Đ sự vắng mặt được quyền kháng cáo trong hạn 15
10
ngày kể từ ngày được giao Bản án hoặc Bản án được niêm yết để yêu cầu Tòa án
nhân dân tỉnh Phú Thọ xét xử phúc thẩm.
T hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi
hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự
có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành
án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a và 9 Luật
Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều
30 Luật thi hành án dân sự.
Nơi nhận:
- TAND tỉnh Phú Thọ;
- VKSND tỉnh Phú Thọ;
- VKSND khu vực 6 – Phú Thọ;
- THADS tỉnh Phú Thọ;
- Các Đ sự;
- Lưu HS; VP.
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ SƠ THẨM
THẨM PHÁN - CHỦ TOẠ PHIÊN TOÀ
Trần Việt Dũng
Tải về
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án/ Quyết định cùng đối tượng
1
Ban hành: 17/11/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
2
Ban hành: 29/10/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
3
Ban hành: 25/10/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
4
Ban hành: 21/10/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
5
Ban hành: 06/10/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
6
Ban hành: 02/10/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
7
Ban hành: 30/09/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
8
Ban hành: 30/09/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
9
Ban hành: 30/09/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
10
Ban hành: 30/09/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
11
Ban hành: 30/09/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
12
Ban hành: 30/09/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
13
Ban hành: 30/09/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
14
Ban hành: 30/09/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
15
Ban hành: 30/09/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
16
Ban hành: 30/09/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
17
Ban hành: 30/09/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
18
Ban hành: 29/09/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
19
Ban hành: 29/09/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
20
Ban hành: 29/09/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm