Bản án số 186/2024/DS-PT ngày 09/09/2024 của TAND tỉnh Long An về tranh chấp hợp đồng chuyển đổi quyền sử dụng đất

  • Thuộc tính
  • Nội dung
  • VB gốc
  • VB liên quan
  • Lược đồ
  • Đính chính
  • Án lệ
  • BA/QĐ cùng nội dung
  • Tải về
Tải văn bản
Báo lỗi
  • Gửi liên kết tới Email
  • Chia sẻ:
  • Chế độ xem: Sáng | Tối
  • Thay đổi cỡ chữ:
    17

Thuộc tính Bản án 186/2024/DS-PT

Tên Bản án: Bản án số 186/2024/DS-PT ngày 09/09/2024 của TAND tỉnh Long An về tranh chấp hợp đồng chuyển đổi quyền sử dụng đất
Quan hệ pháp luật: Tranh chấp hợp đồng chuyển đổi quyền sử dụng đất
Cấp xét xử: Phúc thẩm
Tòa án xét xử: TAND tỉnh Long An
Số hiệu: 186/2024/DS-PT
Loại văn bản: Bản án
Ngày ban hành: 09/09/2024
Lĩnh vực: Dân sự
Áp dụng án lệ:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Đính chính:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Thông tin về vụ/việc: Huỳnh Hoàng N " Tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất " Công ty cổ phần Đ
Tóm tắt Bản án

Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!

Tải văn bản

TÒA ÁN NHÂN DÂN
TỈNH LONG AN
Bản án số: 186/2024/DS-PT
Ngày: 09-4-2024
Về việc tranh hợp đồng
chuyển nhượng quyền sử
dụng đất
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH LONG AN
- Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa: Ông Lưu Văn Uẩn
Các Thẩm phán: 1. Ông Nguyễn Văn Thu
2. Ông Lê Hùng Cường
- Thư phiên tòa: Nguyễn Trần Yến Nhi Thư Tòa án nhân dân tỉnh
Long An.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Long An tham gia phiên tòa:
Bà Nguyễn Thị Kim Chung – Kiểm sát viên.
Trong ngày 09 tháng 4 năm 2024, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Long An mở
phiên tòa xét xử phúc thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số: 55/2024/TLPT-DS ngày
15 tháng 01 năm 2024 về “Tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất”.
Do Bản án dân sự thẩm số: 197/2023/DS-ST, ngày 13 tháng 9 năm 2023 của
Tòa án nhân dân huyện Đức Hòa bị kháng cáo.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số: 101/2024/QĐ-PT ngày 25
tháng 02 năm 2024, giữa các đương sự:
1. Nguyên đơn: Ông Huỳnh Hoàng N. Sinh năm 1992
Địa chỉ: Số I Ấp D, xã X, huyện H, Tp ..
Người đại diện theo ủy quyền:
1. Ông Văn B, sinh năm 2000. Địa chỉ: thôn T, P, huyện N, tỉnh Ninh
Thuận
Và/hoặc:
2. Nguyễn Thị T, sinh năm 1996. Địa chỉ: Đ, T, xã X, huyện M, thành phố
Hà Nội. (Hợp đồng ủy quyền ngày 29/12/2022)
2. Bị đơn: Công ty cổ phần Đ
Địa chỉ trụ sở: thửa đất số 489, tờ bản đồ số 27, 28, ấp Đ, Đ, huyện Đ, tỉnh
Long An.
2
Người đại diện theo pháp luật: Lê Thị M Giám đốc
Người đại diện theo ủy quyền: Ông Nguyễn Tấn P, sinh năm 1991. Địa chỉ: F,
Đường số D, ấp M, xã M, huyện Đ, tỉnh Long An. Giấy ủy quyền ngày 22/3/2024.
6. Người kháng cáo: Bị đơn, Công ty cổ phần Đ.
(Ông Văn B, Nguyễn Thị T mặt, Thị M, ông Nguyễn Tấn P
đơn xin xét xử vắng mặt).
NỘI DUNG VỤ ÁN:
* Nguyên đơn trình bày: Ngày 26/4/2018, ông Huỳnh Hoàng N 02 hợp
đồng nguyên tắc chuyển nhượng quyền sử dụng đất số 2LGP338/2018/HĐNT/PV-
LG số 2LGP337/2018/HĐNT/PV-LG với Công ty cổ phần Đ (gọi tắt Công ty
Đ) để nhận chuyển nhượng nền đất số F3-10LG số F3-09LG, diện tích 80m
2
mỗi nền tại dán khu dân C tại xã Đ, huyện Đ, tỉnh Long An, giá trị mỗi hợp
đồng là 684.000.000 đồng.
Sau khi hợp đồng, ông N đã thanh toán cho Công ty Đ theo 02 hợp đồng
nguyên tắc với tổng số tiền 1.026.000.000 đồng (mỗi hợp đồng thanh toán
513.000.000 đồng), với 06 đợt theo 12 phiếu thu các ngày 27/4/2018, 03/7/2018,
27/8/2018, 18/12/2018, 11/3/2019, 25/6/2019, đợt cuối cùng vào ngày 25/6/2019.
Tuy nhiên, sau này theo nguyên đơn được biết tại thời điểm giao kết 02 hợp
đồng nguyên tắc, Công ty Đ chưa quyết định chủ trương đầu tư của UBND tỉnh L
cho dự án khu dân cao cấp Lexington Garden tại Đ, huyện Đ, tỉnh Long An,
chưa hoàn thành đầu xây dựng kết cấu hạ tầng của dự án theo quy hoạch chi tiết
xây dựng 1/500 đã được phê duyệt và chưa được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng
đất đối với nền đất số F3-10LG và số F3-09LG. đến nay, dự án vẫn chưa đủ điều
kiện để được phép kinh doanh.
Theo Công văn số 63/SXD-NBĐS ngày 06/01/2023 của Sở y dựng tỉnh L
Công văn s232/UBND-TCD ngày 11/01/2023 của Ủy ban nhân dân huyện Đ thì
quyền sử dụng đất tại dự án khu dân Đ chưa đủ điều kiện kinh doanh do chủ đầu
chưa được giao đất chưa hoàn thành kết cấu hạ tầng theo quy định tại Điều 9
Luật Kinh doanh bất động sản về điều kiện của bất động sản đưa vào kinh doanh
khoản 17 Điều 1 Nghị định 148/2020/NĐ-CP.
Khoản 1 Điều 8 Luật Kinh doanh bất động sản vcác hành vi bị cấm quy
định về các hành vi bị cấm trong đó có: “1. Kinh doanh bất động sản không đủ điều
kiện theo quy định của Luật này”. Hợp đồng nguyên tắc giữa nguyên đơn bị đơn
đã vi phạm điều cấm của Luật Kinh doanh bất động sản 2014 và đương nhiên vô hiệu
theo khoản 1 Điều 123 Bộ luật Dân sự 2015.
Nay, ông N yêu cầu Tòa án giải quyết những vấn đề sau:
- Yêu cầu tuyên bố 02 hợp đồng nguyên tắc chuyển nhượng quyền sử dụng đất
số 2LGP338/2018/HĐNT/PV-LG và số 2LGP337/2018/HĐNT/PV-LG cùng ngày
26/4/2018 vô hiệu.
3
- Buộc Công ty Đ hoàn trả số tiền đã nhận của ông Huỳnh Hoàng N
1.026.000.000 đồng.
- Buộc Công ty Đ bồi thường thiệt hại tiền lãi trên số tiền đã nhận với lãi suất
10%/năm từ ngày 25/6/2019 (ngày cuối cùng ông N thanh toán) đến ngày xét xử vụ
án.
* Bị đơn Công ty cổ phần Đ do ông Trương Nhật D đại diện trình bày:
Công ty Đ là chủ đầu dự án khu dân Đ tại xã Đ, huyện Đ, tỉnh Long An.
Ngày 20/4/2018, Ủy ban nhân tỉnh L cho phép Công ty Đ là chủ đầu tư của dự án khu
dân Đ tại Đ, huyện Đ, tỉnh Long An theo Quyết định chtrương đầu số
1300/QĐ-UBND. Ngày 26/4/2018, Công ty Đ ông Huỳnh Hoàng N kết 02
hợp đồng nguyên tắc đặt cọc chuyển nhượng quyền sử dụng đất số
2LGP338/2018/HĐNT/PV-LG và s2LGP337/2018/HĐNT/PV-LG. Công ty Đ xin
không đồng ý theo yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.
Đối với yêu cầu tuyên hiệu 02 hợp đồng nguyên tắc đặt cọc chuyển nhượng
quyền sử dụng đất số 2LGP338/2018/HĐNT/PV-LG số
2LGP337/2018/HĐNT/PV-LG: Công ty Đ xác định việc ông Huỳnh Hoàng N tham
gia kết 02 hợp đồng nguyên tắc đặt cọc chuyển nhượng quyền sử dụng đất số
2LGP338/2018/HĐNT/PV-LG số 2LGP337/2018/HĐNT/PV-LG thỏa thuận
hợp đồng đặt cọc. Mục đích của Hợp đồng này nhằm đảm bảo giao kết thực
hiện hợp đồng trên tinh thần tự nguyện, thiện chí, hợp tác và thỏa thuận giữa các bên.
Trong quá trình thực hiện hợp đồng, nếu các bên phát sinh tranh chấp, thì phải
cùng nhau lắng nghe và trao đổi ý kiến. Hợp đồng giữa các bên hoàn toàn tự
nguyện, không vi phạm điều cấm của luật, không trái đạo đức hội, nên hợp đồng
mặc nhiênhiệu lực. Đối với Dự án này, Công ty Đ đã các thủ tục pháp lý gồm:
Quyết định chủ trương đầu tư; quy hoạch chi tiết xây dựng tỉ lệ 1/500; Báo cáo đánh
giá tác động môi trường; Thẩm duyệt thiết kế về phòng cháy chữa cháy; Thẩm định
thiết kế sở, thoả thuận đấu nối điện, nước. Sau khi kết hợp đồng đặt cọc Công
ty Đ đã tích cực triển khai dự án và được cơ quan Nhà nước chấp thuận chủ trương và
thực hiện các thủ tục dự án nêu trên để tiến hành bàn giao Giấy chứng nhận cho
nguyên đơn. Công ty Đ khi thực hiện dự án đã tuân thủ quy định pháp luật và đã rất
cố gắng để hoàn thành dự án, bàn giao giấy cho ông Huỳnh Hoàng N, nên việc ông
Huỳnh Hoàng N yêu cầu vô hiệu hợp đồng là không có căn cứ.
Đối với yêu cầu trả tiền đã thanh toán theo hợp đồng và tiền lãi chậm trả với
mức lãi suất 10%/năm từ ngày 25/6/2019 đến ngày xét xử là không sở. hợp
đồng đặt cọc giữa Công ty Đ và ông Huỳnh Hoàng N đã có hiệu lực pháp luật và phát
sinh quyền nghĩa vgiữa các bên. Sau khi các bên kết hợp đồng đặt cọc nêu
trên với ông Huỳnh Hoàng N, Công ty Đ đã tập trung mọi nguồn lực để triển khai các
các thủ tục pháp của dự án đã đạt được một số nội dung quan trọng. Tuy nhiên,
do các yếu tố khách quan, không tránh khỏi trong quá trình triển khai dự án khu dân
Đ, Công ty Đ đã liên tục gặp phải các sự kiện bất khả kháng như tranh chấp giữa
các hộ dân kéo dài, dịch bệnh Covid 19, chính sách soát dự án của quan Nhà
nước khiến dự án phải tạm ngưng nhiều lần cụ thể:
4
1. Việc chi trả tiền bồi thường bị ảnh hưởng bởi các chủ đất phát sinh tranh chấp
nội bộ trong gia đình, vụ án “tranh chấp thừa kế quyền sử dụng đất; tranh chấp quyền
sử dụng đất; chia tài sản chung quyền sử dụng đất và tranh chấp tặng cho quyền sử
dụng đất” kéo dài từ năm 2019 đến 2022.
2. Ảnh hưởng nặng nề bởi đại dịch COVID-19
3. Do Ủy ban nhân dân tỉnh L soát toàn bộ dự án, khiến dự án khu dân Đ
bị tạm ngưng.
Tại Quyết định chấp thuận điều chỉnh chtrương đầu số 7068/QĐ-UBND
ngày 04/8/2023 của Ủy ban nhân dân tỉnh L đã cho phép Công ty Đ điều chỉnh thời
gian hoàn thành thủ tục giao đất, thực hiện nghĩa vụ tài chính theo quy định pháp luật
hiện hành, xây dựng hạ tầng kỹ thuật và đưa dự án vào hoạt động đến 31/12/2023.
Hơn nữa, sau khi c bên kết hợp đồng, ông Huỳnh Hoàng N đã vi phạm
nghĩa vụ tài chính đối với Công ty, cụ thể kể từ ngày thanh toán cuối cùng ngày
25/6/2019, ông Huỳnh Hoàng N không n thanh toán tiếp tục theo tiến độ đã thỏa
thuận trong hợp đồng dù ông Huỳnh Hoàng N không có lý do để tạm ngừng thực hiện
nghĩa vụ thanh toán vào thời điểm trên vi phạm nghĩa vụ bản trong thực hiện
hợp đồng, Công ty Đ hoàn toàn có quyền hủy bỏ hợp đồng, nhưng Công ty Đ vẫn
thiện chí tiếp tục giao kết hợp đồng với ông N.
Do đó, Công ty Đ đề nghị Tòa án không chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện
của nguyên đơn. Công ty Đ xác định không yêu cầu phản tố không yêu cầu
gì khác đối với ông Huỳnh Hoàng N.
Đối với Văn bản số 63/SXD-NBĐS ngày 06/01/2023 của Sở Xây dựng tỉnh L
Công văn số 232/UBND-TCD ngày 11/01/2023 về việc trả lời đơn công dân ông
Hoàng Mạnh T1 của y ban nhân dân huyện Đ, các văn bản này phản hồi cho ông
Hoàng Mạnh T1, không phải phản hồi đơn cho phía nguyên đơn, n nguyên đơn
cung cấp Công văn này không liên quan trực tiếp đến tranh chấp giữa nguyên đơn và
Công ty Đ. Mặt khác, Công văn này phản hồi vào tháng 01/2023 nhưng việc thực
hiện dự án vẫn tiếp tục diễn ra, do đó không chính xác với tiến độ thực hiện dự án.
Tại Bản án số: 197/2023/DS-ST, ngày 13 tháng 9 năm 2023 của Tòa án nhân
dân huyện Đức Hòa đã quyết định:
Căn cứ vào Điều 5, khoản 3 Điều 26, điểm a, khoản 1 Điu 35, điểm c khoản 1
Điều 39, Điều 147, Điều 483 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015;
Căn cứ Điều 123, Điều 131, Điều 244, Điều 280, Điều 404, Điều 407, Điều 357,
Điều 468 Bộ luật Dân sự năm 2015;
Căn cứ vào các Điều 188, Điều 194 của Luật Đất đai năm 2013.
Áp dụng khoản 2 Điều 26, Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH.14 ngày
30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về án phí, lệ phí Toà án;
Tuyên xử:
5
1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Huỳnh Hoàng N đối với Công ty cổ
phần Đ về việc tranh chấp “hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất”.
Tuyên bố: hiệu “Hợp đồng nguyên tắc chuyển nhượng quyền sử dụng đất
Khu dân cao cấp Lexington Garden s 2LGP338/2018/HĐNT/PV-LG ngày
26/4/2018” và vô hiệu “Hợp đồng nguyên tắc chuyển nhượng quyền sử dụng đất Khu
dân cao cấp Lexington Garden số 2LGP337/2018/HĐNT/PV-LG ngày
26/4/2018” giữa ông Huỳnh Hoàng NCông ty Cổ phần Đ.
Buộc Công ty Cổ phần Đ nghĩa vụ trả cho ông Huỳnh Hoàng N tổng số tiền
1.459.449.000 đồng Một t bốn trăm năm mươi chín triệu bốn trăm bốn mươi
chín ngàn đồng (gồm tiền gốc 1.026.000.000 đồng, bồi thường thiệt hại số tiền
433.449.000 đồng).
Khi án hiệu lực pháp luật, kể từ ngày đơn yêu cầu thi hành án của người
được thi hành án cho đến khi thi hành xong tất cả các khoản tiền, bên nghĩa vụ
chậm thi hành sẽ phải chịu thêm khoản tiền lãi tính trên số tiền chậm trả theo quy
định tại Điều 357, khoản 2 Điều 468 Bộ luật Dân sự số 91/2015/QH13 tương ứng với
thời gian chưa thi hành án, trừ trường hợp các bên thỏa thuận khác hoặc pháp luật
có quy định khác.
2. Về án phí sơ thẩm:
Buộc Công ty Cổ phần Đ phải nộp tiền án phí dân sự sơ thẩm là: 600.000 đồng
và 55.784.000 đồng.
Trả lại cho ông Huỳnh Hoàng N tiền tạm ứng án phí 26.755.000 đồng theo
biên lai thu số 0007717 ngày 05/01/2023, 300.000 đồng theo biên lai thu số 0007716
ngày 05/01/2023 300.000 đồng theo biên lai thu số 0005651 ngày 13/9/2023 của
Chi Cục Thi hành án dân sự huyện Đức Hòa, tỉnh Long An.
Bản án còn ghi quyền kháng cáo và quyền yêu cầu thi hành án.
Ngày 28/9/2023, bđơn, Công ty cổ phần Đ làm đơn kháng cáo toàn bộ bản án
sơ thẩm.
Tại phiên tòa phúc thẩm, người khởi kiện không rút đơn khởi kiện, không rút
đơn kháng cáo, các đương sự không thỏa thuận được với nhau về việc giải quyết vụ
án.
Đại din Vin kim sát nhân dân tỉnh Long An tham gia phiên tòa trình bày
quan đim:
Về thủ tục: Thẩm phán chủ tọa phiên tòa, Hội đồng xét xử người tham gia tố
tụng tuân thủ đúng qui định về thủ tục tố tụng. Kháng cáo của Công ty cổ phần Đ
trong hạn luật định, đúng thủ tục, Tòa án thụ giải quyết theo trình tự phúc thẩm
có căn cứ.
Về nội dung:
- Hai hợp đồng nguyên tắc chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa nguyên đơn
bị đơn là giao dịch chuyển nhượng quyền sử dụng đất, do nội dung hình thức
6
của các hợp đồng đầy đủ quyền nghĩa vụ của một giao dịch chuyển nhượng
quyền sử dụng đất.
- Văn bản số 63/SXD-NBĐS ngày 06/01/2023 của Sở Xây dựng tỉnh L nội
dung xác định: “Trên địa bàn Đ, huyện Đ không dự án mang tên Khu dân
cao cấp Lexington Garden. Hiện tại dự án chưa hoàn thành việc thi công hệ thống hạ
tầng kỹ thuật, hạ tầng hội nên dự án chưa đủ điều kiện để mở bán bất động sản
theo quy định tại Điều 9 Luật Kinh doanh bất động sản về điều kiện của bất động sản
đưa vào kinh doanh và khoản 17 Điều 1 Nghị định 148/2020/NĐ-CP và các quy định
khác có liên quan”.
Như vậy, 02 hợp đồng nguyên tắc chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa
nguyên đơn và bị đơn đã vi phạm điều cấm của pháp luật nên bị vô hiệu theo khoản 1
Điều 123 Bộ luật Dân sự năm 2015. Do đó, cấp thẩm đã hiệu 02 hợp đồng
nguyên tắc nêu trên và xử lý hậu quả của hợp đồng vô hiệu là có cơ sở.
Bị đơn kháng cáo nhưng không sở chấp nhận. Do đó, đề nghị Hội đồng
xét xử áp dụng khoản 1 Điều 308 Bộ luật Tố tụng dân sự không chấp nhận yêu cầu
kháng cáo của nguyên đơn, giữ nguyên bản án sơ thẩm.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
[1] Về thủ tục tố tụng: Đơn kháng cáo của bị đơn được thực hiện đúng về hình
thức, nội dung thời hạn theo quy định tại các Điều 272, 273 của Bộ luật Tố tụng
dân sự năm 2015 nên vụ án được xem xét giải quyết theo thủ tục phúc thẩm.
[2] Đại diện bị đơn bà Lê Thị M người đại diện theo ủy quyền là ông Nguyễn
Tấn P đơn xin xét xử vắng mặt, Tòa án xét xử vắng mặt các đương sự theo quy
định tại khoản 3 Điều 296 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.
[3] Về yêu cầu khởi kiện của ông Huỳnh Hoàng N:
3.1. Yêu cầu tuyên bố 02 hợp đồng nguyên tắc chuyển nhượng quyền sử dụng
đất số 2LGP338/2018/HĐNT/PV-LG số 2LGP337/2018/HĐNT/PV-LG cùng
ngày 26/4/2018 vô hiệu.
3.2. Buộc Công ty Đ hoàn trả số tiền đã nhận của ông Huỳnh Hoàng N
1.026.000.000 đồng.
3,3. Buộc Công ty Đ bồi thường thiệt hại tiền lãi trên số tiền đã nhận với lãi
suất 10%/năm từ ngày 25/6/2019 (ngày cuối cùng ông N thanh toán) đến ngày xét xử
vụ án.
[4] Bản án thẩm đã quyết định: hiệu “Hợp đồng nguyên tắc chuyển
nhượng quyền sử dụng đất khu dân cao cấp Lexington Garden số
2LGP338/2018/HĐNT/PV-LG ngày 26/4/2018” hiệu “Hợp đồng nguyên tắc
chuyển nhượng quyền sử dụng đất Khu dân cao cấp Lexington Garden số
2LGP337/2018/HĐNT/PV-LG ngày 26/4/2018” giữa ông Huỳnh Hoàng N Công
ty Cổ phần Đ. Buộc Công ty Cổ phần Đ nghĩa vụ trả cho ông Huỳnh Hoàng N
tổng số tiền 1.459.449.000 đồng (gồm tiền gốc 1.026.000.000 đồng, bồi thường
thiệt hại số tiền là 433.449.000 đồng).
7
[5] Sau quyết định của án thẩm, nguyên đơn, Huỳnh Hoàng N không kháng
cáo. Bị đơn, Công ty Cổ phần Đ kháng cáo. Nội dung: Yêu cầu cấp phúc thẩm sửa
Bản án sơ thẩm, không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Huỳnh Hoàng N. Lý do:
Đây là hợp đồng đặt cọc nhằm đảm bảo hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất
trong tương lai; hợp đồng không bị hiệu do không vi phạm điều cấm của pháp
luật; hợp đồng vẫn đang có hiệu lực, nên yêu cầu tính lãi là không có cơ sở.
[6] Nhận thấy, các đương sự lời trình bày thống nhất về việc giao kết 02 hợp
đồng nguyên tắc chuyển nhượng quyền sử dụng đất Khu dân cao cấp Lexington
Garden số 2LGP338/2018/HĐNT/PV-LG số 2LGP337/2018/HĐNT/PV-LG cùng
ngày 26/4/2018 giữa ông Huỳnh Hoàng N Công ty Đ, đối tượng nền đất số F3-
10LG số F3-09LG, diện tích 80m
2
mỗi nền tại dự án khu dân Đ tại xã Đ,
huyện Đ, tỉnh Long An do Công ty Đ làm chủ đầu tư, tọa lạc tại Đ, huyện Đ, tỉnh
Long An với giá chuyển nhượng là 684.000.000 đồng mỗi nền. Ông Huỳnh Hoàng N
đã nộp cho Công ty Đ số tiền là 1.026.000.000 đồng theo 12 Phiếu thu ngày
27/4/2018, 03/7/2018, 27/8/2018, 18/12/2018, 11/3/2019, 25/6/2019. Do đó, đây
được xem là tình tiết, sự kiện không phải chứng minh theo Điều 92 Bộ luật Tố tụng
dân sự.
[7] Xét 02 hợp đồng nguyên tắc chuyển nhượng quyền sử dụng đất khu dân
cao cấp Lexington Garden số 2LGP338/2018/HĐNT/PV-LG số
2LGP337/2018/HĐNT/PV-LG ng ngày 26/4/2018 giữa ông Huỳnh Hoàng N và
Công ty Đ thấy rằng: Căn cứ vào các nội dung được các bên thỏa thuận trong hợp
đồng thể hiện các nội dung của một giao dịch chuyển nhượng quyền sử dụng đất,
ông Huỳnh Hoàng N đã nộp cho Công ty Đ số tiền 1.026.000.000 đồng không
điều khoản nào đề cập đến số tiền đặt cọc hay xử lý tiền đặt cọc nếu vi phạm.
Do đó, nguyên đơn xác định đây là giao dịch chuyển nhượng quyền sử dụng đất là
căn cứ, bị đơn cho rằng đây là giao dịch đặt cọc nhằm bảo đảm cho giao dịch chuyển
nhượng quyền sử dụng đất là không có cơ sở chấp nhận.
[8] Tại Văn bản số 63/SXD-NBĐS ngày 06-01-2023 của Sở Xây dựng tỉnh L
nội dung xác định “Trên địa bàn xã Đ, huyện Đ không có dự án mang tên Khu dân cư
cao cấp Lexington Garden. Tuy nhiên, tại vtrí trên dự án khu dân Đ, Đ,
huyện Đ, tỉnh Long An do ng ty CP Đ làm chủ đầu tư, được Ủy ban nhân dân tỉnh
L chấp thuận chủ trương đầu dự án tại Quyết định số 1300/QĐ-UBND ngày 20-4-
2018. Hiện tại dự án chưa hoàn thành việc thi công hệ thống hạ tầng kỹ thuật, hạ tầng
hội nên dán chưa đủ điều kiện để mbán bất động sản theo quy định tại Điều 9
Luật Kinh doanh bất động sản và tại khoản 17 Điều 1 Nghị định 148/2020/NĐ-CP
các quy định khác có liên quan.”
[9] Tại Văn bản s 232/UBND-TCD ngày 11-01-2023 của Ủy ban nhân dân
huyện Đ xác định Công ty Cổ phần Đ là chủ đầu tư thực hiện dự án khu dân Đ,
diện tích 9,8ha tại xã Đ, huyện Đ, tỉnh Long An. Đến nay dự án chưa đủ điều kiện m
bán với do: nhà đầu chưa được giao đất; chưa thực hiện xong thủ tục xây dựng
để đưa dán đi vào hoạt động. Nhà đầu đến nay chưa được giao đất để thực hiện
dự án.
8
[10] Mặc nội dung các văn bản trên thể hiện việc phúc đáp cho nhân ông
Hoàng Mạnh T1 (ông Hoàng Mạnh T1 cũng nhân nhận chuyển nhượng quyền
sử dụng đất trong dự án khu dân Đ do Công ty Đ làm chủ đầu giống như ông
Huỳnh Hoàng N), nhưng nội dung phúc đáp không đề cập riêng đối với nền đất
ông Hoàng Mạnh T1 nhận chuyển nhượng mà đề cập đến toàn bộ dự án khu dân cư Đ
trong đó nền đất số F3-10LG số F3-09LG, diện tích 80m
2
mỗi nền mà bị
đơn thỏa thuận chuyển nhượng cho nguyên đơn. Mặt khác, hai văn bản được ban
hành vào tháng 01/2023 trả lời về tình trạng của dán khu dân Đ tính đến thời
điểm tháng 01/2023, tức sau thời điểm các bên kết hợp đồng nguyên tắc chuyển
nhượng quyền sử dụng đất.
[11] Như vậy, việc Công ty Đ ký kết 02 hợp đồng nguyên tắc đặt cọc chuyển
nhượng quyền sdụng nền đất số B4-10 với ông Huỳnh Hoàng N vi phạm điều
cấm của pháp luật, do đó bị hiệu theo Điều 123 Bộ luật Dân sự năm 2015. Ông
Huỳnh Hoàng N khởi kiện yêu cầu tuyên hiệu “Hợp đồng nguyên tắc đặt cọc
chuyển nhượng quyền sử dụng đất Khu dân cao cấp Đ Villa Eden” số
DH41/2019/HĐNT/PV-VE ngày 16-3-2019 là có căn cứ chấp nhận.
[12] 02 hợp đồng nguyên tắc chuyển nhượng quyền sử dụng đất Khu dân cư cao
cấp Lexington Garden số 2LGP338/2018/HĐNT/PV-LG số
2LGP337/2018/HĐNT/PV-LG cùng ngày 26/4/2018 giữa ông Huỳnh Hoàng N
Công ty Đ bị hiệu nên căn cứ Điều 131 Bộ luật Dân sự, các bên hoàn trả lại cho
nhau những gì đã nhận. Do đó, ông N yêu cầu Công ty Đ trả lại số tiền 1.026.000.000
đồng là có cơ sở.
[13] Do hợp đồng nguyên tắc chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa ông
Huỳnh Hoàng N Công ty Đ bị hiệu nên không làm phát sinh, thay đổi, chấm
dứt quyền và nghĩa vụ dân sự của các bên từ thời điểm kết theo Điều 131 Bộ luật
Dân sự. Nên việc Công ty Đ lời trình bày về các sự kiện bất khả kháng như tranh
chấp kéo dài, dịch bệnh Covid 19, chính sách soát dự án của quan Nhà nước để
được miễn trừ trách nhiệm theo Điều 6 hợp đồng mà các bên đã ký kết là không có cơ
sở chấp nhận.
[14] Công ty Đ bên chủ đầu tư, nắm các điều kiện pháp về việc chuyển
nhượng quyền sử dụng đất trong dự án, biết dự án chưa được giao đất, chưa đủ
điều kiện mbán theo quy định pháp luật nhưng vẫn kết hợp đồng nguyên tắc
chuyển nhượng quyền sử dụng đất với ông Huỳnh Hoàng N, do đó, lỗi làm cho giao
dịch chuyển nhượng quyền sử dụng đất bị vô hiệu thuộc về phía Công ty Đ nên Công
ty Đ có nghĩa vụ bồi thường thiệt hại cho ông Huỳnh Hoàng N là phù hợp.
[15] Về việc xác định thiệt hại: Nguyên đơn yêu cầu Công ty Đ bồi thường thiệt
hại tiền lãi trên số tiền đã nhận với lãi suất 10%/năm từ ngày thanh toán đợt cuối
cùng đến khi kết thúc phiên tòa sơ thẩm là chưa phù hợp với theo hướng dẫn tại Nghị
quyết số 02/2004/NQ-HĐTP ngày 10-8-2004 của Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân
dân tối cao thì thiệt hại gồm khoản tiền chênh lệch giá trị quyền sử dụng đất do c
bên thoả thuận với giá trị quyền sử dụng đất tại thời điểm xét xử sơ thẩm.
[16] Tuy nhiên, các đương sự không có yêu cầu định giá hoặc thẩm định giá giá
9
trị quyền sử dụng đất tại thời điểm xét xử thẩm, các đương sự không thống nhất
giá trị quyền sử dụng đất. Hơn nữa, tại phiên tòa phúc thẩm, người đại diện của ông
N cũng thừa nhận không xác định được nền đất số F3-10LG và số F3-09LG trên thực
địa do Công ty chưa được quan thẩm quyền giao đất nên không thể tiến hành
định giá nền đất số F3-10LG và số F3-09LG trên thực địa nên Hội đồng xét xử không
có cơ sở xác định giá trị thực tế của quyền sử dụng đất đang tranh chấp.
[17] Căn cứ vào hợp đồng thể hiện ý chí của các bên thì thiệt hại của hợp đồng
tiền lãi, nguyên đơn yêu cầu bồi thường thiệt hại bằng hình thức trả lãi phát sinh
trên số tiền đã giao nhận với mức lãi suất 10%/năm phù hợp với Điều 357, 468 Bộ
luật Dân sự nên cần chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn về bồi thường thiệt hại do
hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất vô hiệu. Do không thể định giá quyền sử
dụng đất nên Bản án thẩm xác định tiền lãi theo mức lãi suất quy định của pháp
luật thiệt hại Công ty Đ đã chiếm giữ số tiền của ông Huỳnh Hoàng N từ ngày
25/6/2019 cho đến ngày xét xử sơ thẩm theo yêu cầu của ông N.
[18] Do đó, Tòa án cấp thẩm chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Huỳnh
Hoàng N, tuyên hiệu hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất, buộc Công ty Đ
trả cho ông Huỳnh Hoàng N số tiền đã nhận tiền lãi căn cứ. Công ty Đ kháng
cáo yêu cầu xét xử phúc thẩm theo hướng sửa Bản án thẩm, không chấp nhận yêu
cầu khởi kiện của ông Huỳnh Hoàng N là không có căn cứ chấp nhận. Cần giữ nguyên
Bản án sơ thẩm.
[19] Các phần khác của án thẩm không kháng cáo, kháng nghị nên Hội
đồng xét xử phúc thẩm không xem xét.
[20] Về án phí: Công ty cổ phần Đ phải chịu án ptheo quy định của Nghị
quyết số 326/2016/UBNTQH14 về án phí, lệ phí Tòa án ngày 30/12/2016 của Ủy ban
Thường vụ Quốc hội.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ khoản 1 Điều 308 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015,
Không chấp nhận yêu cầu kháng cáo của Công ty cổ phần Đ
Giữ nguyên Bản án dân sự sơ thẩm số 197/2023/DS-ST ngày 13-9-2023 của Tòa
án nhân dân huyện Đức Hòa, tỉnh Long An.
Căn cứ vào Điều 5, khoản 3 Điều 26, điểm a, khoản 1 Điều 35, điểm c khoản 1
Điều 39, Điều 147, Điều 483 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015;
Căn cứ Điều 123, Điều 131, Điều 244, Điều 280, Điều 404, Điều 407, Điều 357,
Điều 468 Bộ luật Dân sự năm 2015;
Căn cứ vào các Điều 188, Điều 194 của Luật Đất đai năm 2013.
Áp dụng khoản 2 Điều 26, Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH.14 ngày
30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về án phí, lệ phí Toà án;
Tuyên xử:
10
1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Huỳnh Hoàng N đối với Công ty Cổ
phần Đ về việc tranh chấp “hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất”.
Tuyên bố: hiệu “Hợp đồng nguyên tắc chuyển nhượng quyền sử dụng đất
Khu dân cao cấp Lexington Garden số 2LGP338/2018/HĐNT/PV-LG ngày
26/4/2018” và vô hiệu “Hợp đồng nguyên tắc chuyển nhượng quyền sử dụng đất Khu
dân cao cấp Lexington Garden số 2LGP337/2018/HĐNT/PV-LG ngày
26/4/2018” giữa ông Huỳnh Hoàng NCông ty Cổ phần Đ.
Buộc Công ty Cổ phần Đ nghĩa vụ trả cho ông Huỳnh Hoàng N tổng số tiền
1.459.449.000 đồng Một t bốn trăm năm mươi chín triệu bốn trăm bốn mươi
chín ngàn đồng (gồm tiền gốc 1.026.000.000 đồng, bồi thường thiệt hại số tiền
433.449.000 đồng).
Khi án hiệu lực pháp luật, kể từ ngày đơn yêu cầu thi hành án của người
được thi hành án cho đến khi thi hành xong tất cả các khoản tiền, bên nghĩa vụ
chậm thi hành sẽ phải chịu thêm khoản tiền lãi tính trên số tiền chậm trả theo quy
định tại Điều 357, khoản 2 Điều 468 Bộ luật Dân sự số 91/2015/QH13 tương ứng với
thời gian chưa thi hành án, trừ trường hợp các bên thỏa thuận khác hoặc pháp luật
có quy định khác.
2. Về án phí sơ thẩm:
Buộc Công ty Cổ phần Đ phải nộp tiền án phí dân sự sơ thẩm là: 600.000 đồng
(sáu trăm nghìn đồng) 55.784.000 đồng (năm mươi lăm triệu bảy trăm tám ơi
bốn nghìn đồng).
Trả lại cho ông Huỳnh Hoàng N tiền tạm ứng án phí 26.755.000 đồng (hai
mươi sáu triệu bảy trăm năm mươi lăm nghìn đồng) theo biên lai thu số 0007717
ngày 05/01/2023, 300.000 đồng theo biên lai thu số 0007716 ngày 05/01/2023
300.000 đồng theo biên lai thu số 0005651 ngày 13/9/2023 của Chi Cục Thi hành án
dân sự huyện Đức Hòa, tỉnh Long An.
3. Án phí dân sự phúc thẩm: Công ty Cổ phần Đ phải chịu 300.000 đồng (ba
trăm nghìn đồng) án phí dân sự phúc thẩm, nhưng được khấu trừ 300.000 đồng (ba
trăm nghìn đồng đồng án phí dân sự phúc thẩm đã nộp theo biên lai thu tạm ứng án
phí, lệ phí Tòa án số 0005996 ngày 09/10/2023 của Chi Cục Thi hành án dân sự
huyện Đức Hòa. Công ty Cổ phần Đ đã nộp xong án phí dân sự phúc thẩm.
4. Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 của Luật Thi hành
án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự quyền
thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi nh án hoặc bị
cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 9 của Luật Thi hành án dân
sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 của Luật Thi hành
án dân sự.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án./.
11
Nơi nhận:
- TANDCC tại TP. Hồ Chí Minh;
- VKSND tỉnh Long An;
- TAND huyện Đức Hòa;
- Chi cục THADS huyện Đức Hòa;
- Các đương sự;
- Lưu HS; AV./.
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM
Thẩm phán – Chủ tọa phiên tòa
( Đã ký )
Lưu Văn Uẩn
Tải về
Bản án số 186/2024/DS-PT Bản án số 186/2024/DS-PT

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án số 186/2024/DS-PT Bản án số 186/2024/DS-PT

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án/ Quyết định cùng đối tượng

Bản án cùng lĩnh vực

Bản án mới nhất