Bản án số 191/2025/DS-PT ngày 14/04/2025 của TAND tỉnh Tây Ninh về tranh chấp quyền sử dụng đất

  • Thuộc tính
  • Nội dung
  • VB gốc
  • VB liên quan
  • Lược đồ
  • Đính chính
  • Án lệ
  • BA/QĐ cùng nội dung
  • Tải về
Tải văn bản
Báo lỗi
  • Gửi liên kết tới Email
  • Chia sẻ:
  • Chế độ xem: Sáng | Tối
  • Thay đổi cỡ chữ:
    17

Thuộc tính Bản án 191/2025/DS-PT

Tên Bản án: Bản án số 191/2025/DS-PT ngày 14/04/2025 của TAND tỉnh Tây Ninh về tranh chấp quyền sử dụng đất
Quan hệ pháp luật: Tranh chấp quyền sử dụng đất
Cấp xét xử: Phúc thẩm
Tòa án xét xử: TAND tỉnh Tây Ninh
Số hiệu: 191/2025/DS-PT
Loại văn bản: Bản án
Ngày ban hành: 14/04/2025
Lĩnh vực: Dân sự
Áp dụng án lệ:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Đính chính:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Thông tin về vụ/việc: Tranh chấp quyền sử dụng đất giữa ông Lê Hồ Đăng K và ông Lê Văn Đ
Tóm tắt Bản án

Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!

Tải văn bản

NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH TÂY NINH
- Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa: Ông Trần Thanh Tòng.
Các Thẩm Phán:
1. Ông Phạm Văn Diệp;
2. Ông Hà Chí Quốc.
- Thư phiên tòa: Ông Phạm Đức Anh, Thư Tòa án nhân dân tỉnh
Tây Ninh.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Tây Ninh tham gia phiên tòa:
Ông Bùi Quốc Việt, Kiểm sát viên.
Trong các ngày 11, 14 tháng 4 năm 2025, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh
Tây Ninh xét xử phúc thẩm công khai vụ án dân sự thụ số: 10/2025/TLPT-
DS ngày 16 tháng 01 năm 2025, về việc “Tranh chấp quyền sử dụng đất; tranh
chấp hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất; thực hiện nghĩa vụ tài sản do người
chết để lại; bồi thường thiệt hại về tài sản”.
Do Bản án dân sự thẩm số: 253/2024/DS-ST ngày 09 tháng 12 năm
2024 của Toà án nhân dân huyện Châu Thành, tỉnh Tây Ninh bị kháng cáo.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số: 70/2025/QĐ-PT ngày
12 tháng 02 năm 2025; Quyết định hoãn phiên toà số: 33/2025/QĐ-PT ngày 14-
3-2025; giữa các đương sự:
1. Nguyên đơn: Anh Lê Hồ Đăng K, sinh năm 1983; nơi cư trú: Số I Quốc
lộ B, tổ A, khu phố H, phường H, thị xã H, tỉnh Tây Ninh; có mặt.
TÒA ÁN NHÂN DÂN
TỈNH TÂY NINH
Bản án số: 192/2025/DS-PT
Ngày: 14-4-2025
V/v Tranh chấp quyền sử dụng
đất; tranh chấp hợp đồng thế chấp
QSDĐ; Thực hiện nghĩa vụ tài sản
do người chết để lại; Bồi thường
thiệt hại về tài sản”.
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
2
2. Người đại diện hợp pháp của nguyên đơn: Chị Thị Mỹ N, sinh năm
1982; nơi trú: Ấp T, T, huyện T, tỉnh Tây Ninh; người đại diện theo uỷ
quyền; văn bản uỷ quyền ngày 13-12-2022; 28-11-2023; có mặt.
Người bảo vệ quyền lợi ích hợp pháp của nguyên đơn: Ông Phan Văn
V, Luật sư Văn phòng L1 thuộc Đoàn Luật sư tỉnh T; có mặt.
2. Bị đơn: Ông Văn Đ, sinh năm 1950; nơi trú: Tổ A, ấp P, P,
huyện C, tỉnh Tây Ninh; có mặt.
Người đại diện hợp pháp của bị đơn: Ông Văn T, sinh năm 1956; nơi
trú: Tổ A, ấp P, P, huyện C, tỉnh Tây Ninh; người đại diện theo uỷ
quyền; văn bản uỷ quyền ngày 15-11-2024; có mặt.
3. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
3.1. Hồ Thị Ánh N1, sinh năm 1960; chị Hồ Hồng Y, sinh năm
1985; chị Hồ Bạch T1, sinh năm 1986; nơi cư trú: Số I, Quốc lộ B, tổ A, khu
phố H, phường H, thị xã H, tỉnh Tây Ninh.
Người đại diện hợp pháp của Hồ Thị Ánh N1, chị Hồ Hồng Y, chị
Hồ Bạch T1: Anh Hồ Đăng K, sinh năm 1983; nơi trú: Số I, Quốc lộ
B, tổ A, khu phố H, phường H, thị H, tỉnh Tây Ninh; người đại diện theo
uỷ quyền; văn bản uỷ quyền ngày 24-11-2023; có mặt.
3.2. Chị Thị Hồng T2, sinh năm 1982; anh Lê Hồng P, sinh năm 1985;
nơi trú: Ấp N, B, Huyện D, tỉnh Tây Ninh; đơn đề nghị Toà án xét xử
vắng mặt.
3.3. Anh Thành T3, sinh năm 1983; nơi đăng thường trú: Tổ A,
Khu phố C, Phường A, thành phố T, tỉnh Tây Ninh; chỗ hiện nay: 2.20B khu
công nghiệp T, phường P, Quận Ô, Thành phố Cần Thơ; đơn đnghị Toà án
xét xử vắng mặt.
3.4. Chị Thị Hồng T4, sinh năm 1987; nơi đăng thường trú: Số I,
Hẻm F, Đường N, Khu phố F, Phường D, thành phố T, tỉnh Tây Ninh; chỗ
hiện nay: 2.20B khu công nghiệp T, phường P, Quận Ô, Thành phố Cần Thơ; có
đơn đề nghị Toà án xét xử vắng mặt.
3.5. Anh Văn S, sinh năm 1995; nơi đăng thường trú: Tổ C, ấp V,
A, huyện C, tỉnh Tây Ninh; nơi trú: Số C, tổ B, đường H, Khu phố E,
Phường A, thành phố T, tỉnh Tây Ninh; có mặt.
4. Người kháng cáo: Anh Hồ Đăng K, nguyên đơn; ông Văn Đ,
là bị đơn.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Tại đơn khởi kiện ngày 29-8-2018, đơn khởi kiện bổ sung các ngày 04-3-
2019; 28-11-2023; ngày 25-10-2024 và trong quá trình tham gia tố tụng,
3
nguyên đơn anh Hồ Đăng K người đại diện hợp pháp của nguyên đơn
trình bày:
Anh Khoa tranh chấp quyền sử dụng đất diện tích 13.259,3 m
2
với ông
Văn Đ. Nguồn gốc đất của cụ Văn H (ông nội anh K) cho ông Văn T5
(cha anh K) vào năm 1982, ông T5 đã nhận đất sản xuất trên đất, sau đó cho
em ruột là ông T mượn đất sản xuất đến năm 2001, ông T5 cùng vợ là bà Hồ Thị
Ánh N1 cầm cố phần đất trên cho ông Văn Đ với số tiền 1.800.000 đồng,
sự chứng kiến của cụ H cụ C (cụ C vợ cụ H). Diện ch đất được cho trên
cụ H đã khai, đăng trong sổ mục vào năm 1990, khi được cho đất thì
ông T5 chưa kê khai, đăng ký. Sau khi ông T5 chết (năm 2005) thì bà N1, anh K
yêu cầu ông Đ trả lại đất trả tiền cầm cố đất nhưng ông Đ không đồng ý
trả lại đất vẫn cố tình sản xuất canh tác trên đất. Năm 2011, cụ H làm giấy tặng
cho anh K diện tích 13.529,3 m
2
. Năm 2012, anh K được Ủy ban nhân dân
huyện C, tỉnh Tây Ninh (sau đây viết tắt UBND huyện) cấp giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất (sau đây viết tắt Giấy chng nhận) với diện tích được cấp
7.205 m
2
nhưng đến ngày 16-12-2013 thì UBND huyện ban hành Quyết định số
975/QĐ-UBND, thu hồi Giấy chứng nhận. Qua các cấp giải quyết thì ông Đ
cũng thừa nhận phần đất đang tranh chấp là ông Đ nhận cầm cố của ông T5.
Hiện phần đất trên ông Đ đang bao chiếm, sử dụng, do anh K xa nên không
thể quản lý phần đất trên. Nay anh K khởi kiện ông Lê Văn Đ:
- Yêu cầu trả cho anh Lê Hồ Đăng K và hàng thừa kế thứ nhất của ông
Văn T5 phần đất có tổng diện tích đo đạc thực tế 13.506,3 m
2
, bao gồm:
Thửa số
212, diện tích 8.309,1 m
2
; thửa số 225, diện tích 2.364,4 m
2
; thửa số 227, diện
tích 2.832,8 m
2
; tờ bản đồ số 69; toạ lạc tại ấp P, xã P, huyện C, tỉnh Tây Ninh.
- Yêu cầu tuyên bố Hợp đồng thế chấp, cầm cố đất giữa ông Văn T5,
Hồ Thị Ánh N1 với ông Văn Đ vô hiệu, hai bên hoàn trả cho nhau những
gì đã nhận.
- Yêu cầu ông Lê Văn Đ bồi thường thiệt hại từ việc bao chiếm đất tính từ
năm 2015 đến năm 2024 10 năm tương đương số tiền 20.000.000 đồng/01
năm, tổng cộng thiệt hại 200.000.000 đồng.
- Ông Văn Đ phải tự tháo dỡ, di dời tất cả cây trái, vật dụng, nhà tạm
xây dựng trái phép trên đất.
Bị đơn ông Văn Đ người diện diện hợp pháp ông Văn T trình
bày:
Cụ Văn H cha ruột của các con, gồm: Ông Văn T5, ông Văn
M, Thị Ánh D (chết), ông Văn Đ, ông Văn T; ông Văn H1
(chết); bà Lê Thị H2 Thị H3. Trước năm 1977, cụ H được cha, mẹ cho
01 phần đất tọa lạc tại P, huyện C, tỉnh Tây Ninh. Sau đó, cụ H thống nhất
cho lại các con phần đất trên nhưng cụ chỉ dẫn các con vào đất rồi chỉ đất cho
làm, tại thời điểm này thì đất trên một rừng tre, các con ai khai phá được bao
4
nhiêu thì sản xuất canh tác bấy nhiêu; cụ H không chỉ định cho mỗi người con
diện tích bao nhiêu, qua nhiều lần cải tạo mới hiện trạng đất như bây giờ.
Hiện ông Đ đang quản lý canh tác diện tích đất khoảng 03 ha đất tọa lạc tại ấp P,
P, huyện C, tỉnh Tây Ninh, đất chưa được cấp Giấy chứng nhận. Trong diện
tích đất trên thì có diện tích đất anh K tranh chấp. Nguồn gốc đất tranh chấp này
của cụ Lê Văn H cho các con, cho vợ chồng ông Lê Văn T5Huỳnh Thị
Đ1, vợ chồng ông T5, Đ1 đã khai phá từ năm 1977 làm 01 vụ lúa, sau đó
Đ1 chết đất bỏ hoang để lại cho ông T là em ông Đ làm. Khoảng năm 1994, ông
T5 cùng vợ N1 về cầm cố đất trên cho ông Định giá 04 chỉ vàng (ông T5
nhờ ông Đ mang vàng đi bán về ông giao N1 số tiền 1.800.000 đồng) không
chuộc bỏ luôn đến nay. Phần đất ông T5 cầm cố cho ông diện tích khoảng 7000
m
2
đến 8000 m
2
,
anh K khởi
kiện tranh chấp 13.259,3 m
2
không đúng. Anh K
cho rằng đất trên là của cụ Văn H cho anh K vào năm 2011 không
sở. Sự thật đất đã được cụ H cho các con từ năm 1977, tự các con khai phá
đăng sản xuất canh tác trên đất. Đất vợ chồng ông T5, bà Đ1 được cho thì
ông T5 đã cầm cố cho ông Đ tnăm 1994, sự việc trên anh, em trong gia đình
kể cả ba, mẹ ông đều biết nên cụ H không còn quyền cho phần đất trên cho anh
K. Anh K khởi kiện yêu cầu ông Đ trả diện tích đo đạc thực tế 13.506,3 m
2
đang
bị ông bao chiếm, ông Đ không đồng ý vì các lý do sau:
Việc ông nội cụ H cho anh K đất đã được các cấp chính quyền kết
luận trái pháp luật tại thời điểm cho đất, đất chưa Giấy chứng nhận,
đang tranh chấp giữa N1 ông Đ, đất tranh chấp đất nông nghiệp do
ông Đ đang trực tiếp quản lý, sử dụng, nên cụ H không có quyền tặng cho K; thể
hiện tại Quyết định số 1510/QĐ-UBND ngày 04-8-2015 của UBND huyện về
việc giải quyết đơn khiếu nại của anh K.
Việc cụ H không Giấy chứng nhận, không trực tiếp sử dụng phần đất
đang tranh chấp, đất do ông Đ đang sử dụng nên về mặt pháp thực tế s
dụng đất đều không quyền tặng cho, cụ H đăng trong s mục năm
1989, nhưng năm 1983 phần đất này đã chia cho các con sử dụng nên việc đăng
ký là không đúng thực tế sử dụng đất.
Anh K không ngụ tại nơi có đất, không trực tiếp sản xuất nông nghiệp, mà
ông Đ đang canh tác nên không sở pháp nào để xác lập quyền sử dụng
đất cho anh K.
Ông T5 chết năm 2005, theo Điều 637, 645 Bộ luật Dân sự 2005 Điều
615, 623 Bộ luật Dân s2015 về: Thực hiện nghĩa vụ do người chết để lại và
thời hiệu khởi kiện về thừa kế thì 03 năm ktừ năm 2005 (năm ông T5 chết),
nhưng anh K N1, chị Y, chị T1 không khởi kiện đòi quyền sử dụng đất
nên hết thời hiệu đòi quyền sử dụng đất, đất ông Đ nhận bàn giao từ ông T5 để
sử dụng, ông Đ không bao chiếm đất nên không đồng ý bồi thường số tiền
200.000.000 đồng, không đồng ý di dời, tháo dỡ nhà, cây trồng trên đất. Hiện
cây mì trồng trên đất ông Đ đã thu hoạch xong.
5
Con ông T5 với N1 03 con Hồ Đăng K, Lê Hồ Ánh T6, Hồ
Hoàng Y1; Thành T3, Thị Hồng T4 con ông T5 với Kiều Thị Thu H4;
Thị Hồng T2, Hồng P con ông T5 với Nguyễn Thị Q; Văn S con
ông T5 với Lê Thị H5; Dương Hoài P1 con ông T5 với Dương Thị Ngọc
B; tên Văn T7 con nuôi ông T5 với người vợ đầu tên Huỳnh Thị Đ1. Đối với
tài liệu Tán thu thập công khai Giấy khai sinh anh P1 không tên cha; anh
Văn T7 Giấy khai sinh con cụ H ông đề nghị Toà xem xét giải quyết theo
quy định của pháp luật.
Tại phiên toà sơ thẩm, ông T đại diện không đồng ý toàn bộ yêu cầu khởi
kiện của anh K. Ông T xác định đất hiện nay do ông Đ sử dụng, không cho ai
thuê mướn và cây mì trên diện tích thửa 212 đã thu hoạch xong.
Người quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Hồ Thị Ánh N1 người đại
diện hợp pháp trình bày:
là vợ ông Văn T5, đăng kết hôn, chung sống với nhau 03
người con: Lê Hồ Đăng K, Hồ Hồng Y, Lê Hồ Bạch T1. Cụ Lê Văn H là cha
chồng bà, ông Lê Văn Đ là em chồng bà.
Nguồn gốc phần đất tranh chấp trên của cụ Lê Văn H và cụ Đặng Thị C
ông, bà nội để lại cho K. Năm 1982, cụ H có chia đất cho các con, ông T5 chồng
bà được chia diện tích 14.000 m
2
. Năm 1998, vợ chồng có cho ông Văn T
(em ruột ông T5) mượn đất trồng thuốc vàng, mía, lúa đến năm 2001 thì lấy
lại cầm cố cho ông Văn Đ với số tiền 1.800.000 đồng. Ông Đ cho người
khác thuê lại trồng mía, năm 2002 vợ chồng N1 gặp ông Đ xin trả lại tiền
lấy đất lại làm nhưng ông Đ hứa hẹn không trả. Năm 2005, ông T5 chết. Năm
2011, cụ H, cụ C đến y ban nhân dân P, huyện C, tỉnh Tây Ninh làm
giấy cho tặng đất trên cho cháu Hồ Đăng K phần đất đang tranh chấp. Do
đất cụ tặng cho chưa được cấp Giấy chứng nhận nhưng trong sổ mục kê thì cụ H
đã đăng khai. N2 thống nhất với toàn bộ yêu cầu khởi kiện của anh K,
không bổ sung gì thêm.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan chị Lê Hồ Bạch T1 trình bày:
Chị thống nhất với toàn bộ yêu cầu khởi kiện của anh K, yêu cầu ông Đ
trả đất cho gia đình chị sản xuất.
Người quyền lợi, nghĩa vụ liên quan chị Hồ Hồng Y người đại
diện hợp pháp trình bày:
Chị Y con ruột của ông Văn T5 bà HThị Ánh N1, thống nhất
với toàn bộ yêu cầu khởi kiện của anh K, không bổ sung gì thêm.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan chị Lê Thị Hồng T2, anh Hồng
P thống nhất trình bày:
Anh chị con ruột của ông Văn T5 (chết năm 2005) và mẹ ruột
Nguyễn Thị Q; anh K anh em cùng cha khác mẹ, anh K con của Hồ Thị
6
Ánh N1. Đối với yêu cầu khởi kiện của anh K yêu cầu ông Đ trả diện tích
13.506,3 m
2
, các thửa đất số 212, số 225 và số 227; tbản đồ s69; toạ lạc tại
ấp P, P, huyện C, tỉnh Tây Ninh; anh chị ý kiến yêu cầu ông Đ trả đất cho
hàng thừa kế thứ nhất của ông Văn T5; yêu cầu Toà án xem xét, giải quyết
vụ án theo quy định của pháp luật bảo đảm quyền lợi của anh, chị.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan chị Lê Thị Hồng T4, anh Lê Thành
T3 trình bày:
Anh chị con ruột của ông Văn T5 (chết ngày 23-01-2005) bà
Kiều Thị Thu H4; anh K anh em cùng cha khác mẹ, anh K con của Hồ
Thị Ánh N1. Yêu cầu khởi kiện của anh K đối với ông Đ về việc tranh chấp
quyền sử dụng đất, anh chị yêu cầu Toà án xem xét, giải quyết vụ án theo quy
định của pháp luật.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan anh Lê Văn S trình bày:
Anh con ruột của ông Văn T5 (chết năm 2005) Thị H5.
Anh thống nhất với toàn bộ yêu cầu khởi kiện của anh K đối với ông Đ, yêu cầu
Toà án xém xét buộc ông Đ trả phần đất tranh chấp cho anh K.
Quá trình giải quyết vụ án từ năm 2018 cho đến nay:
1. Bản án dân sự thẩm số: 60/2023/DS-ST ngày 29 tháng 5 năm 2023,
của Toà án nhân dân huyện Châu Thành, tỉnh Tây Ninh; đã quyết định:
- Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của anh Hồ Đăng K đối với ông
Văn Đ vtranh chấp quyền sử dụng đất với diện tích 13.259,3 m
2
, thuộc các
thửa đất mới số 212; 225 và 227, tờ bản đồ số 69 năm 2010. Đất tọa lạc tại ấp P,
P, huyện C, tỉnh Tây Ninh. Theo đồ 171/SĐHT ngày 30-01-2023 của Văn
phòng đăng ký đất đai tỉnh T Chi nhánh C2 vẽ và bổ sung.
- Không chấp nhận yêu cầu bồi thường thiệt hại tiền thuê đất số tiền
80.000.000 (tám mươi triệu) đồng của anh Hồ Đăng K đối với ông Văn
Đ.
2. Bản án dân sự phúc thẩm số: 386/2023/DS-PT ngày 29 tháng 9 năm
2023, của Toà án nhân dân tỉnh Tây Ninh; đã quyết định:
- Huỷ Bản án dân sự thẩm số: 60/2023/DS-ST ngày 29 tháng 5 năm
2023 của Toà án nhân dân huyện Châu Thành, tỉnh Tây Ninh.
- Giao hồ về Toà án nhân dân huyện Châu Thành, tỉnh Tây Ninh giải
quyết lại theo quy định của pháp luật.
Tại Bản án dân sự thẩm số: 253/2024/DS-ST ngày 09 tháng 12 năm
2024 của Toà án nhân dân huyện Châu Thành, tỉnh Tây Ninh, đã quyết định:
Căn cứ Điều 139, 728, 731 Bộ luật Dân sự năm 1995; Điều 131, 166, 584,
615 Bộ luật Dân sự năm 2015; Điều 166, 188 Luật Đất đai; Điều 12, 26 Nghị
quyết số 326/2016/UBTVQH 14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc
7
hội qui định vmức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý, sử dụng án phí và lệ phí
Tòa án.
1. Chp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn anh Hồ
Đăng K về việc “Tranh chấp quyền sử dụng đất; Tuyên bhợp đồng thế chấp
quyền sử dụng đất vô hiệu” đối với bị đơn ông Lê Văn Đ.
1.1. Buộc ông Văn Đ trả cho anh HĐăng K hàng thừa kế thứ
nhất của ông Lê Văn T5 gồm Hồ Thị Ánh N1, chị Lê Hồ Hồng Y, chị Hồ
Bạch T1, chị Thị Hồng T2, anh Hồng P, chị Thị Hồng T4, anh
Thành T3, anh Văn S phần đất diện tích 13.506,3 m
2
, gồm các thửa 212, 225,
227, tờ bản đồ số 69, đất tọa lạc tại ấp P, xã P, huyện C, tỉnh Tây Ninh.
Phần đất có tứ cận như sau:
Thửa 212, tờ bản tờ 69, hướng đông tiếp giáp đường đất độ dài các đoạn
14.28 m + 20.60 m; hướng tây tiếp giáp thửa 209 dài 64.00 m; hướng nam tiếp
giáp thửa 252, 225 độ dài các đoạn 60.00 m + 16.00 m + 23.00 m + 8.56 m +
67.72 m + 10.03 m + 3.29 m; hướng bắc tiếp giáp thửa 251 độ dài các đoạn 109
m + 11.57 m + 59.78 m;
Thửa 225, tờ bản đồ 69 hướng đông tiếp giáp mương dài 30.90 m; hướng
tây tiếp giáp thửa 252 độ dài các đoạn 2.59 m + 34.00 m; hướng nam tiếp giáp
thửa 227 dài 84.16 m; hướng bắc tiếp giáp thửa 212 độ dài các đoạn 8.56 m +
67.72 m + 10.03 m + 3.29 m;
Thửa 227, tờ bản đồ 69 hướng đông tiếp giáp mương dài 46.17 m; hướng
tây tiếp giáp thửa 253 dài 40.31 m; hướng nam tiếp giáp thửa 239 độ dài các
đoạn 62.24 m + 5.89 m + 3.86 m; hướng bắc tiếp giáp thửa 225 độ dài 84.16
m. (Kèm theo sơ đồ thửa đất số 3789/SĐHT do Văn phòng đăng đất đai tỉnh
T Chi nhánh C2 vẽ ngày 18-6-2024).
Anh Hồ Đăng K hàng thừa kế thứ nhất của ông Văn T5 gồm
Hồ Thị Ánh N1, chị Hồ Hồng Y, chị Hồ Bạch T1, chị Lê Thị Hồng T2,
anh Hồng P, chị Thị Hồng T4, anh Thành T3, anh Văn S được
quyền sử dụng phần đất diện tích 13.506,3 m
2
, gồm các thửa 212, 225, 227, tờ
bản đồ số 69, đất tọa lạc tại ấp P, xã P, huyện C, tỉnh Tây Ninh.
1.2. Tuyên bố hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất đối với diện tích
13.506,3 m
2
, gồm các thửa 212, 225 227, tờ bản đồ số 69 đất tọa lạc tại ấp P,
P, huyện C, tỉnh Tây Ninh giữa ông Văn T5 (chết năm 2005) ông
Văn Đ vô hiệu.
Giao hàng thừa kế thứ nhất của ông Văn T5 gồm T1, anh K, chị Y,
chị T1, chị T2, anh P, chị T4, anh T3, anh S được quyền sở hữu, sử dụng căn
nhà cấp 4 trên đất trị giá 121.085.000 đồng cây trái trên đất gồm: 01 cây
điều; 28 cây dừa; 05 cây xoài; 02 cây mít; 02 cây đu đủ; 26 cây tre Đài Loan, trị
8
giá cây trồng trên đất 13.021.000 đồng, tổng trị giá tài sản trên đất 134.106.000
đồng.
Buộc anh Hồ Đăng K, Hồ Thị Ánh N1, chị Hồ Hồng Y, chị Lê
Hồ Bạch T1, chị Thị Hồng T2, anh Hồng P, chị Thị Hồng T4, anh
Thành T3, anh Văn S nghĩa vụ liên đới thanh toán cho ông Văn Đ số
tiền 135.906.000 (Một trăm, ba mươi lăm triệu, chín trăm, lẻ sáu nghìn) đồng
(Trong đó:1.800.000 đồng của hợp đồng thế chấp hiệu 134.106.000 đồng
trị giá tài sản trên đất).
2. Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn anh HĐăng
K yêu cầu bị đơn ông Văn Đ bồi thường thiệt hại về tài sản số tiền
200.000.000 (Hai trăm triệu) đồng.
Ngoài ra, bản án còn quyết định về chi phí tố tụng, án phí, quyền kháng
cáo; quyền, nghĩa vụ thi hành án của các đương sự.
Ngày 23-12-2024 ông Văn Đ kháng cáo với nội dung: Huỷ bản án dân
sự sơ thẩm.
Ngày 24-12-2024 anh Hồ Đang K1 kháng cáo với nội dung: Buộc ông
Văn Đ bồi thường thiệt hai số tiền 200.000.000 đồng; yêu cầu ông Đ tự tháo
dỡ di dời tài sản gắn liền với đất thửa số 212, tờ bản đồ số 69; tọa lạc tại ấp P, xã
P, huyện C, tỉnh Tây Ninh.
Tại phiên toà phúc thẩm:
Người đại diện hợp pháp của nguyên đơn trình bày ý kiến, với nội dung:
Giữ nguyên nội dung kháng cáo. Anh K1 được cấp Giấy chứng nhận năm 2012;
nguồn gốc đất là của cụ H, cụ khai đăng trong sổ mục kê, cụ đã cho ông
T5, các tình tiết này đều được khẳng định tại Quyết định số: 1777/QĐ-UBND
ngày 04-7-2016 của Ủy ban nhân dân tỉnh T. Bản án hình sự thẩm số 40 năm
2013 đã xử phạt ông Đ về hành vi huỷ hoại tài sản phải bồi thường thiệt
hại cho anh K1; do đó việc ông Đ cất nhà, trồng cây trên đất của anh K1 sai
quy định của pháp luật nên anh K1 không nghĩa vụ phải hoàn trả giá trị tài
sản anh K1 yêu cầu bồi thường 200.000.000 đồng hành vi bao chiếm đất
của ông Đ có căn cứ. Số tiền 1.800.000 đồng ông T5 nhận anh K1 không biết,
sau này khi biết việc này vì trách nhiệm làm con nên anh K1 chấp nhận.
Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nguyên đơn trình bày ý kiến,
với nội dung: Bản án hình sự thẩm số 40/2013/HS-ST ngày 27-3-2013 của
Toà án nhân dân huyện Châu Thành, tỉnh Tây Ninh, có hiệu lực pháp luật, trong
đó ông Đ bị phạt 09 tháng tù, còn phải bồi thường thiệt hại cho anh K1 số tiền
28.386.000 đồng. Điều này chứng minh ông Đ sử dụng đất trái pháp luật nên
việc trồng hoa màu cất nhà trên đất của ông Đ bất hợp pháp, không được
pháp luật thừa nhận và bảo vệ nên anh K1 không có nghĩa vụ hoàn trả trị giá căn
nhà, cây trồng chỉ từ 1-3 năm tuổi; đất của ông T5; anh K1 là con của ông T5
khởi kiện yêu cầu bồi thường số tiền 200.000.000 đồng là chi phí sử dụng đất từ
9
năm 2013 đến nay phù hợp với các mối quan hệ liên quan quyền sử dụng đất
cả trước đây và hiện nay.
Anh Hồ Đăng K trình bày ý kiến, với nội dung: Năm 2006 cụ H xác
định đã cho đất ông T5 cha anh, năm 2012 anh được cấp Giấy chứng nhận,
sau đó bị huỷ do ông Đ tranh chấp cha thế chấp đất cho ông Đ không phải
huỷ do xác định sai nguồn gốc, nguồn gốc đất của cha anh; do đó, đề nghị
không chấp nhận yêu cầu kháng cáo của bị đơn.
Người đại diện hợp pháp của bị đơn trình bày ý kiến, với nội dung:
Toà án cấp thẩm sau khi thụ ván “Tranh chấp quyền sử dụng đất”
nguyên đơn yêu cầu trả lại quyền sử dụng đất được tặng cho do Toà án nhân dân
tỉnh chuyển về đã nhận đơn bổ sung thay đổi yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn:
Yêu cầu tôi trả lại quyền sử dụng đất được thừa kế từ ông Văn T5, ông T5
không giấy tờ về quyền sử dụng đất nên phải xác định ông T5 quyền sử
dụng đất di sản thừa kế hay không thuộc trường hợp phải hoà giải tại Uỷ ban
nhân dân xã mới đủ điều kiện để Toà án thụ giải quyết theo quy định khoản 2
Điều 3 Nghị quyết số 04/2017/NQ-HĐTP ngày 05-5-2027 của Hội đồng Thẩm
phán Toà án nhân dân Tối cao. Các thửa đất 1068, 1081, 1082, 1083, 1084,
1085, 1086, 1089, 1200; tờ bản đồ số 15, bản đồ 299 mới hoàn toàn, chưa
được tổ chức hòa giài tại Ủy ban nhân dân P theo quy định tại Điều 202 Luật
Đất đai 2013 để làm nguồn gốc, quá trình sử dụng đất nhằm xác định ai
người có quyền sử dụng đất chưa có đủ điều kiện khởi kiện quy định tại điểm
b khoản 1 Điều 192 Bộ luật Tố tụng dân sự. Như vậy, Toà án cấp sơ thẩm vi
phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng trong việc thụ đơn thay đổi, bổ sung yêu
cầu khởi kiện của nguyên đơn.
Ông T5 không đăng , khai, không tên trong sổ mục đất đai,
không bất kgiấy tnào về quyền sử dụng đất nhưng cấp sơ thẩm lại công
nhận quyền sử dụng đất tranh chấp của ông T5 chết để lại cho các đồng thừa
kế không căn cứ pháp luật. Cấp thẩm tự công nhận cho ông T5 được
quyền sử dụng đất không bất cứ căn cứ pháp lý nào vi phạm quy định
của Luật Đất đai về các trường hợp được công nhận quyền sử dụng đất.
Quyết định của Ủy ban nhân dân tỉnh T c định đất là của cụ H, theo quy
định của pháp luật thời điểm này nhà nước nghiêm cấm việc chuyển dịch quyền
sử dụng đất dưới mọi hình thức bản thân ông T5 không sdụng đất nên việc
tặng cho đấthiệu do vi phạm điều cấm của pháp luật, ông T5 phải giao trả
lại phần đất nêu trên cho ông H. Ông H đã chết thì các con của ông H được thừa
kế như vậy đã phát sinh người quyền lợi, nghĩa vụ liên quan các con của
ông H nhưng cấp thẩm không đưa vào tham gia tố tụng trong quá trình giải
quyết vụ kiện vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng, không khách quan, toàn
diện.
10
Do Toà án cấp sơ thẩm vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng nêu trên nên
đề nghị huỷ bản án sơ thẩm giao về Toà án cấp sơ thẩm giải quyết lại.
Ông Đ trình bày ý kiến, với nội dung:
Cụ H không có khai dỡ trong đất tranh chấp, cho rằng thế chấp đất tại sao
yêu cầu tôi bồi thường không căn cứ. Phần đất nguyên đơn tranh chấp với
tôi gồm 03 thửa đất: 212, 225, 227, tờ bản đồ số 69; tương ứng các thửa đất:
2330, 1078, 1093, 1196, 1197, 1198, 1199, 1081, 1082, 1083, 1084, 1085, 1086,
1089, 1200; tờ bản đồ số 15, bản đồ 299; còn một phần thửa đất số 1068
trong Biên bản xác minh và trong trích đo bản đồ nhưng cấp sơ thẩm không đưa
vào xem xét giải quyết. Như vậy phần đất tranh chấp ngoài 07 thửa đất 2330,
1078, 1093, 1196, 1197, 1198, 1199, hồ vụ án thể hiện thêm 09 thửa đất:
1068, 1081, 1082, 1083, 1084, 1085, 1086, 1089, 1200 các thửa đất ông đang
sử dụng vào phần đất tranh chấp. Thửa đất số 1253 diện tích 3700 m
2
thuộc diện
tích đất tranh chấp trước đây do ông đăng ký, sử dụng thì cấp thẩm lại đưa ra
khỏi phạm vi diện tích đất tranh chấp.
- Ý kiến của Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Tây Ninh tham gia
phiên tòa:
+ Về tố tụng: Tòa án thụ vụ án quyết định đưa vụ án ra xét xử bảo
đảm đúng quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự; Hội đồng xét xử, Thư phiên
tòa thực hiện đúng trình tự, thủ tục đối với phiên tòa dân sự; các đương sự thực
hiện đúng quyền và nghĩa vụ của mình.
+ Về nội dung: Chấp nhận một phần kháng cáo của nguyên đơn, chấp
nhận một phần kháng cáo của bị đơn; sửa một phần bản án dân sự thẩm, theo
hướng buộc người thừa kế theo pháp luật của ông T5 hoàn trả lại cho ông Đ 04
chỉ vàng.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ trong hồ vụ án được thẩm
tra tại phiên toà; căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa; Ý kiến của đại diện
Viện Kiểm sát. Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về tố tụng:
[1.1] Đơn kháng cáo của nguyên đơn, của bđơn trong thời hạn luật định,
nội dung kháng cáo thuộc phạm vi xét xphúc thẩm phù hợp với quy định tại
các Điều 271, 272, 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự; nên được xem xét giải quyết
theo thủ tục phúc thẩm.
[1.2] Người quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đơn đề nghị xét xử vắng
mặt, căn cứ Điều 296 của Bộ luật Tố tụng dân sự, Toà án tiến hành xét xử vắng
mặt đương sự.
11
[1.3] Căn cứ vào tài liệu, chứng cứ trong hồ vụ án, cấp thẩm xác
định người thừa kế theo pháp luật của ông Lê Văn T5, chết năm 2005, bao gồm:
Hồ Thị Ánh N1, anh Lê Hồ Đăng K, chị Lê Hồ Hồng Y, chị Lê Hồ Bạch T1,
chị Lê Thị Hồng T2, anh Lê Hồng P, chị Lê Thị Hồng T4, anh Lê Thành T3, anh
Lê Văn S; là có căn cứ và đúng quy định tại Điều 651 của Bộ luật Dân sự.
[2] Diện tích đất tranh chấp: Đo đạc thực tế 13.506,3 m
2
, gồm các thửa số
212, số 225 số 227; tờ bản đồ số 69; tọa lạc tại ấp P, P, huyện C, tỉnh Tây
Ninh.
[3] Dữ liệu đất đai thể hiện:
[3.1] Quá trình biến động đất tranh chấp như sau: Kết quả xác minh tại
Văn phòng đăng đất đai tỉnh T Chi nhánh C3 theo sổ mục lưu tại Văn
phòng (từ bút lục số 806 đến số H), thể hiện:
[3.1a] Theo hệ thống bản đồ 2010: Thửa số 212, tờ bản đồ số 69, diện tích
8.309.1 m
2
; tương ứng với các thửa cũ, tờ bản đồ số 15, hệ thống bản đồ 299
sổ mục kê thể hiện:
- Thửa số 2330: Cắt tthửa số 1070, sổ mục thể hiện cụ Văn H
đăng ký.
- Thửa số 1081, sổ mục kê trống.
- Thửa số 1082, sổ mục kê trống.
- Một phần thửa 1068, Trần Văn D1, cấp đổi thửa số 304, tờ bản đồ số 69,
bản đồ 2010.
- Một phần thửa số 1078, sổ mục kê cụ Lê Văn H đăng ký.
- Một phần các thửa gồm: Số 1083; số 1084; số 1085; số 1086; số 1089;
sổ mục kê: trống.
[3.1b] Theo hệ thống bản đồ 2010: Thửa số 225, tờ bản đồ số 69, diện tích
2.364.4 m
2
; tương ứng với các thửa cũ, tờ bản đồ số 15, hệ thống bản đồ 299
sổ mục kê thể hiện:
- Một phần thửa số 1078, sổ mục kê Lê Hồ Đăng K.
- Một phần thửa số 1093, sổ mục kê: trống, phần ghi chú Văn Đ, sinh
năm 1966 (đăng nhầm thửa theo Quyết định số: 1777/QĐ-UBND ngày 04-7-
2016 của Ủy ban nhân dân tỉnh T về việc giải quyết đơn khiếu nại của anh Lê
Hồ Đăng K (lần 2) (từ bút lục 97 đến số A)).
[3.1c] Theo hệ thống bản đồ 2010: Thửa số 227, tờ bản đồ số 69, diện tích
2.832.8 m
2
; tương ứng với các thửa tờ bản đồ số 15, hệ thống bản đồ 299 và
sổ mục kê thể hiện:
- Thửa số 1196, sổ mục kê: trống, phần ghi chú ghi Cao Văn Q1; (đăng ký
nhầm thửa theo Quyết định số: 1777/QĐ-UBND ngày 04-7-2016 của y ban
12
nhân dân tỉnh T về việc giải quyết đơn khiếu nại của anh Hồ Đăng K (lần 2)
(từ bút lục 97 đến số A)).
- Thửa số 1197, sổ mục kê: trống, phần ghi chú ghi Cao Văn Q1; (đăng ký
nhầm thửa theo Quyết định số: 1777/QĐ-UBND ngày 04-7-2016 của y ban
nhân dân tỉnh T về việc giải quyết đơn khiếu nại của anh Hồ Đăng K (lần 2)
(từ bút lục 97 đến số A)).
- Thửa số 1198 và thửa số 1199, sổ mục kê: trống, phần ghi chú Hồ
Đăng K.
- Một phần thửa số 1200, sổ mục kê: trống, phần ghi chú Lê Văn Đ.
[3.2] Kết quả xác minh đối với Ủy ban nhân dân xã P, huyện C, tỉnh Tây
Ninh (bút lục 249), thể hiện: Theo sổ mục kê, sổ địa chính, ông Văn Đ
khai, đăng thửa số 251, diện tích 10.540,9 m
2
; thửa số 252, diện tích 3.725,5
m
2
; thửa số 253, diện tích 2.602,7 m
2
; tờ bản đồ 69; hệ thống bản đồ 2010; toạ
lạc tại ấp P, xã P, huyện C, tỉnh Tây Ninh.
[4] Quyết định số: 1777/QĐ-UBND ngày 04-7-2016 của Ủy ban nhân dân
tỉnh T về việc giải quyết đơn khiếu nại của anh Lê HĐăng K (lần 2), đã
hiệu lực (từ bút lục số 97 đến số A), nội dung:“Nguồn gốc phần diện tích
13.529,3 m
2
đất đang khiếu nại diễn biến vụ việc: Năm 1983, ông H cho
các con mỗi người một phần đất như sau: Ông Văn T5 (cha của ông K), diện
tích 14.000 m
2
(đo đạc lại chỉ còn 13.529,3 m
2
); ông Lê Văn M, diện tích 36.000
m
2
; ông Văn Đ, diện tích 36.000 m
2
; ông Văn T, diện tích 16.000 m
2
; ông
Văn H1, diện tích 12.000 m
2
; Thị H2, diện tích 14.000 m
2
. Việc ông H
cho đất các con chỉ bằng miệng, không giấy tờ. Sau khi được cho đất thì các
con ông H canh tác trồng mía, mì. Ông T5 sản xuất đến năm 1998 rồi cho em
trai ông T mượn đất sản xuất. Đến năm 2001, ông T5 thế chấp phần đất của
ông cho em ruột tên Lê Văn Đ với số tiền 1.800.000 đồng. Sau khi nhận đất, ông
Đ cho người anh em họ tên Văn Đ thuê đất để sản xuất trồng mía.
Tháng 01/2005, ông T5 chết. Ông H yêu cầu UBND xã P đo đạc lại phần đất đã
cho ông T5 để ông K làm giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.”. Đây những
tình tiết, sự kiện đã được xác định trong quyết định của quan nhà nước
thẩm quyền đã hiệu lực pháp luật nên không phải chứng minh theo quy định
tại điểm b khoản 1 Điều 92 của Bộ luật Tố tụng dân sự. Như vậy, tại thời điểm
cụ H cho đất ông T5, thì cụ đã thực tế giao đất trên cho ông T5 canh tác, sản
xuất liên tục từ năm 1983 đến năm 1998; cho em trai là ông Văn T mượn đất
sản xuất; năm 2001 ông T5 thế chấp phần đất của mình cho em ruột ông Lê Văn
Đ.
[5] Điều này còn được khẳng định rõ hơn khi năm 2005 ông T5 chết, năm
2006 cụ H, Chói lập giấy đất cho anh K; đây chính sự kiện cụ H muốn
khẳng định lại một lần nữa đất này cụ đã cho ông T5 và cũng là thủ tục để anh K
thực hiện thủ tục cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất do đất được cho nhưng
13
ông T5 chưa đăng ký, cụ H còn đứng tên đăng ký trong sổ mục kê; ý chí này của
cụ H được thể hiện xuyên suốt trong quá trình quan nhà nước có thẩm quyền
giải quyết vụ việc từ năm 2005 đến năm 2011, năm 2012 cụ H chết; cụ thể như:
Tháng 01 năm 2005, cụ H yêu cầu y ban nhân dân P, huyện C, tỉnh Tây
Ninh (sau đây viết tắt UBND P) đo đạc lại phần đất đã cho ông T5 để anh K
làm giấy chứng nhận quyền sử dụng đất; ngày 24-11-2005, UBND P đã lập
biên bản đo đạc và xác định nguồn gốc đất cho ông K theo yêu cầu của cụ H, do
cụ H trực tiếp chỉ ranh đất (bút lục số 355); ngày 10-02-2006, cụ H làm giấy xác
nhận, giấy uỷ quyền cho cháu nội là Lê Hồ Đăng K đăng ký đất diện tích 14.000
m
2
(đo đạc thực tế còn 13.506,3 m
2
), đơn của cụ H được cán bộ địa chính xã xác
nhận (bút lục số 351); ngày 16-7-2011, cụ H cùng vợ là cụ Đặng Thị C làm giấy
cho cháu nội là anh Hồ Đăng K diện tích 13.529,3 m
2
; 03 người làm
chứng (Lý Văn L, Thanh T8, Cao Văn C1) các ban ngành, đoàn thể,
UBND xã P chứng kiến, xác nhận (bút lục số 352, số C). Đồng thời khi tham gia
giải quyết với quan nhà nước, cụ H luôn trình bày thống nhất việc đất tranh
chấp cụ H đã cho ông T5 ông T5 thế chấp cho ông Đ với số tiền 1.800.000
đồng; nội dung này được trích dẫn ở phần sau.
[6] Việc UBND huyện cấp Giấy chứng nhận cho anh K, sau đó ban hành
Quyết định số 975/QĐ-UBND ngày 16-12-2013 về thu hồi giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất của anh K không phải do xác định sai nguồn gốc như phân
tích nêu trên tranh chấp từ ông Đ ông cho rằng đất này ông T5 cầm
cố cho ông nhưng cấp giấy cho anh K không đúng (bút lục số 75). Văn phòng
đăng ký đất đai tỉnh T - Chi nhánh C3 xác định: Phần diện tích đất 7.205 m
2
cấp
cho Lê Hồ Đăng K năm 2012 (đã bị thu hồi) là thửa đất số 1070, diện tích 8.600
m
2
khi lập thủ tục cấp giấy cho anh K thì thửa số 1070 tách thành: Thửa số
2330, diện tích 4.300 m
2
; thửa số 1078, diện tích 1.700 m
2
; thửa số 1198, diện
tích 605 m
2
; thửa số 1199, diện tích 600 m
2
; tất cả các thửa trên đều do cụ H
khai đăng ký; diện tích đất trên theo bản đồ 2010: Thửa đất số 2330 thuộc thửa
đất số 212; thửa đất số 1078 thuộc thửa đất số 212, số 225; thửa đất số 1198
thuộc thửa đất số 227; thửa đất số 1199 thuộc thửa đất số 227 (từ bút lục số 803
đến số H).
[7] Từ những phân tích nêu trên cùng với các sự kiện khách quan xảy ra
liên quan đến phần đất tranh chấp đầy đcăn cứ khẳng định nguồn gốc đất
tranh chấp là của cụ H cụ H đã tặng cho ông T5; thực tế phản ánh sthật
khách quan; lời khai của cụ Văn H được xác định chứng cứ giá trị
chứng minh trong vụ án theo quy định tại các Điều 93, 94, 95 của Bộ luật Tố
tụng dân sự. Diện tích đất tranh chấp 13.506,3 m
2
, gồm các thửa số 212, số 225
số 227; tờ bản đsố 69; tọa lạc tại ấp P, P, huyện C, tỉnh Tây Ninh;
chiều dài của tcận phợp với biên bản “Về việc đo xác định nguồn gốc
đất để cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất” được UBND P lập ngày 24-
4-2005, có sự tham gia chứng kiến của ông Lê Văn M (con cụ H), ông Lê Văn T
(con cụ H), ông Lâm Tuấn A (ban Q2, xã P) cụ Văn H, thể hiện: Phía
14
Đông chiều dài 120 m; phía Tây chiều dài 159 m; phía Bắc chiều dài
180 m; phía Nam chiều dài 55 m (bút lục số 46); phù hợp với nội dung tại
đơn tố cáo gởi Chủ tịch Uỷ ban nhân dân tỉnh, gởi Thanh Tra tỉnh, đề ngày 05-
11-2012 (từ bút lục số 339 đến số 342), ông Đ trình bày cùng nội dung: Vào
năm 1976 anh hai tôi Văn T5…cùng vợ Huỳnh Thị Đ1 khai phá
khoảng 1,3 ha sản xuất đến năm 1980 Đ1 chết để lại đất khoảng 1,3 ha toạ
lạc tại ấp P, P, huyện C, tỉnh Tây Ninh….Đến năm 1997 anh T5 gặp khó
khăn đem đất đó cầm cố cho tôi; phù hợp với nội dung tại Biên bản làm việc
ngày 04-01-2013 của Thanh Tra tỉnh Tây Ninh (bút lục số 345, số C), ông Đ
trình bày: “Đến năm 1997 ông Tấn T9 cho ông Định giá 4 chỉ vàng 24K diện
tích 1,3 ha (5 đám ruộng, 1 đám đất gò)”. Do đó, tất cả các lời nại ra của bị đơn
là không có cơ sở xem xét.
[8] Tài liệu, chứng cứ trong hồ vụ án thể hiện quá trình giải quyết
tranh chấp ông Lê Văn Đ trình bày không thống nhất, cụ thể:
[8.1] Ông cho rằng đất tranh chấp do mình khai phá, nhưng không cung
cấp được tài liệu, giấy tờ pháp chứng minh như phân tích nêu trên thì
nguốn gốc đất được xác định của cụ H; nên lời nại ra này không sở để
chấp nhận.
[8.2] Ông Đ còn trình bày mua đất của ông T5, tại phiên toà cho rằng
nhận lại công sức khai phá của ông T5 nhưng cũng không cung cấp được tài
liệu, chứng cứ chứng minh và lời trình bày này ràng mâu thuẫn với chính lời
trình bày vừa nêu trên của mục [8.1]; nên không chấp nhận.
[8.3] Căn cứ vào tài liệu trong vụ án chứa đựng nội dung lời trình bày
của ông Văn Đ liên quan đến đất tranh chấp khi quan nhà nước thẩm
quyền giải quyết Toà án thụ giải quyết, thể hiện cụ thể: Biên bản về việc
giải quyết tranh chấp đất đai thân tộc ngày 04-01-2006 của UBND xã P (bút lục
số 349, số 350), ông Đ trình bày: Thời điểm đó thế chấp cho tôi 04 chỉ vàng
(bán được 1.850.000 đồng) cho lại tôi 50.000 đồng….Hiện nay, muốn chuộc lại
phải theo thời giá hiện tại…(việc cho đất này ba tôi cho vào năm 1977)”, cụ
H tham gia trình bày: “Tấn thế cho Đ 2.000.000 đồng nhưng Đ chỉ chồng
1.850.000 đồng…tôi biết vợ T5 K lên xin chuộc lại phần đất này nhưng Đ
không cho chuộc”; Biên bản hoà giải ngày 07-10-2010 của UBND xã P (bút lục
số 347, số 348), ông Đ trình bày: “Tôi cũng thừa nhận đất này nguồn gốc là của
cha tôi...Thời điểm đó thế chấp đất cho tôi 1.800.000 đồng, tương đương với 4
chỉ vàng, hiện nay nếu chuộc lại theo giá trị đất hiện hành thời gian cho
chuộc đã hết…Đã hết thời hạn thế đất, tôi không cho chuộc đề nghị chuyển về
trên giải quyết”, cụ H tham gia trình bày: “Tôi cho T5 một phần, nay
chết tôi lấy lại cho cháu nội (con T5) Hồ Đăng K. Việc T5 cầm cố đất cho
Đ 1.800.000 đồng…”; Đơn tố cáo gởi Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh T, gởi
Thanh Tra tỉnh Tây Ninh của ông Văn Định Đ2 ngày 05-11-2012 (từ bút lục
số 339 đến số 342), cùng nội dung: “Đến năm 1997 anh T5 gặp khó khăn
15
đem đất đó cầm cố cho tôi số vàng 04 chỉ vàng 24K, thoả thuận miệng
được rất nhiều anh em trong gia đình làm chứng, trong đó có ba tôi là Lê Văn H
cũng mặt…”; Biên bản làm việc ngày 04-01-2013 của Thanh Tra tỉnh Tây
Ninh (bút lục số 345, số C), ông Đ trình bày: “Đến năm 1997 ông Tấn T9 cho
ông Định giá 4 chỉ vàng 24K diện tích 1,3 ha (5 đám ruộng, 1 đám đất gò)”;
Biên bản làm việc ngày 01-4-2013 của Thanh Tra tỉnh Tây Ninh (bút lục số 343,
số C), ông Đ trình bày “Đến năm 1997 ông T5 thế chấp cho Định giá 4 chỉ vàng
24 kara”; Đơn khiếu nại gởi Chánh án Toà án nhân dân tỉnh Tây Ninh, Chánh
án Toà án nhân dân huyện Châu Thành, tỉnh Tây Ninh của ông Lê Văn Định Đ2
ngày 29-11-2018 (bút lục số 132), ông Đ trình bày:“Đất do cha của K cầm cố
cho tôi…”; Biên bản lấy lời khai ông Văn Đ ngày 01-12-2022 (bút lục số
247, số B): “…Đến năm 1994 thì ông T5 về cầm cố phần đất trên cho ông với
giá trị 04 chỉ vàng, sau đó không chuộc bỏ luôn cho đến nay…”; Biên bản
hoà giải ngày 07-3-2023 tại Tán nhân dân huyện Châu Thành, tỉnh Tây Ninh
(từ bút lục số 301 đến số C), ông Đ trình bày: “Hiện ông Đ đang quản canh
tác diện tích đất 03 ha đất toạ lạc tại ấp P, P, huyện C, tỉnh Tây Ninh, đất
chưa được cấp giấy chứng nhận QSDĐ. Trong diện tích đất trên thì có diện tích
đất anh K tranh chấp. Nguồn gốc đất tranh chấp này của ba ông là ông
Văn H cho các con, trong đó cho vợ chồng ông Văn T5 Huỳnh Thị
Đ1, ông đã khai phá từ năm 1977, bà Đ1 làm 01 vụ lúa, sau đó Đ1 chết
đất bỏ hoang để lại cho ông T là em ông Đ làm. Khoảng năm 1994 ông T5 cùng
vợ N1 về cầm cố đất trên cho ông Định giá 4 chỉ vàng không chuộc bỏ
luôn đến nay….Đất của vợ chồng ông T5, bà Đ1 được cho thì ông T5 đã cầm cố
cho ông từ năm 1994 4 chỉ vàng, đã nhận vàng xong, sự việc trên anh, em
trong gia đình kể cả ba, mẹ đều biết nên ông H ba ông không còn quyền cho
phần đất trên cho anh K vi phạm…”; Biên bản phiên toà thẩm ngày 12-5-
2023 (từ bút lục số 403 đến số 408) nội dung khi Chủ toạ hỏi, ông Đ trả lời, thể
hiện: “Hỏi: Nguồn gốc đất tranh chấp của ai?Đáp: Trong đất tranh chấp
một phần ban đầu cha tôi cho ông T5 với vợ trước ông T5 Đ1, 01 phần
còn lại của ông khai phá; Hỏi: Ai thế chấp đất cho ông?Đáp: Ông T5; Hỏi:
Số tiền bao nhiêu?Đáp: 1.850.000 đồng”; Biên bản phiên toà phúc thẩm ngày
29-9-2023 (từ bút lục số 573 đến số 578), nội dung khi Chủ toạ hỏi, ông Đ trả
lời, thể hiện: “Hỏi: Ông đang canh tác đất nào của ông T5 không?Đáp: Có,
đất ông T5 cầm cố cho tôi; Hỏi: Ông T5 cầm cố cho ông năm bao nhiêu?Đáp:
Năm 1994; Hỏi: Thời hạn cầm cố?Đáp: Không thời hạn; Hỏi: Cầm cố bằng
giấy tờ hay bằng miệng?Đáp: Bằng miệng; Hỏi: Giá bao nhiêu?Đáp: 04 chỉ
vàng 24k 98%; Hỏi: Khi ông T5 chết N1 đến gặp ông để chuộc đất
không?Đáp: xin chuộc đất; Hỏi: do không cho chuộc lại?Đáp: N1
xin chuộc với giá thấp; Hỏi: Vợ chồng ông T5 phải chuộc lại giá bao
nhiêu?Đáp: Theo giá hội đồng định giá thực tế hiện nay.”.
[8.4] Ông Văn T em ruột của ông Lê Văn Đ, được ông Đ uquyền
để tham gia tố tụng trong vụ án; nhưng chính ông T đã trình bày trong biên bản
16
hoà giải ngày 07-10-2010 của UBND P (bút lục số 347, số C), nội dung:
“Phần đất này anh hai T5 cho tôi mượn tnăm 1998 đến năm 2001, khi tôi
trồng mía, mì, lúa thì thu hoạch tôi cho anh hai Tấn 1, 2 bao đem về nhà ăn.
Việc anh Đ nói anh hai T5 bán đất cho anh Đ không đúng tôi có nghe nói
anh hai T5 cầm cố đất này hay cho thuê 1.800.000 đồng”; Biên bản phiên toà sơ
thẩm ngày 12-5-2023 (từ bút lục số 403 đến số 408) nội dung khi Chủ toạ hỏi,
ông T trả lời, thể hiện: “Hỏi: hai bên thoả thuận giao 1.800.000 đồng ông
chứng kiến không, thoả thuận thế nào? Đáp: Đất của Đ1, ông T5 thế chấp,
N1 có nhận tiền”. Tại phiên toà ông trình bày: Ông Đ sang lại công khai phá;
lời trình bày mâu thuẫn, thay đổi kể từ khi cụ H chết năm 2012.
[8.5] Từ các phân tích nêu trên, đã căn cứ xác định: Phần đất tranh
chấp ông T5 đã thế chấp cho ông Đ, các bên giao nhận với nhau số tiền
1.800.000 đồng; thật; khi các bên thực hiện giao dịch: Không văn bản,
đất chưa được cấp Giấy chứng nhận; nên hợp đồng thế chấp quyền sdụng đất
bị hiệu tại thời điểm giao kết theo quy định tại các Điều 137, 139, 728, 731
của Bộ luật Dân sự năm 1995; do đó, các bên phải hoàn trả lại cho nhau những
đã nhận theo quy định tại Điều 146 của Bộ luật Dân sự năm 1995, Điều 131
của Bộ luật Dân sự năm 2015; theo đó: Ông Đ trách nhiệm trả lại diện tích
đất tranh chấp cho người thừa kế theo pháp luật của ông T5; người thừa kế theo
pháp luật của ông T5 nghĩa vụ hoàn trả cho ông Đ số tiền 1.800.000 đồng;
căn cứ theo quy định tại Điều 615 của Bộ luật Dân sự năm 2015. Các bên
giao kết đều lỗi ngang nhau nên không ai nghĩa vụ bồi thường. Ông Đ s
dụng đất thông qua việc thế chấp, thu hoa lợi, lợi tức trên đất theo quy định
tại khoản 3 Điều 131 của Bộ luật Dân sự năm 2015. Do đó, anh K yêu cầu ông
Đ bồi thường thiệt hại về hành vi bao chiếm đất với số tiền 200.000.000 đồng
không có căn cứ pháp luật; cấp thẩm không chấp nhận nội dung này theo yêu
cầu khởi kiện của anh K là đúng quy định của pháp luật.
[9] Với tất cả những căn cứ nêu trên, kết luận ông Đ đang sử dụng đất
tranh chấp không căn cứ pháp luật nên phải trách nhiệm trả lại đất cho
người thừa kế theo pháp luật của ông T5 theo qui định tại Điều 166 của Bộ luật
Dân sự năm 2015 Điều 166 của Luật Đất đai năm 2013; cấp thẩm chấp
nhận nội dung này theo yêu cầu khởi kiện của anh K là có cơ sở.
[10] Biên bản xem xét thẩm định tại chỗ ngày 02-5-2024 (từ bút lục s
669 đền số 671); Biên bản định giá tài sản ngày 02-5-2024 (từ bút lục số 673
đền số 675), thể hiện: Thửa đất số 212, tờ bản đồ số 69; tọa lạc tại ấp P, P,
huyện C, tỉnh Tây Ninh; có tài sản gắn liền của ông Đ, bao gồm:
[10.1] Căn nhà cấp 4, xây dựng năm 2018; kết cấu khung sắt tiền chế, mái
tôn, tường gạch lửng không tô, nền đất, diện tích 131,5 m
2
x 1.151.000 đồng x
80% = 121.085.200 đồng, làm tròn số 121.085.000 đồng.
[10.2] Cây trồng: 01 cây điều từ 1 năm đến 3 năm tuổi, trị giá 130.000
đồng; 21 cây dừa chưa có trái, trị giá 525.000 đồng; 07 cây dừa dưới 1 năm tuổi,
17
trị giá 490.000 đồng; 05 cây xoài từ 1 đến 3 năm tuổi, trị giá 2.875.000 đồng; 02
cây mít từ 1 đến 2 năm tuổi, trị giá 400.000 đồng; 02 cây đu đủ chưa trái, trị
giá 80.000 đồng; 26 cây tre Đài Loan, trị giá 1.300.000 đồng; tổng cộng trị giá là
5.800.000 đồng, cấp thẩm sai xót về số liệu ghi thành 13.021.000 đồng
không chính xác; nên sửa bản án dân sự sơ thẩm đối với nội dung này.
[10.3] Xét thấy, hàng thừa kế thứ nhất của ông T5 được quyền quản lý, sử
dụng diện tích đất nêu trên; nhà cấp 4, cây trồng gắn liền với đất không tách rời;
nên nghĩa vụ hoàn trả giá trị căn nhà và cây trồng gắn liền với đất cho ông Đ
là đúng quy định của pháp luật; ý kiến của anh K đối với nội dung này không có
cơ sở nên không xem xét.
[11] Như vậy, bị đơn kháng cáo, nhưng không cung cấp được tài liệu,
chứng cứ chứng minh cho yêu cầu kháng cáo của mình căn cứ, nên không
chấp nhận; do sửa bản án dân sự thẩm về nghĩa vụ hoàn trả nên chấp nhận
một phần kháng cáo của nguyên đơn; chấp nhận một phần đề nghị của đại diện
Viện kiểm sát.
[12] Do điều chỉnh lại nghĩa vụ hoàn trả như phân tích tại tiểu mục [10.2]
nên cần điều chỉnh lại án phí dân sự sơ thẩm cho phù hợp với quy định của pháp
luật.
[13] c quyết định khác của bản án thẩm không kháng cáo
không bị kháng nghị có hiệu lực pháp luật.
[14] Án phí:
[14.1] Nguyên đơn không phải chịu án phí dân sự phúc thẩm.
[14.2] Do kháng cáo của bị đơn không được chấp nhận nên bị đơn phải
chịu án phí dân sự phúc thẩm theo quy định; tuy nhiên, bị đơn thuộc trường hợp
người cao tuổi nên được miễn án phí.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ khoản 2 Điều 308, Điều 309 Bộ luật Tố tụng dân sự.
Không chấp nhận kháng cáo của bị đơn.
Chấp nhận một phần kháng cáo của nguyên đơn; sửa Bản án dân sự
thẩm số: 253/2024/DS-ST ngày 09 tháng 12 năm 2024 của Toà án nhân dân
huyện Châu Thành, tỉnh Tây Ninh; về phần hoàn trả giá trị tài sản, cây trồng trên
đất và án phí dân sự sơ thẩm.
Căn cứ các Điều 137, 139, 728, 731, 146 Bộ luật Dân sự năm 1995; các
Điều 131, 166, 584, 615, 651 Bộ luật Dân sự năm 2015; các Điều 166, 188 Luật
Đất đai năm 2013; các Điều 147, 148, 157, 165 Bộ luật Tố tụng dân sự; các
Điều 12, 26, 29 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban
18
Thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản sử dụng án
phí và lệ phí Toà án:
1. Chp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của anh Hồ Đăng K về việc
“Tranh chấp quyền sử dụng đất; tuyên bố hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất
vô hiệu” đối với ông Lê Văn Đ.
1.1. Ông Văn Đ trách nhiệm giao trả cho người thừa kế theo pháp
luật của ông Văn T5, chết năm 2005, bao gồm: Hồ Thị Ánh N1, anh Lê
Hồ Đăng K, chị Lê Hồ Hồng Y, chị Hồ Bạch T1, chị Thị Hồng T2, anh
Lê Hồng P, chị Lê Thị Hồng T4, anh Lê Thành T3, anh Văn S; phần đất diện
tích 13.506,3 m
2
; các thửa số 212, số 225, số 227; tờ bản đồ số 69; tọa lạc tại ấp
P, xã P, huyện C, tỉnh Tây Ninh; trong đó:
- Thửa đất số 212, tờ bản tờ 69; có tứ cận:
+ Hướng Đông giáp đường đất, chiều dài: 14,28 m + 20,60 m.
+ Hướng Tây giáp thửa đất số 209, chiều dài 64,00 m.
+ Hướng Nam giáp thửa đất số 252, số 225, chiều dài: 66,00 m + 16,00 m
+ 23,00 m + 8,56 m + 67,72 m + 10,03 m + 3,29 m.
+ Hướng Bắc giáp thửa đất số 251, chiều dài: 109,53 m + 11,57 m + 59,78
m.
- Thửa đất số 225, tờ bản đồ 69; có tứ cận:
+ Hướng Đông giáp mương, chiều dài 30,90 m.
+ Hướng Tây giáp thửa đất số 252, chiều dài: 2,59 m + 34,00 m.
+ Hướng Nam giáp thửa đất số 227, chiều dài 84,16 m.
+ Hướng Bắc giáp thửa đất số 212, chiều dài: 8,56 m + 67,72 m + 10,03
m + 3,29 m.
- Thửa đất số 227, tờ bản đồ 69; có tứ cận:
+ Hướng Đông giáp mương, chiều dài 46,17 m.
+ Hướng Tây giáp thửa đất số 253, chiều dài 40,31 m.
+ Hướng Nam giáp thửa đất số 239, chiều dài: 62,24 m + 5,89 m + 3,86
m.
+ Hướng Bắc giáp thửa đất số 225, chiều dài 84,16 m.
(Kèm theo đồ hiện trạng sdụng đất s 3789/SĐHT do Văn phòng
đăng ký đất đai tỉnh T Chi nhánh C2 vẽ ngày 18-6-2024).
1.2. Người thừa kế theo pháp luật của ông Lê Văn T5, chết năm 2005, bao
gồm: Hồ Thị Ánh N1, anh Hồ Đăng K, chị Hồ Hồng Y, chị Hồ
Bạch T1, chị Thị Hồng T2, anh Hồng P, chị Thị Hồng T4, anh
Thành T3, anh Văn S; được quyền quản lý, sử dụng khai đăng đối
19
với phần đất diện tích 13.506,3 m
2
; các thửa số 212, số 225, số 227; tờ bản đồ số
69; tọa lạc tại ấp P, xã P, huyện C, tỉnh Tây Ninh.
1.3. quan Nhà nước thẩm quyền thực hiện thủ tục cấp giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất theo quyết định của Bản án này.
2. Tuyên bố hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất xác lập giữa ông
Văn T5, chết năm 2005 ông Lê Văn Đ; đối với phần đất diện tích 13.506,3
m
2
; các thửa số 212, s225, số 227; tờ bản đồ số 69; tọa lạc tại ấp P, P,
huyện C, tỉnh Tây Ninh; là vô hiệu.
2.1. Người thừa kế theo pháp luật của ông Lê Văn T5, chết năm 2005, bao
gồm: Hồ Thị Ánh N1, anh Hồ Đăng K, chị Hồ Hồng Y, chị Hồ
Bạch T1, chị Thị Hồng T2, anh Hồng P, chị Thị Hồng T4, anh
Thành T3, anh Văn S; được quyền sở hữu, sử dụng các tài sản gắn liền với
thửa đất số 212, tờ bản tờ 69; tọa lạc tại ấp P, xã P, huyện C, tỉnh Tây Ninh, bao
gồm: Căn nhà cấp 4, kết cấu khung sắt tiền chế, mái tôn, tường gạch lửng không
tô, nền đất, diện tích 131.5 m
2
; 01 cây điều từ 1 năm đến 3 năm tuổi; 21 cây dừa
chưa trái; 07 cây dừa dưới 1 năm tuổi; 05 cây xoài t1 đến 3 năm tuổi; 02
cây mít từ 1 đến 2 năm tuổi; 02 cây đu đủ chưa có trái; 26 cây tre Đài Loan.
2.2. Hồ Thị Ánh N1, anh Hồ Đăng K, chị Hồ Hồng Y, ch
Hồ Bạch T1, chị Thị Hồng T2, anh Hồng P, chị Thị Hồng T4, anh
Thành T3, anh Văn S trách nhiệm liên đới thanh toán cho ông Văn Đ
số tiền 128.685.000 (một trăm hai mươi tám triệu sáu trăm tám mươi lăm ngàn)
đồng; trong đó, bao gồm: 1.800.000 (một triệu tám trăm ngàn) đồng của hợp
đồng thế chấp hiệu 126.885.000 (một trăm hai mươi sáu triệu tám trăm
tám mươi lăm ngàn) đồng trị giá tài sản gắn liền với đất.
3. Không chấp nhận khởi kiện của anh Hồ Đăng K yêu cầu ông Lê
Văn Đ bồi thường thiệt hại về tài sản số tiền 200.000.000 (hai trăm triệu) đồng.
4. Về chi phí tố tụng: Ông Văn Đ nghĩa vụ hoàn trả lại cho anh
Hồ Đăng K số tiền 19.942.000 (mười chín triệu chín trăm bốn mươi hai ngàn)
đồng.
5. Về án phí:
[5.1] Ông Văn Đ được miễn án phí dân sự sơ thẩm án phí dân sự
phúc thẩm.
[5.2] Bà Hồ Thị Ánh N1 được miễn án phí dân sự sơ thẩm.
[5.3] Chị Lê Hồ Hồng Y, chị Lê Hồ Bạch T1, chị Lê Thị Hồng T2, anh Lê
Hồng P, chị Lê Thị Hồng T4, anh Thành T3, anh Văn S, mỗi người phải
chịu 715.000 (bảy trăm mười lăm ngàn) đồng án phí dân sự sơ thẩm.
[5.4] Anh Lê Hồ Đăng K phải chịu 10.715.000 (mười triệu bảy trăm mười
lăm ngàn) đồng án phí dân sự sơ thẩm; được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí
20
anh K đã nộp 10.700.000 (mười triệu bảy trăm ngàn) đồng tại các Biên lai thu số
0018958 ngày 06-9-2018, số 0019533 ngày 05-3-2019, số 0018672 ngày 09-6-
2023, số 0008611 ngày 30-11-2023, số 0010084 ngày 30-10-2024, số 0010286
ngày 24-12-2024 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Châu Thành, tỉnh Tây
Ninh; anh Hồ Đăng K còn phải nộp thêm số tiền 15.000 (mười lăm ngàn)
đồng.
6. Kể từ ngày người được thi hành án đơn yêu cầu thi hành án, nếu
người phải thi hành án không chịu trả số tiền nêu trên, thì hàng tháng người phải
thi hành án còn phải trả cho người được thi hành án số tiền lãi đối với stiền
chậm trả tương ứng với thời gian chậm trả theo quy định tại Điều 357 của Bộ
luật Dân sự 2015.
7. Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi
hành án dân sự, thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự
quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành
án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 9 Luật Thi
hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30
Luật Thi hành án dân sự.
8. Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Nơi nhận:
- VKSND. TTN;
- TAND huyện Châu Thành;
- Chi cục THADS huyện Châu Thành;
- Phòng KTNV&THA. TATTN;
- Các đương sự;
- Lưu hồ sơ;
- Lưu tập án.
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM
THẨM PHÁN - CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
Trần Thanh Tòng
Tải về
Bản án số 191/2025/DS-PT Bản án số 191/2025/DS-PT

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án/ Quyết định cùng đối tượng

Bản án cùng lĩnh vực

Bản án mới nhất