Bản án số 449/2024/DS-PT ngày 12/11/2024 của TAND tỉnh Long An về tranh chấp hợp đồng chuyển đổi quyền sử dụng đất
- Thuộc tính
- Nội dung
- VB gốc
- VB liên quan
- Lược đồ
- Đính chính
- Án lệ
- BA/QĐ cùng nội dung
- Tải về
Tải văn bản
-
Bản án số 449/2024/DS-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
-
Bản án số 449/2024/DS-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Báo lỗi
Thuộc tính Bản án 449/2024/DS-PT
Tên Bản án: | Bản án số 449/2024/DS-PT ngày 12/11/2024 của TAND tỉnh Long An về tranh chấp hợp đồng chuyển đổi quyền sử dụng đất |
---|---|
Quan hệ pháp luật: | Tranh chấp hợp đồng chuyển đổi quyền sử dụng đất |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Tòa án xét xử: | TAND tỉnh Long An |
Số hiệu: | 449/2024/DS-PT |
Loại văn bản: | Bản án |
Ngày ban hành: | 12/11/2024 |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Áp dụng án lệ: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Đính chính: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Thông tin về vụ/việc: | Bà Nguyễn Thị Cẩm H “Tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất” Ông Nguyễn Hoàng V, Bà Đào Thị Túy P, Ông Nguyễn Quốc C |
Tóm tắt Bản án
Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!
Tải văn bản
TÒA ÁN NHÂN DÂN
TỈNH LONG AN
¯¯¯¯¯¯¯¯¯
Bản án số: 449/2024/DS-PT
Ngày: 12-11-2024
V/v tranh chấp hợp đồng chuyển
nhượng quyền sử dụng đất
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH LONG AN
- Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:
Thẩm phán – Chủ tọa phiên tòa: Ông Huỳnh Hữu Nghĩa
Các Thẩm phán: Bà Trịnh Thị Phúc
Bà Nguyễn Thị Mỹ Hạnh
- Thư ký phiên tòa: Bà Nguyễn Thị Mỹ Linh – Thẩm tra viên Tòa án nhân dân
tỉnh Long An.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Long An tham gia phiên tòa: Ông Lê
Ngọc Hiền - Kiểm sát viên.
Ngày 12 tháng 11 năm 2024, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Long An xét xử
phúc thẩm công khai vụ án thụ lý số 389/2024/TLPT-DS ngày 01 tháng 10 năm
2024, về việc “Tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất”.
Do Bản án dân sự sơ thẩm số 61/2024/DS-ST ngày 03 tháng 7 năm 2024 của
Tòa án nhân dân huyện Bến Lức bị kháng cáo.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số 341/2024/QĐ-PT ngày 11
tháng 10 năm 2024, giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Bà Nguyễn Thị Cẩm H, sinh năm 1977; địa chỉ: số A H, Khu
phố D, thị trấn B, huyện B, tỉnh Long An (vắng mặt).
Người đại diện theo ủy quyền của bà H: Bà Vỏ Thị Ngọc N, sinh năm 1995;
địa chỉ: số D N, Khu phố C, thị trấn B, huyện B, tỉnh Long An (có mặt).
- Bị đơn:
1. Ông Nguyễn Hoàng V, sinh năm 1992 (vắng mặt);
2. Bà Đào Thị Túy P, sinh năm 1963 (vắng mặt);
Người đại diện theo uỷ quyền của bà P: Ông Nguyễn Quốc C, sinh năm 1984.
3. Ông Nguyễn Quốc C, sinh năm 1984 (có mặt).
Cùng địa chỉ: 5 Quốc lộ A, Khu phố F, thị trấn B, huyện B, tỉnh Long An.
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
1. Bà Huỳnh Thị Hồng T, sinh năm 1976 (vắng mặt).
2. Ông Trần Quốc T1, sinh năm 1970 (vắng mặt).
Cùng địa chỉ: đường N, Khu phố F, thị trấn B, huyện B, tỉnh Long An.
3. Ông Phạm Thanh P1, sinh năm 1973 (vắng mặt).
Địa chỉ: số A H, Khu phố D, thị trấn B, huyện B, tỉnh Long An.
Người đại diện theo ủy quyền của ông P1: Bà Vỏ Thị Ngọc N, sinh năm 1995;
địa chỉ: Số D N, Khu phố C, thị trấn B, huyện B, tỉnh Long An (có mặt)
4. Văn phòng C1.
Địa chỉ: số B N, Khu phố B, thị trấn B, huyện B, tỉnh Long An.
Người đại diện theo pháp luật: Ông Nguyễn Hoàng T2 – Trưởng Văn phòng
(vắng mặt).
Người kháng cáo: bà Nguyễn Thị Cẩm H, ông Phạm Thanh P1
Người Kháng nghị: Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân huyện Bến Lức, tỉnh
Long An.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Theo đơn khởi kiện ngày 19/8/2022, trong quá trình tố tụng nguyên đơn bà
Nguyễn Thị Cẩm H và người đại diện theo uỷ quyền bà Vỏ Thị Ngọc N trình bày như
sau:
Ngày 23/10/2019, ông V và bà H lập Hợp đồng đặt cọc mua bán đất đối với
100m
2
thửa số 10, với giá 1.360.000.000 đồng. Bà H đã đặt cọc 800.000.000 đồng
vào ngày ký hợp đồng.
Ngày 16/3/2020, ông Nguyễn Hoàng V, bà Đào Thị Túy P với bà Nguyễn Thị
Cẩm H lập Hợp đồng sang nhượng đất (giấy tay), nội dung thỏa thuận sang nhượng
100m
2
đất thuộc thửa 10, tờ bản đồ số 24, tại thị trấn B, huyện B, tỉnh Long An với
giá 1.360.000.000 đồng, việc thanh toán làm 2 đợt: 800.000.000 đồng trả ngay sau
khi hợp đồng được ký kết (thực tế là đã trả ngày 23/10/2019) và 560.000.000 đồng
thanh toán sau khi hoàn tất các thủ tục sang nhượng quyền sử dụng đất (QSDĐ).
Ngày 24/6/2020, bà Đào Thị Túy P và bà Nguyễn Thị Cẩm H ký Hợp đồng
chuyển nhượng quyền sử dụng đất đối với thửa số 10, tờ bản đồ số 24, diện tích
100m
2
, mục đích sử dụng ODT, theo giấy chứng nhận QSDĐ, quyền sở hữu nhà ở
và tài sản gắn liền với đất số CH 648357, số vào sổ cấp giấy chứng nhận QSDĐ CS
07933 do Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh L cấp ngày 11/4/2017 cho ông Nguyễn
Hoàng V, đăng ký biến động ngày 20/3/2020 cho bà Đào Thị Túy P.
Ngày 07/7/2020, bà H được cập nhật chỉnh lý sang tên trên giấy chứng nhận
QSDĐ và đã giao đủ số tiền còn lại cho bà P và ông V đủ là 560.000.000 đồng. Tuy
nhiên, bà P và ông V chỉ mới giao cho bà H 80m
2
đất, còn lại 20m
2
đất có nhà bếp
gia đình ông V, bà P, ông C đang quản lý sử dụng và chưa giao cho bà H.
Năm 2022, ông V chuyển nhượng thửa 24, diện tích 114,3m
2
cho ông Lê Phước
H1, lẽ ra sau khi giao đất cho ông H1 thì bà P, ông V phải di dời để giao phần đất
còn lại cho bà H nhưng không thực hiện dù bà H đã nhiều lần yêu cầu. Hiện nay,
ông V, bà P và ông C đang ở trên phần đất này.
Nay bà H khởi kiện yêu cầu bà Đào Thị Túy P, ông Nguyễn Hoàng V, ông
Nguyễn Quốc C tiếp tục giao cho bà Nguyễn Thị Cẩm H diện tích đo đạc thực tế
24,4m
2
tại vị trí khu (B) thuộc một phần thửa số 10, tờ bản đồ số 24, tại thị trấn B,
huyện B, tỉnh Long An theo giấy chứng nhận QSDĐ số CH 648357, số vào sổ cấp
giấy chứng nhận QSDĐ CS 07933 do Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh L cấp ngày
11/4/2017 cho ông Nguyễn Hoàng V, đăng ký biến động ngày 20/3/2020 sang tên
bà Nguyễn Thị Cẩm H ngày 07/7/2020 theo Hợp đồng chuyển nhượng ngày
24/6/2020 tại Phòng C2.
Không yêu cầu giải quyết gì đối với phần đất tại vị trí khu C nằm trong giấy
chứng nhận QSDĐ thửa 21.
Bị đơn bà Đào Thị Túy P và ông Nguyễn Quốc C do ông C đại diện trình bày:
Chữ ký và chữ viết mang tên Nguyễn Hoàng V, Đào Thị Túy P, Nguyễn Quốc
C trong Hợp đồng đặt cọc mua bán đất ngày 23/10/2019 là đúng do ông V, bà P, ông
C viết và ký ra. Chữ ký mang tên Nguyễn Hoàng V, Đào Thị P trong Hợp đồng sang
nhượng đất ngày 16 tháng 3 năm 2020 là chữ ký của bà P và ông V. Chữ ký tại Hợp
đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất ngày 24/6/2020 là chữ ký của bà P.
Tuy nhiên, việc chuyển nhượng quyền sử dụng đất thực tế được xác lập từ năm
2018, ông Nguyễn Quốc C với chồng bà Nguyễn Thị Cẩm H là ông Phạm Thanh P1
thỏa thuận mua bán. Ranh đất từ tường nhà bếp trở đi với diện tích nhà là hơn 80m
2
,
giá chuyển nhượng là 1.360.000.000 đồng. Việc mua bán không có đo đạc mà chỉ
giao đất trên thực tế là dãy nhà trọ, gia đình ông C đã giao đất xong cho vợ chồng
ông P1 quản lý, sử dụng từ thời điểm làm giấy tay mua bán, ông P1 giao số tiền là
1.350.000.000 đồng (yêu cầu bớt 10.000.000 đồng).
Trước khi giao đất cho ông P1 thì hiện trạng toàn bộ đất khu A, C, B, C1 và
thửa 24 (thửa bán cho ông H1 năm 2022) được bà P xây dựng nhà ở liền kề, có ngăn
phòng. Trong đó phần đất gia đình ông đang quản lý (khu B, C1) trở về phía thửa
của ông H1 là dãy nhà chính được xây dựng trước, phần nhà giao cho bà H (khu A
và C) là 02 dãy nhà trọ 06 phòng xây dựng sau, giữa 2 dãy nhà trọ có hành lang
thông với nhà bếp (Khu B) để xuống nhà tắm của bị đơn ở giữa 2 dãy nhà trọ (tại vị
trí phần đất khu A), nhà chính và nhà trọ đều có tường riêng biệt. Đến khi bán đất
cho ông P1 thì có kéo thước dây đo là không bao gồm phần nhà bếp (phần bà H đang
tranh chấp), khi đó giữa nhà bếp và phần bán cho ông P1 có cửa thông nhau. Sau khi
nhận nhà đất, bà H, ông P1 xây bít tường bên nhà bếp của bị đơn để ngăn cách phần
đất của bà H với phần đất của gia đình ông C và sửa chữa, xây dựng nhà trọ trên
phần đất mua và không có ý kiến gì.
Khi bán đất thì giấy chứng nhận QSDĐ của bà P vẫn đang thế chấp tại Ngân
hàng, sau khi ông P1 thỏa thuận mua nhà đất thì trả nợ thay tại Ngân hàng và giữ
giấy chứng nhận QSDĐ để làm thủ tục tách thửa, sang tên. Toàn bộ thủ tục đều do
ông P1 thực hiện. Ông V, bà P viết giấy theo yêu cầu của vợ chồng bà H.
Khi ký hợp đồng tại Văn phòng C1, do tin tưởng bà H nên bà P không đọc nội
dung và không biết nội dung thỏa thuận trong hợp đồng là 100m
2
. Toàn bộ khu B,
C1 hiện nay là nhà do ông Nguyễn Hoàng V, bà Đào Thị Túy P và ông Nguyễn Quốc
C đang quản lý, sử dụng; nhà đã được xây dựng trước khi bán đất cho ông P1, sau
khi giao khu A và khu C cho ông P1 thì phần này gia đình ông không bán và sửa
sang lại để ở cho đến nay.
Nay bị đơn không đồng ý yêu cầu khởi kiện của bà H về việc yêu cầu giao tiếp
phần đất diện tích đo đạc thực tế 24,4m
2
tại vị trí khu B theo Mảnh trích đo địa chính,
thuộc thửa số 10, tờ bản đồ số 24, tại thị trấn B, huyện B, tỉnh Long An vì gia đình
không bán phần đất này cho ông P1, bà H.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
Ông Phạm Thanh P1 thống nhất với yêu cầu khởi kiện của vợ là Nguyễn Thị
Cẩm H và xin vắng mặt.
Bà Huỳnh Thị Hồng T trình bày: Bà đứng tên giấy chứng nhận QSDĐ thửa 21,
tờ bản đồ số 24, tại thị trấn B, huyện B, tỉnh Long An, đây là tài sản chung vợ chồng
bà với ông Trần Quốc T1. Nguồn gốc do nhận chuyển nhượng từ tháng 7/2020. Tại
thời điểm nhận chuyển nhượng theo Trích lục bản đồ địa chính, không đo đạc thực
tế. Khi nhận chuyển nhượng thì phần đất giáp ranh với bà nay là thửa số 10 và 24 đã
có xây dựng nhà trên đất. Từ đó đến nay hai bên không đo đạc thực tế nên không
phát hiện các chủ sử dụng đất liền kề sử dụng lấn ranh đất của bà.
Nay bà H tranh chấp với ông V và đo đạc thực tế thửa đất tranh chấp thì bà mới
phát hiện phần đất tại vị trí khu C, diện tích 14,6m
2
thuộc một phần thửa đất số 21
của bà nhưng hiện trạng có một phần nhà của bà H và đang do bà H quản lý, sử
dụng.
Nay bà xác định phần đất tại vị trí khu C là của bà, nhưng bà không có yêu cầu
khởi kiện gì trong vụ án này. Bà và bà H sẽ tự thương lượng với nhau. Trường hợp
sau này không tự thương lượng được thì sẽ khởi kiện bằng vụ án khác.
- Ông Trần Quốc T1 có đơn xin vắng mặt trong suốt quá trình giải quyết vụ án
và không có lời trình bày.
- Văn phòng C1 cung cấp thông tin theo Văn bản số 04 và 05/2023/CV-VPCC
ngày 12/02/2023:
Vào ngày 24/06/2020, bà Nguyễn Thị Cẩm H và bà Đào Thị Túy P đến Văn
phòng C1 yêu cầu công chứng hợp đồng chuyển nhượng QSD đất thửa đất số 10, tờ
bản đồ số 24, diện tích 100m
2
, tọa lạc tại khu phố F, thị trấn B, huyện B, tỉnh Long
An. Qua hồ sơ do các bên cung cấp, Văn phòng C1 tiến hành thủ tục chứng nhận
hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất và đã giải thích cho các bên nghe, hiểu
và đọc lại. Sau khi các bên đã đọc, đồng ý, tự nguyện ký tên và điểm chỉ vào hợp
đồng. Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất đã được Công chứng viên Vũ
Trọng K tiến hành chứng nhận ngày 24/06/2020, số công chứng 5274 quyển số 03.
Việc công chứng nêu trên là đúng theo trình tự thủ tục và có sự thống nhất đồng ý
của các bên.
Việc bà Đào Thị Túy P cho rằng không biết nội dung chuyển nhượng nêu trên
là không có cơ sở vì trước khi chuyển nhượng cho bà Nguyễn Thị Cẩm H thì bà P
đã nhận tặng cho thửa đất trên từ con ruột là ông Nguyễn Hoàng V, sau đó làm thủ
tục tách thửa đất số 10 ra thành hai thửa đất là thửa số 24 (diện tích 114,3m
2
) đã làm
thủ tục tặng cho lại ông Nguyễn Hoàng V đăng ký biến động trên giấy chứng nhận
QSDĐ ngày 02/06/2020 và thửa đất số 10 phần còn lại (diện tích 100m
2
) mới làm
thủ tục chuyển nhượng cho bà Nguyễn Thị Cẩm H.
Việc chứng nhận hoàn toàn đúng theo trình tự thủ tục công chứng và sự tự
nguyện của các bên còn việc tranh chấp của các bên liên quan đối với thửa đất nêu
trên Tòa án căn cứ vào quy định của pháp luật để giải quyết.
Tại Bản án dân sự sơ thẩm số 61/2024/DS-ST ngày 03 tháng 7 năm 2024 của
Tòa án nhân dân huyện Bến Lức đã tuyên xử:
1. Không chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà Nguyễn Thị
Cẩm H đối với các bị đơn ông Nguyễn Hoàng V, bà Đào Thị Túy P, ông Nguyễn
Quốc C về việc yêu cầu tiếp tục thực hiện hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng
đất được Văn phòng C1 công chứng số 5274, quyển số 03/TP/CC-SCC/HĐGD ngày
24/6/2020. Cụ thể: Buộc bị đơn giao tiếp cho bà Nguyễn Thị Cẩm H diện tích đo
đạc thực tế 24,4m
2
, loại đất ở tại đô thị, tại vị trí khu (B), thuộc một phần thửa số 10,
tờ bản đồ số 24, tại thị trấn B, huyện B, tỉnh Long An. Theo GCNQSDĐ số CH
648357, số vào sổ cấp giấy chứng nhận QSDĐ: CS 07933 do Sở Tài nguyên Môi
trường tỉnh L cấp ngày 11/4/2017 cho ông Nguyễn Hoàng V, đăng ký biến động
sang tên bà Đào Thị Túy P ngày 20/3/2020, đăng ký biến động sang tên bà Nguyễn
Thị Cẩm H ngày 07/7/2020.
(Khu B được xác định tại Mảnh trích đo địa chính số 106-2023 do Công ty
TNHH Đ vẽ ngày 30/5/2023 được Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai tại huyện
B duyệt ngày 12/6/2023 và bản vẽ phân khu ngày 02/8/2023).
2. Về chi phí tố tụng tại cấp sơ thẩm: chi phí đo đạc, định giá, xem xét thẩm
định tại chỗ là 27.000.000 đồng. Bà H phải chịu toàn bộ và đã nộp xong.
3. Về án phí dân sự sơ thẩm:
Bà H phải chịu 300.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm. Khấu trừ số tiền tạm ứng
án phí 300.000 đồng (Ba trăm ngàn đồng) bà H đã nộp theo biên lai thu số 0009365
ngày 28/12/2022 tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Bến Lức. Bà H đã nộp xong
án phí.
Ngoài ra, án sơ thẩm còn tuyên về quyền kháng cáo và hướng dẫn thi hành án.
Bản án sơ thẩm chưa có hiệu lực, ngày 16/7/2024, bà Nguyễn Thị Cẩm H, ông
Phạm Thanh P1 kháng cáo; ngày 18/7/2024, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân
huyện Bến Lức kháng nghị yêu cầu Tòa án cấp phúc thẩm sửa án sơ thẩm theo hướng
chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Nguyễn Thị Cẩm H.
Tại phiên Tòa cấp phúc thẩm: nguyên đơn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện và
yêu cầu kháng cáo; Viện kiểm sát nhân tỉnh Long An giữ nguyên yêu cầu kháng
nghị. Các đương sự không thỏa thuận được với nhau về việc giải quyết vụ án.
Người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn bà Nguyễn Thị Cẩm H và người
có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông Phạm Thanh P1 là bà Vỏ Thị Ngọc N trình
bày: Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng thửa đất số 10, tờ bản đồ số 24, diện
tích 100m
2
, tọa lạc tại khu phố F, thị trấn B, huyện B, tỉnh Long An giữa bà Nguyễn
Thị Cẩm H với ông Nguyễn Hoàng V, bà Đào Thị Túy P, ông Nguyễn Quốc C đã
được hai bên ký kết và được Văn phòng C1 công chứng. Bà H đã thực hiện nghĩa
vụ giao đủ tiền cho ông V, bà P và ông C nhưng ông V, bà P và ông C không giao
đủ diện tích đất đã ghi trong hợp đồng, còn thiếu khu B, diện tích đạc thực tế là
24,4m
2
. Hiện nay, ông V, bà P, ông C đang quản lý sử dụng phần đất tại khu B, trên
đất căn nhà bếp. Bà H và ông P1 yêu cầu ông V, bà P, ông C tiếp tục thực hiện hợp
đồng ngày 24/6/2020 trả diện tích còn thiếu tại khu B cho bà H, ông P1 và tự nguyện
bồi thường giá trị tài sản trên căn nhà bếp theo Chứng thư thẩm định giá số
1004.2023.VT.HS ngày 30/8/2023 của Công ty Cổ phần T3.
Ông Nguyễn Quốc C trình bày: theo thỏa thuận hợp đồng thì bị đơn chỉ chuyển
nhượng phần đất tại vị trí khu A và khu C diện tích là khoảng 80m
2
và đã giao đủ
đất cho bà H. Sau khi bà H nhận đất thì hai bên đã sử dụng ổn định theo ranh đất mà
phía bị đơn đã giao. Nay, bà H yêu cầu yêu cầu giao tiếp phần đất vị trí khu B, diện
tích đo đạc thực tế 24,4m
2
thì bị đơn không đồng ý vì không bán vị trí khu B cho bà
H.
Kiểm sát viên phát biểu ý kiến:
1. Về chấp hành pháp luật:
Thẩm phán, Hội đồng xét xử phúc thẩm đã thực hiện đúng, đầy đủ quy định
của Bộ luật Tố tụng dân sự và các văn bản quy phạm pháp luật từ khi thụ lý giải
quyết vụ án để xét xử phúc thẩm đến trước thời điểm nghị án. Người tham gia tố
tụng (nguyên đơn, bị đơn, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan) đã thực hiện đúng,
đầy đủ quyền và nghĩa vụ tố tụng theo quy định tại Điều 70, 71, 72, 73 của Bộ luật
Tố tụng dân sự. Kháng cáo, kháng nghị đảm bảo các nội dung quy định tại Điều 272,
273, 279, 280 Bộ luật Tố tụng dân sự. Do đó đủ điều kiện để xem xét giải quyết theo
trình tự phúc thẩm.
2. Xét kháng cáo và kháng nghị của Viện kiểm sát nhân dân huyện Bến Lức
thấy rằng:
Về Hợp đồng chuyển nhượng ngày 24/6/2020 tại Văn phòng C1 được ký kết
giữa bà bà Đào Thị Túy P và bà Nguyễn Thị Cẩm H đối với thửa số 10, tờ bản đồ
số 24, diện tích 100m
2
, đảm bảo về mặt hình thức, chủ thể ký kết, đối tượng rõ ràng,
tại thời điểm ký kết không ai tranh chấp, không vi phạm điều cấm pháp luật, hợp
đồng sau khi được ký kết bà H đã được cập nhật chỉnh lý biến động sang tên thửa
đất nêu trên và không ai tranh chấp về hiệu lực hợp đồng chuyển nhượng quyền sử
dụng đất nên hợp đồng chuyển nhượng có hiệu lực pháp luật.
Bản án sơ thẩm dựa vào lời trình bày của ông C, bà P, ông V xác định đối tượng
chuyển nhượng theo thoả thuận thực tế giữa các bên là khu A và khu C theo Mảnh
trích đo địa chính, bị đơn không chuyển nhượng đối với khu B, việc các bên ký hợp
đồng đối với 100m
2
đất trọn thửa số 10 là do nhầm lẫn một phần đối tượng của khu
C với khu B. Nhận định này là không có căn cứ vì thửa đất số 10, diện tích 214,3m
2
ông Nguyễn Hoàng V được cấp giấy chứng nhận QSDĐ ngày 11/4/2017. Ngày
23/10/2019, ông V ký “Hợp đồng đặt cọc mua bán đất” thể hiện ông V bán 100m
2
trong thửa số 10 tổng diện tích khoảng 214,3m
2
cho bà H, 03 tháng sau do chưa cắt
được thửa đất nên các bên ký lại điều khoản bổ sung tại hợp đồng. Sau đó ông V, bà
H tiếp tục ký “Hợp đồng sang nhượng đất” ngày 16/3/2020 cùng với nội dung thoả
thuận chuyển nhượng 100m
2
thuộc thửa số 10. Ngày 20/3/2020, bà Đào Thị Túy P
được cập nhật sang tên, sau đó bà P ký hợp đồng chuyển nhượng thửa đất số 10 diện
tích 100m
2
cho bà H, sau đó bà H được cập nhật chỉnh lý biến động sang tên ngày
07/7/2020. Trong 03 lần ký hợp đồng đều thể hiện bà P, ông C, ông V chuyển
nhượng quyền sử dụng đất cho bà H phần diện tích đất là 100m
2
thuộc một phần
thửa số 10 (cũ) và trọn thửa số 10 (mới), không phải diện tích khoảng 80m
2
như ông
C trình bày. Bị đơn cũng không cung cấp biên bản bàn giao hay chứng cứ khác để
chứng minh việc đã giao đủ đất cho nguyên đơn.
Bản án sơ thẩm cũng nhận định toàn bộ quá trình cấp giấy và tách thửa đối với
thửa số 10 đều không đo đạc thực tế, không ký giáp ranh nên các bên không thể xác
định ranh và ông C, bà P, ông V đã giao đủ đất theo thỏa thuận tại Hợp đồng, nhận
định này là không đúng với thực tế, vì tại biên bản mô tả ranh giới, mốc giới ngày
23/03/2020 của Công ty Đ1 thực hiện xác định ranh giới mốc giới thực hiện thủ tục
tặng cho quyền sử dụng đất giữa bà P cho con ruột là ông V đối với thửa đất số 24
có thể hiện việc đo đạc và ký giáp ranh với các chủ sử dụng các thửa đất liền kề, bà
P và ông V đều ký tên xác định ranh giới mốc giới rõ ràng giữa thửa đất số 24 và
thửa đất số 10. Hơn nữa việc bà Đào Thị Túy P cho rằng bà không biết nội dung
chuyển nhượng là trọn thửa đất số 10, diện tích 100m
2
là không có cơ sở vì trước
khi chuyển nhượng cho bà Nguyễn Thị Cẩm H thì bà P đã nhận tặng cho thửa đất
trên từ con ruột là ông Nguyễn Hoàng V, sau đó làm thủ tục tách thửa đất số 10 ra
thành hai thửa đất là thửa số 24 (diện tích 114,3m
2
) và thửa đất số 10 (diện tích
100m
2
) sau đó mới làm thủ tục chuyển nhượng cho bà Nguyễn Thị Cẩm H, lời trình
bày của bị đơn mâu thuẫn nhau nhưng bản án lại căn cứ vào lời trình bày nêu trên
để xác định có sự nhầm lẫn đối tượng tại hợp đồng được công chứng là không đảm
bảo xem xét toàn diện khách quan các chứng cứ có trong hồ sơ vụ án. Bản án nhận
định việc chuyển nhượng bị nhầm lẫn đối tượng và bà P đã giao đủ đất là không hợp
lý vì bà P không có chứng cứ chứng minh việc nhầm lẫn đối tượng, các đương sự
không tranh chấp về việc xác định hiệu lực của hợp đồng nên phải căn cứ vào nội
dung thỏa thuận tại hợp đồng để giải quyết vụ án.
Theo hồ sơ vụ án thể hiện tại thời điểm ông V ký hợp đồng chuyển nhượng
quyền sử dụng đất đối với thửa đất số 24 cho ông H1 (ngày 06/08/2022), thì ông P1,
bà H là người ký biên bản xác định ranh giới với ông H1; bà P, ông C, ông V cho
rằng mình là người trực tiếp sử dụng phần đất giáp ranh (khu B) nhưng không ký
tên, không phản đối hay có ý kiến gì đối với việc ký ranh của bà H. Như vậy bà P,
ông V, ông C đã thừa nhận bà H có quyền sử dụng đất đối với phần đất tại khu B,
nhưng bản án không xem xét tình tiết này là thiếu sót.
Mặt khác, bản án nhận định về giá thoả thuận theo các hợp đồng đã ký kết: giá
chuyển nhượng 1.360.000.000 đồng là giá trị của 100m
2
nhưng đối tượng chuyển
nhượng thực tế bà H chỉ được bàn giao quản lý sử dụng khu A, khu C tổng diện tích
90,2m
2
là ít hơn so với thoả thuận của hợp đồng, nhận định này là mâu thuẫn với các
nhận định khác của bản án, vì Tòa án cấp sơ thẩm nhận định giá chuyển nhượng
1.360.000.000 đồng là giá trị của 100m
2
và xác định bà P đã giao không đủ diện tích
như thỏa thuận nhưng lại không chấp nhận yêu cầu của bà H về việc tiếp tục giao
tiếp đất là không phù hợp.
Bà P, ông V, ông C đang quản lý sử dụng phần đất tại khu B diện tích 24,4m
2
thuộc một phần thửa số 10 (bà H đứng tên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất) trên
đó có căn nhà bếp theo Chứng thư thẩm định giá là 63.372.977đồng. Tại phiên tòa
nguyên đơn đồng ý hoàn lại giá trị cho bà P, ông V, ông C là phù hợp nên cần ghi
nhận và xem xét cho Bà P, ông V, ông C thời gian lưu cư 06 tháng.
Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận kháng nghị Viện kiểm sát nhân dân huyện
Bến Lức và kháng cáo bà Nguyễn Thị Cẩm H, ông Phạm Thanh P1. Căn cứ khoản
2 Điều 308 Bộ luật Tố tụng dân sự sửa bản án sơ thẩm.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
[1] Về thủ tục tố tụng: đơn kháng cáo của bà Nguyễn Thị Cẩm H, ông Phạm
Thanh P1; kháng nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân huyện Bến Lức đúng
quy định của pháp luật và đảm bảo các nội dung quy định tại Điều 271, 272, 273,
279, 280 của Bộ luật Tố tụng dân sự. Do đó đủ điều kiện để xem xét giải quyết theo
trình tự phúc thẩm. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có đơn đề nghị xét xử
vắng mặt. Căn cứ vào Điều 296 của Bộ luật Tố tụng dân sự, xét xử vắng mặt người
có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan.
[2] Xét yêu cầu kháng cáo của kháng cáo của bà Nguyễn Thị Cẩm H, ông Phạm
Thanh P1; kháng nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân huyện Bến Lức nhận
thấy:
Ngày 23/10/2019, ông V ký “Hợp đồng đặt cọc mua bán đất” thể hiện ông V
chuyển nhượng 100m
2
trong thửa số 10 tổng diện tích khoảng 214,3m
2
cho bà H, 03
tháng sau các bên ký lại điều khoản bổ sung tại hợp đồng. Sau đó ông V, bà H tiếp
tục ký “Hợp đồng sang nhượng đất” ngày 16/3/2020 cùng với nội dung thoả thuận
chuyển nhượng 100m
2
thuộc thửa số 10. Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng
đất hai bên ký kết tại Văn phòng C1. Bà Nguyễn Thị Cẩm H được cập nhật chỉnh lý
biến động sang tên ngày 07/7/2020. Trong các lần ký hợp đồng đều thể hiện ông V,
bà P, ông C chuyển nhượng quyền sử dụng đất cho bà H phần diện tích đất là 100m
2
thuộc một phần thửa số 10 (cũ) và trọn thửa số 10 (mới), không phải diện tích khoảng
80m
2
như ông C trình bày. Ngoài ra bị đơn cũng không cung cấp biên bản bàn giao
hay chứng cứ nào khác để chứng minh bị đơn chỉ chuyển nhượng phần đất tại khu
A và khu C diện tích là khoảng 80m
2
và đã giao đủ đất cho nguyên đơn. Trong khi
đó nguyên đơn cho rằng nhận chuyển nhượng đất của bị đơn diện tích là 100m
2
,
chứng cứ chứng minh là Hợp đồng đặt cọc mua bán đất, Hợp đồng sang nhượng đất
mà nguyên đơn cung cấp. Do đó Tòa án cấp sơ thẩm dựa vào lời trình bày của ông
V,bà P, ông C xác định ông V chỉ chuyển nhượng cho bà H đất thực tế là khu A và
khu C theo Mảnh trích đo địa chính, bị đơn không chuyển nhượng đối với khu B,
việc các bên ký hợp đồng đối với 100m
2
đất trọn thửa số 10 là do nhầm lẫn một phần
đối tượng. Nhận định này là không có căn cứ vì thửa đất số 10, diện tích 214,3m
2
,
ông Nguyễn Hoàng V được cấp giấy chứng nhận QSDĐ ngày 11/4/2017, trước khi
chuyển nhượng cho bà Nguyễn Thị Cẩm H thì bà P đã nhận tặng cho thửa đất trên
từ con ruột là ông Nguyễn Hoàng V, sau đó làm thủ tục tách thửa đất số 10 ra thành
hai thửa đất là thửa số 24 (diện tích 114,3m
2
) và thửa đất số 10 (diện tích 100m
2
) sau
đó mới làm thủ tục chuyển nhượng cho bà Nguyễn Thị Cẩm H. Do đó, bà Đào Thị
Túy P cho rằng bà không biết nội dung chuyển nhượng là trọn thửa đất số 10 diện
tích 100m
2
là không có cơ sở; lời trình bày của bị đơn mâu thuẫn nhau nhưng Tòa
án cấp sơ thẩm lại căn cứ vào lời trình bày của bị đơn để xác định có sự nhầm lẫn
đối tượng tại hợp đồng được công chứng là không đảm bảo xem xét toàn diện khách
quan các chứng cứ có trong hồ sơ vụ án.
Tòa án cấp sơ thẩm nhận định bà H đã nhận và quản lý phần đất tại vị trí khu
A diện tích 75,6m
2
thuộc một phần thửa đất số 10 và khu C diện tích 14,6m
2
thuộc
một phần thửa đất số 21 (bà T đứng tên trên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất),
tổng diện tích 90,2m
2
; ông V, bà P, ông C đang quản lý, sử dụng tại vị trí khu B diện
tích 24,4m
2
thuộc một phần thửa đất số 10 và khu C1 diện tích 5,9m
2
thuộc một phần
thửa đất số 21, các bên sử dụng đất ổn định. Tuy nhiên theo hồ sơ vụ án thể hiện tại
thời điểm ông V ký hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất đối với thửa đất số
24 cho ông H1 (ngày 06/08/2022), thì ông P1, bà H là người ký biên bản xác định
ranh giới với ông H1; bà P, ông C, ông V cho rằng mình là người trực tiếp sử dụng
phần đất giáp ranh (khu B) nhưng không ký tên, không phản đối hay có ý kiến gì đối
với việc ký ranh của bà H. Như vậy bà P, ông V, ông C đã thừa nhận bà H có quyền
sử dụng đất đối với phần đất tại khu B, nhưng Tòa án cấp sơ thẩm không xem xét
tình tiết này là thiếu sót.
Mặt khác, Tòa án cấp sơ thẩm nhận định về giá thoả thuận theo các hợp đồng
đã ký kết với số tiền 1.360.000.000 đồng là giá trị của 100m
2
nhưng đối tượng
chuyển nhượng thực tế bà H chỉ được bàn giao quản lý sử dụng tổng diện tích đất là
90,2m
2
là ít hơn so với thoả thuận của hợp đồng nhưng lại không chấp nhận yêu cầu
của bà H về việc tiếp tục giao tiếp đất là không phù hợp.
Ngoài ra theo Công văn trả lời số 4379/CNVPĐKĐĐ ngày 29/12/2023 của Chi
nhánh Văn phòng đăng ký đất đai tại huyện B thì phần đất đang tranh chấp diện tích
đo đạc thực tế 24,4m
2
, loại đất ONT, thuộc một phần thửa số 10, tờ bản đồ số 24, tại
thị trấn B, huyện B, tỉnh Long An đã chỉnh lý biến động do bà H đứng tên và theo
quy định pháp luật không đủ điều kiện tách thửa; bị đơn không còn quyền sử dụng
đối với bất kỳ phần đất nào khác để thực hiện việc nhập thửa, tách thửa theo quy
định nhưng bản án sơ thẩm tuyên xử “Không chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện
của nguyên đơn bà Nguyễn Thị Cẩm H đối với các bị đơn ông Nguyễn Hoàng V, bà
Đào Thị Túy P, ông Nguyễn Quốc C về việc yêu cầu tiếp tục thực hiện hợp đồng
chuyển nhượng quyền sử dụng đất. Cụ thể, buộc bị đơn giao tiếp cho bà Nguyễn Thị
Cẩm H diện tích đo đạc thực tế 24,4m
2
, loại đất ở tại đô thị, tại vị trí khu (B), thuộc
một phần thửa số 10, tờ bản đồ số 24, tại thị trấn B, huyện B, tỉnh Long An là chưa
đánh giá toàn diện khách quan các chứng cứ của vụ án.
[3] Như phân tích ở mục [2] nên có căn cứ chấp nhận kháng cáo của bà Nguyễn
Thị Cẩm H, ông Phạm Thanh P1 và kháng nghị Viện kiểm sát nhân dân huyện Bến
Lức, tỉnh Long An.
[4] Căn cứ khoản 2 Điều 308 Bộ luật Tố tụng dân sự sửa Bản án dân sự sơ thẩm
số 61/2024/DS-ST ngày 03 tháng 7 năm 2024 của Tòa án nhân dân huyện Bến Lức
tỉnh Long An.
[5] Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà Nguyễn Thị Cẩm
H đối với các bị đơn ông Nguyễn Hoàng V, bà Đào Thị Túy P, ông Nguyễn Quốc C
về việc yêu cầu tiếp tục thực hiện hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất được
Văn phòng C1 công chứng số 5274, quyển số 03/TP/CC-SCC/HĐGD ngày
24/6/2020.
[6] Ông V, bà P, ông C đang quản lý sử dụng phần đất tại khu B diện tích
24,4m
2
thuộc 01 phần thửa số 10 (bà H đứng tên giấy chứng nhận quyền sử dụng
đất) trên đó có căn nhà bếp theo Chứng thư thẩm định giá là 63.372.977 đồng. Tại
phiên tòa, nguyên đơn đồng ý hoàn lại giá trị cho ông V, bà P, ông C là phù hợp nên
cần ghi nhận và xem xét cho ông V, bà P, ông C thời gian lưu cư 06 tháng kể từ ngày
tuyên án phúc thẩm.
[7] Về chi phí tố tụng cấp sơ thẩm: số tiền là 27.000.000 đồng, ông Nguyễn
Hoàng V, bà Đào Thị Túy P, ông Nguyễn Quốc C phải liên đới trách nhiệm chịu số
tiền này và hoàn trả cho bà H.
[8] Về án phí dân sự sơ thẩm: ông Nguyễn Hoàng V, bà Đào Thị Túy P, ông
Nguyễn Quốc C phải liên đới chịu án phí dân sự sơ thẩm số tiền là 300.000 đồng.
Bà H không phải chịu án phí dân sự sơ thẩm và được hoàn trả số tiền 30.000 đồng
tiền tạm ứng án phí đã nộp.
[9] Về án phí dân sự phúc thẩm: do kháng cáo được chấp nhận nên bà Nguyễn
Thị Cẩm H, ông Phạm Thanh P1 không phải chịu án phí và được được hoàn trả số
tiền tạm ứng án phí đã nộp.
[10] Lời phát biểu của Kiểm sát viên phù hợp với nhận định của Hội đồng xét
xử nên được chấp nhận.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ khoản 2 Điều 308 Bộ luật Tố tụng dân sự;
Chấp nhận kháng cáo của bà Nguyễn Thị Cẩm H, ông Phạm Thanh P1 và kháng
nghị Viện kiểm sát nhân dân huyện Bến Lức, tỉnh Long An. Sửa Bản án dân sự sơ
thẩm số 61/2024/DS-ST ngày 03 tháng 7 năm 2024 của Tòa án nhân dân huyện Bến
Lức, tỉnh Long An.
Căn cứ khoản 9 Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35, Điều 39, Điều 228 và Điều
266 của Bộ luật Tố tụng dân sự.
Căn Điều 26, Điều 27, Điều 29 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày
30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu,
nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Căn cứ Điều 158, Điều 160, Điều 175 Bộ luật Dân sự 2015; Điều 100, Điều
101, Điều 166, Điều 170, Điều 203 của Luật Đất đai năm 2013;
Tuyên xử:
1. Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà Nguyễn Thị Cẩm
H đối với các bị đơn ông Nguyễn Hoàng V, bà Đào Thị Túy P, ông Nguyễn Quốc C
về việc yêu cầu tiếp tục thực hiện hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất được
Văn phòng C1 công chứng số 5274, quyển số 03/TP/CC-SCC/HĐGD ngày
24/6/2020.
2. Buộc ông Nguyễn Hoàng V, bà Đào Thị Túy P, ông Nguyễn Quốc C giao
cho bà Nguyễn Thị Cẩm H diện tích đất đo đạc thực tế 24,4m
2
, loại đất ở tại đô thị,
tại vị trí khu (B), thuộc một phần thửa số 10, tờ bản đồ số 24, tại thị trấn B, huyện
B, tỉnh Long An theo giấy chứng nhận QSDĐ số CH 648357, số vào sổ cấp giấy
chứng nhận QSDĐ: CS 07933 do Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh L cấp ngày
11/4/2017 cho ông Nguyễn Hoàng V, đăng ký biến động sang tên bà Đào Thị Túy P
ngày 20/3/2020, đăng ký biến động sang tên bà Nguyễn Thị Cẩm H ngày 07/7/2020,
trên Khu B có căn nhà bếp có kết cấu theo chứng thư thẩm định giá. (Khu B được
xác định tại Mảnh trích đo địa chính số 106-2023 do Công ty TNHH Đ vẽ ngày
30/5/2023 được Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai tại huyện B duyệt ngày
12/6/2023 và bản vẽ phân khu ngày 02/8/2023).
3. Ghi nhận sự tự nguyện của bà Nguyễn Thị Cẩm H trả giá trị căn nhà bếp
cho ông Nguyễn Hoàng V, bà Đào Thị Túy P, ông Nguyễn Quốc C số tiền
63.372.977 đồng.
4. Về thời gian lưu cư: Ông Nguyễn Hoàng V, bà Đào Thị Túy P, ông Nguyễn
Quốc C được lưu cư tại căn nhà bếp trong thời gian 06 tháng kể từ ngày tuyên án
phúc thẩm.
5. Về chi phí tố tụng: Buộc ông Nguyễn Hoàng V, bà Đào Thị Túy P, ông
Nguyễn Quốc C liên đới chịu số tiền 27.000.000 đồng và có nghĩa vụ hoàn trả cho
bà Nguyễn Thị Cẩm H.
6. Về nghĩa vụ chậm thi hành án: kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của
người được thi hành án cho đến khi thi hành án xong tất cả các khoản tiền, hàng
tháng bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành
án theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 của Bộ luật Dân sự năm 2015,
trừ trường hợp pháp luật có quy định khác.
7. Về án phí dân sự sơ thẩm:
7.1. Buộc ông Nguyễn Hoàng V, bà Đào Thị Túy P, ông Nguyễn Quốc C cùng
liên đới chịu số tiền 300.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm.
7.2. Bà Nguyễn Thị Cẩm H không phải chịu án phí dân sự sơ thẩm và được
hoàn trả số tiền tạm ứng án phí 300.000 đồng đã nộp theo biên lai thu số 0009365
ngày 28/12/2022 tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Bến Lức.
8. Về án phí dân sự phúc thẩm: Bà Nguyễn Thị Cẩm H và ông Phạm Thanh P1
không phải chịu và được hoàn trả số tiền tạm ứng án phí là 300.000 đồng đã nộp
theo biên lai thu số 0007512 ngày 17/7/2024 và biên lai thu số 0007514 ngày
18/7/2024 tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Bến Lức.
9. Về hướng dẫn thi hành án: Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo
qui định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án, người phải
thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự
nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo qui định tại các Điều 6, 7, 7a
và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo qui định tại
Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.
10. Về hiệu lực của bản án: Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày
tuyên án.
Nơi nhận:
- TANDCC tại Thành phố Hồ Chí Minh;
- VKSND tỉnh Long An;
- TAND huyện Bến Lức;
- Chi cục THADS huyện Bến Lức;
- Các đương sự;
- Lưu HS; AV./.
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM
THẨM PHÁN – CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
Huỳnh Hữu Nghĩa
Tải về
Bản án số 449/2024/DS-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án số 449/2024/DS-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án/ Quyết định cùng đối tượng
1
Ban hành: 19/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
2
Ban hành: 18/11/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
3
Ban hành: 14/11/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
4
Ban hành: 21/10/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
5
Ban hành: 30/09/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
6
Ban hành: 30/09/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
7
Ban hành: 24/09/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
8
Ban hành: 23/09/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
9
Ban hành: 20/09/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
10
Ban hành: 20/09/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
11
Ban hành: 20/09/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
12
Ban hành: 17/09/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
13
Ban hành: 17/09/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
14
Ban hành: 17/09/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
15
Ban hành: 16/09/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
16
Ban hành: 13/09/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
17
Ban hành: 12/09/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
18
Ban hành: 10/09/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
19
Ban hành: 09/09/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm