Bản án số 180/2025/DS-PT ngày 28/03/2025 của TAND tỉnh Bến Tre về tranh chấp quyền sử dụng đất
- Thuộc tính
- Nội dung
- VB gốc
- VB liên quan
- Lược đồ
- Đính chính
- Án lệ
- BA/QĐ cùng nội dung
- Tải về
Tải văn bản
-
Bản án số 180/2025/DS-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
-
Bản án số 180/2025/DS-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Báo lỗi
Thuộc tính Bản án 180/2025/DS-PT
Tên Bản án: | Bản án số 180/2025/DS-PT ngày 28/03/2025 của TAND tỉnh Bến Tre về tranh chấp quyền sử dụng đất |
---|---|
Quan hệ pháp luật: | Tranh chấp quyền sử dụng đất |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Tòa án xét xử: | TAND tỉnh Bến Tre |
Số hiệu: | 180/2025/DS-PT |
Loại văn bản: | Bản án |
Ngày ban hành: | 28/03/2025 |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Áp dụng án lệ: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Đính chính: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Thông tin về vụ/việc: | “Tranh chấp quyền sử dụng đất” Nguyễn Văn N-Nguyễn Thị Thu H3 |
Tóm tắt Bản án
Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!
Tải văn bản

1
TÒA ÁN NHÂN DÂN
TỈNH BẾN TRE
Bản án số: 180/2025/DS-PT
Ngày: 24/3/2025
Về việc tranh chấp quyền sử dụng đất
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập – Tự do – H1 phúc
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH BẾN TRE
- Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:
Thẩm phán – Chủ tọa phiên tòa: Ông Lê M Đạt
Các Thẩm phán: Ông Bùi Quang Sơn
Bà Phạm Thị Thu Trang
- Thư ký phiên tòa: Bà Đào Nguyễn Yến Phương - Thẩm tra viên Tòa án
nhân dân tỉnh Bến Tre.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bến Tre tham gia phiên tòa: Bà
Nguyễn Thị Xa Riêng - Kiểm sát viên.
Ngày 24/3/2025 tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Bến Tre, xét xử phúc thẩm
công khai vụ án dân sự thụ lý số 617/2024/TLPT-DS ngày 19/12/2024 về “Tranh
chấp quyền sử dụng đất” do Bản án dân sự sơ thẩm số 289/2024/DS-ST ngày
23/9/2024 của Tòa án nhân dân huyện C, tỉnh Bến Tre bị kháng cáo. Theo Quyết
định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số 20/2025/QĐXXPT-DS ngày 13/01/2025
và Quyết định hoãn phiên toà số 647/2025/QĐ-PT ngày 19/02/2025 giữa các
đương sự:
- NguY đơn:
1. Ông Nguyễn Văn N, sinh năm 1965
Địa chỉ: 434/34/23J BQ, phường 28, quận B, Thành phố Hồ Chí M.
2. Ông Nguyễn Văn T, sinh năm 1967
3. Ông Nguyễn Văn L, sinh năm 1976
Cùng địa chỉ: ấp PK, xã Phước Mỹ T, huyện M, tỉnh Bến Tre.
4. Ông Nguyễn Văn H, sinh năm 1969
Địa chỉ: ấp MT, xã T, huyện Đ, tỉnh Bình Phước.
5. Bà Nguyễn Thị H1, sinh năm 1971
2
Địa chỉ: 32/14 Đ số 22, tổ 8, khu phố 4, phường P, quận 9, Thành phố Hồ
Chí M.
6. Bà Nguyễn Thị S, sinh năm 1973
Địa chỉ: 598/29 ấp V, xã VT, huyện C, tỉnh Bến Tre.
7. Bà Nguyễn Thị H2, sinh năm 1974
8. Bà Nguyễn Thị T1, sinh năm 1980
9. Ông Nguyễn Văn N, sinh năm 1984
Cùng địa chỉ: 81/30 ấp V 2, xã VT, huyện C, tỉnh Bến Tre.
Người đại diện theo ủy quyền của các nguY đơn (ông Nguyễn Văn N, ông
Nguyễn Văn T, ông Nguyễn Văn H, bà Nguyễn Thị H1, bà Nguyễn Thị S, bà
Nguyễn Thị H2, ông Nguyễn Văn L, bà Nguyễn Thị T1, ông Nguyễn Văn N):
Ông Phạm Văn Y, sinh năm 1967 (có mặt)
Địa chỉ: 50/2 ấp PH, xã TP, huyện CT, tỉnh Bến Tre.
- Bị đơn:
1. Bà Nguyễn Thị Thu H3, sinh năm 1965
2. Ông Nguyễn Khắc T2, sinh năm 1964
Cùng địa chỉ: ấp V, xã VT, huyện C, tỉnh Bến Tre.
Người đại diện theo ủy quyền của bị đơn: Ông Lưu Hồng P, sinh năm 1959
(có mặt)
Địa chỉ: 367A ấp NA, xã Nhơn TH1, thành phố B, tỉnh Bến Tre.
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
1. Ủy ban nhân dân xã VT, huyện C, tỉnh Bến Tre (có yêu cầu xét xử vắng
mặt)
2. Ông Lê Văn Đ, sinh năm 1945 (có yêu cầu xét xử vắng mặt)
3. Bà Nguyễn Thị N, sinh năm 1949 (có yêu cầu xét xử vắng mặt)
Cùng địa chỉ: ấp VC, xã VT, huyện C, tỉnh Bến Tre.
4. Ông Nguyễn Văn M, sinh năm 1961
Địa chỉ: ấp P, xã QS, huyện CT, tỉnh Bến Tre.
Người đại diện theo ủy quyền của ông Nguyễn Văn M: Ông Lưu Hồng P,
sinh năm 1959
Địa chỉ: 367A ấp NA, xã Nhơn TH1, thành phố B, tỉnh Bến Tre.
- Người kháng cáo: NguY đơn ông Nguyễn Văn N, ông Nguyễn Văn T,
ông Nguyễn Văn H, bà Nguyễn Thị H1, bà Nguyễn Thị S, bà Nguyễn Thị H2,
ông Nguyễn Văn L, bà Nguyễn Thị T1, ông Nguyễn Văn N.
3
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Theo bản án sơ thẩm,
Tại đơn khởi kiện, các bản tự khai, các biên bản hòa giải, biên bản phiên
họp công khai chứng cứ và tại phiên tòa sơ thẩm người đại diện theo ủy quyền
của các nguY đơn (ông Phạm Văn Y) trnh bày:
Cha mẹ của các nguY đơn là ông Nguyễn Văn K (chết năm 2014) và bà Lê
Thị T3 (chết năm 2009). Ông K và bà T3 có các người con như sau: ông Nguyễn
Văn N, ông Nguyễn Văn T, ông Nguyễn Văn H, bà Nguyễn Thị H1, bà Nguyễn
Thị S, bà Nguyễn Thị H2, ông Nguyễn Văn L, bà Nguyễn Thị T1, ông Nguyễn
Văn N. Cha mẹ ruột của ông K, bà T3 đều đã chết, không có cha mẹ nuôi và con
nuôi.
Ông K, bà T3 có phần đất diện tích 3.587m
2
, gồm 02 thửa đất 2049 và 2050,
tờ bản đồ số 02, tọa lạc tại ấp VC, xã VT, huyện C, tỉnh Bến Tre. Năm 2001 bà
T3, ông K có chuyển nhượng cho ông T2, bà H3 diện tích 3.188m
2
, gồm thửa
2049 và một phần của thửa 2050 theo hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng
đất lập ngày 10/12/2001.
Sau khi chuyển nhượng cho ông T2, bà H3 thì diện tích còn lại của thửa
2050 theo giấy chứng nhận quyền sử dụng đất là 62m
2
, gồm hai phần: một phần
thửa 2050 nằm phía sau phần đất chuyển nhượng cho bà H3, ông T2 và một phần
thửa 2050 nằm cặp bờ sông đối diện đất đã chuyển nhượng cho bà H3, ông T2.
Hai phần đất còn lại thể hiện rõ theo trích lục họa đồ vị trí thửa đất ngày
17/12/2001 và Trích lục họa đồ địa chính ngày 13/10/2014.
Năm 2009 bà T3 chết thì ông T2, bà H3 tự lấn chiếm phần đất còn lại của
ông K, bà T3 phía ngoài bờ sông, ông K có gửi đơn nhờ chính quyền địa phương
giải quyết, sự việc chưa được giải quyết xong thì đến năm 2014 ông K chết. Nay
ông Nguyễn Văn N, ông Nguyễn Văn T, ông Nguyễn Văn H, bà Nguyễn Thị H1,
bà Nguyễn Thị S, bà Nguyễn Thị H2, ông Nguyễn Văn L, bà Nguyễn Thị T1 và
ông Nguyễn Văn N yêu cầu Tòa án giải quyết buộc bà Nguyễn Thị Thu H3 và
ông Nguyễn Khắc T2 trả lại cho ông N, ông T, ông H, bà H1, bà S, bà H2, ông L,
bà T1, ông N phần đất có diện tích 337m
2
thuộc thửa đất số 370 (thửa cũ là 2050),
tờ bản đồ số 10, tọa lạc ấp VC, xã VT, huyện C, tỉnh Bến Tre và buộc bà H3, ông
T2 phải tháo dỡ, di dời hàng rào lưới B40, di dời cây giống của bà H3, ông T2 ra
khỏi thửa đất nêu trên. Các nguY đơn không bồi thường các công trình trên đất.
NguY đơn không đồng ý bồi thường cho bị đơn chi phí di dời cũng như các thiệt
hại phát sinh từ việc trả lại đất.
NguY đơn thừa nhận việc bị đơn trong quá trình sử dụng đất có lấn chiếm
rạch, bồi đắp thêm phần đất có diện tích 73m
2
được thể hiện tại sơ đồ mô tả kết
4
quả đo đạc thửa đất số 370 do Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai huyện C
cung cấp. Đối với phần diện tích bồi thêm này nguY đơn đồng ý trả lại giá trị tôn
tạo, bồi đắp cho bị đơn theo giá trị quyền sử dụng đất do Hội đồng định giá xác
định.
Người đại diện theo ủy quyền của nguY đơn thống nhất với kết quả định
giá tài sản của Hội đồng định giá tài sản huyện C, tỉnh Bến Tre không yêu cầu
định giá lại; đồng thời thống nhất xác định giá trị công sức tôn tạo, bồi đắp đất
tranh chấp bằng với giá trị quyền sử dụng đất.
Tại bản tự khai, các biên bản hòa giải, biên bản phiên họp công khai chứng
cứ, đơn yêu cầu phản tố và tại phiên tòa sơ thẩm người đại diện theo ủy quyền
của bị đơn (ông Lưu Hồng P) trình bày:
Phần đất phía nguY đơn tranh chấp thuộc thửa 370, tờ bản đồ số 10, tọa lạc
tại ấp VC, xã VT, huyện C, tỉnh Bến Tre. Năm 2001 đất này có vị trí nằm giữa
con lộ rộng 5m và sông không xác định diện tích đất. Đất có nguồn gốc sử dụng
là của ông Nguyễn Văn K (chết năm 2014) và bà Lê Thị T3 (chết năm 2009) là
cha mẹ, ruột của các nguY đơn chưa được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng
đất. Vào ngày 16/4/2001 bà Lê Thị T3 đứng ra bán thửa đất này cho ông Lê Văn
Đ có vị trí từ lộ ra mé sông với giá tiền 3.500.000đồng (do trước đó bà T3 đã
mượn tiền của ông Đ, có biên nhận tiền ngày 5/4/2001, có chữ ký người làm chứng
là ông Nguyễn M Đạt). Một thời gian sau bà T3 giới thiệu cho bà Nguyễn Nhị N
(vợ ông Đ) sang nhượng lại cho bà H3 phần đất ông Đ mua của bà T3 (với giá
tiền 3.500.000 đồng) có làm giấy bán đất lập ngày 8/12/2001, có chữ ký bà N, bà
H3 và người làm chứng ông Nguyễn M Đạt. Phần đất chuyển nhượng có tứ cận
từ lộ ra mé sông, Đông giáp Phạm Thị B, Tây giáp Nguyễn Văn T4, Nam giáp lộ,
Bắc giáp sông. Bà H3 và ông T2 đã nhận đất trực tiếp sử dụng từ đó đến nay. Do
phần đất này chưa đủ điều kiện để được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất
nên ông T2, bà H3 chưa được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất theo quy
định, vì đất này phần lớn diện tích là do ông T2, bà H3 lấn chiếm sông rạch để
bồi đắp thêm mới được hiện trạng như bây giờ. Khi bà H3, ông T2 mua đất thì đất
này còn là một bờ đất rất nhỏ, chiều ngang khoảng 01 mét, còn lại là đất bãi bồi
thuộc rạch công cộng; quá trình sử dụng bị đơn đã bỏ ra chi phí để lấn chiếm đất
rạch bồi đắp thêm. Trong thời gian ông T2, bà H3 sử dụng, cải tạo, bồi đắp phần
đất này thì ông K, bà T3 đều còn sống và không có tranh chấp gì đối với phần đất
này.
Nay ông T2, bà H3 không đồng ý trả lại cho các nguY đơn phần đất thuộc
thửa 370, tờ bản đồ số 10, diện tích 337m
2
, tọa lạc ấp VC, xã VT, huyện C, tỉnh
Bến Tre hiện do cho ông T2, bà H3 quản lý sử dụng.
Tại đơn yêu cầu phản tố đề ngày 17/9/2024, bị đơn là ông Nguyễn Khắc T2
5
và bà Nguyễn Thị Thu H3 yêu cầu: Công nhận phần đất có diện tích 75m
2
thuộc
thửa 370, tờ bản đồ số 10, tọa lạc ấp VC, xã VT, huyện C, tỉnh Bến Tre là thuộc
quyền sử dụng của ông T2, bà H3, còn phần diện tích còn lại là đất sông rạch của
nhà nước nên bị đơn không yêu cầu.
Người đại diện theo ủy quyền của bị đơn thống nhất với giá trị quyền sử
dụng đất do Hội đồng định giá xác định tại biên bản định giá tài sản của Hội đồng
định giá tài sản huyện C, tỉnh Bến Tre, không yêu cầu định giá lại; thống nhất xác
định giá trị công sức tôn tạo, bồi đắp đất tranh chấp bằng với giá trị quyền sử dụng
đất.
Tại văn bản trnh bày ý kiến ngày 05/6/2024, người có quyền lợi, nghĩa vụ
liên quan ông Lê Văn Đ và bà Nguyễn Thị N trình bày:
Vào ngày 16/4/2001 bà Lê Thị T3 đứng ra bán cho ông Lê Văn Đ một phần
đất bãi bồi, từ mí lộ trở ra rạch có chiều rộng khoảng 01mét, không xác định diện
tích, giá tiền 3.500.000 đồng. Do bà T3 đã mượn tiền của ông Đ trước đó, có biên
nhận tiền ngày 5/4/2001, có chữ ký người làm chứng là ông Nguyễn M Đạt. Một
thời gian sau bà T3 giới thiệu cho bà Nguyễn Nhị N (vợ ông Đ) sang nhượng lại
cho bà H3 phần đất ông Đ mua của bà T3 (với giá tiền 3.500.000 đồng), có làm
giấy bán đất lập ngày 8/12/2001 có chữ ký bà N, bà H3 và người làm chứng ông
Nguyễn M Đạt. Phần đất chuyển nhượng có tứ cận từ lộ ra mé sông, Đông giáp
Phạm Thị B, Tây giáp Nguyễn Văn T, Nam giáp lộ, Bắc giáp sông. Bà H3, ông
T2 đã nhận đất trực tiếp sử dụng từ đó đến nay. Sau khi ông Đ mua đất của bà T3
thì chưa vào sử dụng vì là đất bãi bồi, do bà T3 nợ tiền nên ông Đ mới mua đất
nhưng chưa có điều kiện cải tạo nên đã bán lại cho bà H3, bà H3 sử dụng ổn định
cho đến nay. Giữa ông Đ và bà T3, ông K cũng như bà H3, ông T2 đều không có
tranh chấp gì đối với phần đất này.
Bà N xác định chữ ký trong giấy bán đất đề ngày 08/12/2001 là chữ ký của
bà N, bà Nguyễn Thị Thu H3 cùng với ông Nguyễn M Đạt.
Tại công văn số 617/UBND ngày 11/9/2024, Ủy ban nhân dân xã VT trình
bày:
Theo biên bản xác M ranh giới thửa đất được đo vẽ vào năm 2001 với tỷ lệ
1/2000 và bản trích lục sơ đồ vị trí thửa đất năm 2001. Phần còn lại của thửa 2050,
tờ bản đồ số 2, tiếp giáp sông, rạch. Theo đó, cạnh giáp đường giao thông có kích
thước khoảng 25m; cạnh còn lại từ đường giao thông về hướng bắc có kích thước
khoảng 3m. Như vậy, phần còn lại của thửa 2050, tờ bản đồ số 2 tiếp giáp sông,
rạch có diện tích khoảng 75m
2
(theo biên bản xác định ranh giới thửa đất được đo
vẽ năm 2001, với tỷ lệ 1/2000).
Tại Bản án dân sự sơ thẩm số 289/2024/DS-ST ngày 23/9/2024 của Tòa án
nhân dân huyện C, tỉnh Bến Tre đã quyết định:
6
1. Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của các nguY đơn ông Nguyễn Văn
N, ông Nguyễn Văn T, ông Nguyễn Văn H, bà Nguyễn Thị H1, bà Nguyễn Thị S,
bà Nguyễn Thị H2, ông Nguyễn Văn L, bà Nguyễn Thị T1 và ông Nguyễn Văn
N đối với bị đơn là ông Nguyễn Khắc T2, bà Nguyễn Thị Thu H3 về việc yêu cầu
bị đơn trả lại phần đất tranh chấp có diện tích 75m
2
, thuộc thửa 370 tách, tờ bản
đồ số 10, tọa lạc ấp VC, xã VT, huyện C, tỉnh Bến Tre.
2. Đình chỉ một phần yêu cầu của các nguY đơn đối với phần đất sông rạch
(đất công cộng) có diện tích 262m
2
, thuộc thửa 370 còn lại, tờ bản đồ số 10 do
UBND xã VT quản lý.
3. Chấp nhận yêu cầu phản tố của bị đơn:
Ông Nguyễn Khắc T2, bà Nguyễn Thị Thu H3 được sử dụng phần đất có
diện tích 75m
2
, thuộc thửa 370 tách, tờ bản đồ số 10, tọa lạc ấp VC, xã VT, huyện
C, tỉnh Bến Tre có tứ cận:
Đông giáp rạch;
Tây giáp Trương Công An;
Nam giáp đường;
Bắc giáp thửa 370 còn lại. (Có họa đồ kèm theo).
Lý do tách thửa: do đây là phần diện tích đất còn lại của thửa 2050 và phần
đất này ông K, bà T3 đã bán cho ông T2, bà H3. Hơn nữa, phần đất này trước đây
là đất liền kề sau khi làm lộ mới tách phần đất này ra làm hai phần vì vậy nếu
không tách thửa sẽ không giải quyết được toàn vẹn vụ án.
Các đương sự có nghĩa vụ liên hệ với cơ quan có thẩm quyền để đăng ký,
kê khai và cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất theo quy định của pháp luật.
Ngoài ra, bản án còn tuY về chi phí tố tụng, án phí dân sự sơ thẩm và quyền
kháng cáo của các đương sự.
Ngày 24/9/2024, các nguY đơn ông Nguyễn Văn N, ông Nguyễn Văn T,
ông Nguyễn Văn H, bà Nguyễn Thị H1, bà Nguyễn Thị S, bà Nguyễn Thị H2,
ông Nguyễn Văn L, bà Nguyễn Thị T1, ông Nguyễn Văn N kháng cáo toàn bộ
bản án sơ thẩm.
Tại phiên tòa phúc thẩm,
Người đại diện theo uỷ quyền của các nguY đơn là ông Phạm Văn Y vẫn
giữ nguY yêu cầu khởi kiện và nội dung kháng cáo, yêu cầu Toà án cấp phúc thẩm
sửa bản án sơ thẩm theo hướng chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của các nguY
đơn, trường hợp không sửa bản án sơ thẩm thì đề nghị hủy bản án sơ thẩm để xét
xử lại.
Người đại diện theo uỷ quyền của bị đơn là ông Lưu Hồng P không đồng ý
với nội dung đơn kháng cáo của các nguY đơn.
7
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bến Tre phát biểu:
Về tố tụng: những người tiến hành tố tụng đã tuân theo đúng các quy định
của Bộ luật Tố tụng dân sự; những người tham gia tố tụng đã thực hiện quyền và
nghĩa vụ tố tụng của họ theo quy định của pháp luật.
Về nội dung: đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ khoản 2 Điều 308 Bộ luật Tố
tụng dân sự, chấp nhận kháng cáo của nguY đơn, sửa bản án sơ thẩm theo hướng
chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguY đơn, buộc bị đơn trả cho nguY đơn phần
đất tranh chấp có diện tích 75m
2
, thuộc thửa 370 tách, tờ bản đồ số 10, tọa lạc ấp
VC, xã VT, huyện C, tỉnh Bến Tre nhưng trả giá trị bằng tiền.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Sau khi nghiên cứu các tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ vụ án được thẩm
tra tại phiên tòa; căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên toà; xét kháng cáo của
các nguY đơn và đề nghị của Đại diện Viện kiểm sát tham gia phiên toà; Hội đồng
xét xử nhận định:
[1] Về tố tụng:
- Các nguY đơn ông Nguyễn Văn N, ông Nguyễn Văn T, ông Nguyễn Văn
H, bà Nguyễn Thị H1, bà Nguyễn Thị S, bà Nguyễn Thị H2, ông Nguyễn Văn L,
bà Nguyễn Thị T1, ông Nguyễn Văn N kháng cáo và thực hiện các thủ tục kháng
cáo hợp lệ nên được xem xét giải quyết theo trình tự phúc thẩm.
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông Đ, bà N và Ủy ban nhân dân
xã VT, huyện C có đơn yêu cầu giải quyết vắng mặt nên căn cứ Điều 296 Bộ luật
Tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt ông Đ, bà N và Ủy
ban nhân dân xã VT.
[2] Về nội dung:
Các nguY đơn kháng cáo yêu cầu Tòa án giải quyết buộc bà Nguyễn Thị
Thu H3 và ông Nguyễn Khắc T2 trả lại cho ông N, ông T, ông H, bà H1, bà S, bà
H2, ông L, bà T1, ông N phần đất có diện tích 337m
2
thuộc thửa đất số 370 (thửa
cũ là 2050), tờ bản đồ số 10, tọa lạc ấp VC, xã VT, huyện C, tỉnh Bến Tre.
Xét kháng cáo của các nguY đơn nhận thấy:
[2.1] Về nguồn gốc đất: Các bên đương sự thống nhất xác định phần đất đang
tranh chấp có nguồn gốc của ông Nguyễn Văn K và bà Lê Thị T3. Theo nguY
đơn trình bày thì phần đất này do bị đơn tự ý lấn chiếm vào năm 2009. Ngược lại
bị đơn cho rằng phần đất này bà Lê Thị T3 bán cho ông Lê Văn Đ vào ngày
16/4/2001. Sau đó bà T3 giới thiệu cho bà Nguyễn Nhị N (vợ ông Đ) sang nhượng
lại cho bà H3, có làm giấy bán đất lập ngày 8/12/2001, có thể hiện tứ cận nhưng
không rõ diện tích.
8
[2.2] Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã thể hiện: ngày
16/4/2001 bà Lê Thị T3 có làm giấy tay bán cho ông Lê Văn Đ một phần đất, tiếp
đó đến ngày 8/12/2001 bà Nguyễn Nhị N (vợ ông Đ) có làm giấy tay bán cho bà
Nguyễn Thị Thu H3 phần đất có tứ cận từ lộ ra mé sông, Đông giáp Phạm Thị
Bảy, Tây giáp Nguyễn Văn Thạch, Nam giáp lộ, Bắc giáp sông - vị trí của phần
đất này phù hợp với vị trí của phần đất tranh chấp. Các đương sự cũng thống nhất
xác định phần đất còn lại của thửa 2050 (sau khi chuyển nhượng cho ông T2, bà
H3 3.188m
2
) không rõ là bao nhiêu và cùng xác định trong quá trình quản lý sử
dụng phía ông T2, bà H3 đã lấn chiếm rạch công cộng để bồi đắp thêm.
[2.3] Kết quả xác M tại địa phương cũng cho thấy phần đất còn lại của thửa
2050 chỉ là một phần nhỏ, chủ yếu là đất bãi bồi thuộc rạch công cộng. Ngoài ra,
căn cứ vào hồ sơ quy trình xét cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho ông K
đối với thửa đất 2050 cho thấy: phần diện tích đất sau khi bán cho ông T2, bà H3
có biến động nên thửa đất 2050 còn lại là 62m
2
, phát sinh thành hai phần, một
phần thuộc thửa đất số 8, tờ bản đồ số 15 đã cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng
đất cho bà Nguyễn Thị S là 219m
2
và phần đang tranh chấp. Do vậy, việc nguY
đơn cho rằng toàn bộ phần đất tranh chấp (337m
2
) là thuộc quyền sử dụng của
ông K, bà T3 là không có căn cứ.
[2.4] Bên cạnh đó, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan là ông Lê Văn
Đ và bà Nguyễn Thị N xác định rằng có mua của bà Lê Thị T3 một phần đất bãi
bồi giáp rạch, sau đó chuyển nhượng lại cho bà Nguyễn Thị Thu H3 và phía bà
H3, ông T2 đã quản lý sử dụng ổn định từ năm 2001 cho đến nay. Mặc dù, nguY
đơn cho rằng bà H3, ông T2 lấn chiếm đất từ năm 2009 nhưng không có chứng
cứ chứng M. Tuy nhiên, ông Đ, bà N lại xác định thời gian sử dụng đất của bà
H3, ông T2 là từ năm 2001 và vào thời điểm này (năm 2001) thì cả bà T3 và ông
K đều còn sống, nhưng ông bà không tranh chấp gì đối với phần đất này. Điều đó
chứng tỏ, ông T2, bà H3 có nhận chuyển nhượng, quản lý và sử dụng đất tranh
chấp.
[2.5] Mặc khác, tại văn bản trả lời số 617/UBND ngày 11/9/2024 của Ủy ban
nhân dân xã VT, huyện C đã xác định “Theo biên bản xác M ranh giới thửa đất
được đo vẽ vào năm 2001 với tỷ lệ 1/2000 và bản trích lục sơ đồ vị trí thửa đất
được năm 2001. Phần còn lại của thửa 2050, tờ bản đồ số 2, tiếp giáp sông, rạch.
Theo đó, cạnh giáp Đ giao thông có kích thước khoảng 25m; cạnh còn lại từ Đ
giao thông về hướng bắc có kích thước khoảng 3m. Như vậy, phần còn lại của
thửa 2050, tờ bản đồ số 2 tiếp giáp sông, rạch có diện tích khoảng 75m
2
(theo
biên bản xác định ranh giới thửa đất được đo vẽ năm 2001, với tỷ lệ 1/2000)”.
Như vậy, phần diện tích tranh chấp là 337m
2
, nguY đơn yêu cầu bị đơn trả lại toàn
bộ nhưng thực chất diện tích còn lại của thửa 2050, tờ bản đồ số 2 tiếp giáp sông,

9
rạch có diện tích khoảng 75m
2
được cấp chủ quyền cho đương sự, phần còn lại do
Nhà nước quản lý, căn cứ Điều 163 Luật Đất đai cho thấy đối với phần diện tích
đất do Nhà nước quản lý thì cá nhân không có quyền khởi kiện tranh chấp đối với
diện tích này, vì vậy, Toà án cấp sơ thẩm chỉ xem xét giải quyết tranh chấp đối
với diện tích 75m
2
là phù hợp. Việc nguY đơn vẫn cương quyết yêu cầu bị đơn
trả lại 337m
2
là không phù hợp nên Toà án cấp sơ thẩm đình chỉ đối với phần diện
tích đất sông rạch do nhà nước quản lý vì không thuộc thẩm quyền của Tòa án là
đúng.
[2.6] Đối với diện tích 75m
2
, phía nguY đơn cho rằng năm 2009 khi bà T3
chết, thì ông T2, bà H3 tự ý lấn chiếm phần đất còn lại của ông K, bà T3 phía
ngoài bờ sông sử dụng cho đến nay nhưng lại không có chứng cứ chứng M. Còn
bị đơn đã cung cấp biên nhận ngày 05/4/2001, Giấy bán đất ngày 18/4/2001, Giấy
bán đất ngày 08/12/2001 để chứng M vào năm 2001, bà Thu H3 đã mua lại diện
tích đất tranh chấp này, đều này cũng phù hợp với lời trình bày của ông Lê Văn
Đ và bà Nguyễn Thị N xác định rằng có mua của bà Lê Thị T3 một phần đất bãi
bồi giáp rạch, sau đó chuyển nhượng lại cho bà Nguyễn Thị Thu H3 và phía bà
H3, ông T2 đã quản lý sử dụng ổn định từ năm 2001 cho đến nay. Mặt khác, theo
Giấy xác nhận sự việc của bà Nguyễn Thị Ngọc, bà Phạm Thị Ngọc Dung, bà
Nguyễn Thị Ngữ là những chủ đất ở liên ranh với nhau nên biết rõ vị trí đất đang
tranh chấp trước đây và đều xác nhận khoảng năm 2002 phần đất tranh chấp (từ
lộ ra sông rạch)….bà Nguyễn Thị Thu H3 và ông Nguyễn Khắc T2 đốn những
cây xoài và cây bàng do ông K và bà T3 trồng, sau đó đắp bờ kè và bơm cát lên
như hiện trạng ngày nay. Như vậy, vào thời điểm này thì cả bà T3 và ông K đều
còn sống, nhưng không có ai tranh chấp gì đối với phần đất này. Do đó, có cơ sở
xác định quá trình nhận chuyển nhượng, quản lý và sử dụng đất tranh chấp theo
như bà H3 và ông T2 trình bày là có căn cứ. Toà án cấp sơ thẩm không chấp nhận
yêu cầu khởi kiện của nguY đơn và chấp nhận yêu cầu phản tố của bị đơn là có
cơ sở. Phần đất tranh chấp có diện tích 75m
2
thuộc thửa 370 tách, tờ bản đồ số 10,
tọa lạc ấp VC, xã VT, huyện C, tỉnh Bến Tre là phần diện tích đất còn lại của thửa
2050 và phần đất này ông K, bà T3 đã bán cho ông T2, bà H3. Phần đất này trước
đây là đất liền kề sau khi làm lộ mới tách phần đất này ra làm hai phần. Toà án
cấp sơ thẩm công nhận cho bị đơn phần đất này là phù hợp.
Từ những phân tích trên, xét thấy các nguY đơn kháng cáo nhưng không
cung cấp được chứng cứ mới có giá trị chứng M nên Hội đồng xét xử không chấp
nhận kháng cáo của các nguY đơn, giữ nguY bản án sơ thẩm.
[3] Quan điểm của đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bến Tre là không
phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên không được chấp nhận.

10
[4] Về án phí dân sự phúc thẩm: Do kháng cáo không được chấp nhận nên
các nguY đơn phải chịu án phí phúc thẩm theo quy định. Riêng ông Nguyễn Văn
N do là người cao tuổi nên được miễn toàn bộ án phí.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ khoản 1 Điều 308 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.
Không chấp nhận kháng cáo của các nguY đơn ông Nguyễn Văn N, ông
Nguyễn Văn T, ông Nguyễn Văn H, bà Nguyễn Thị H1, bà Nguyễn Thị S, bà
Nguyễn Thị H2, ông Nguyễn Văn L, bà Nguyễn Thị T1, ông Nguyễn Văn N. Giữ
nguY Bản án dân sự sơ thẩm số 289/2024/DS-ST ngày 23/9/2024 của Tòa án nhân
dân huyện C, tỉnh Bến Tre.
Áp dụng Điều 163, 203 của Luật Đất đai 2013; khoản 2 Điều 256 Luật đất
đai 2024; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban
Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử
dụng án phí và lệ phí Tòa án.
TuY xử:
1. Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của các nguY đơn ông Nguyễn Văn
N, ông Nguyễn Văn T, ông Nguyễn Văn H, bà Nguyễn Thị H1, bà Nguyễn Thị S,
bà Nguyễn Thị H2, ông Nguyễn Văn L, bà Nguyễn Thị T1 và ông Nguyễn Văn
N đối với bị đơn là ông Nguyễn Khắc T2, bà Nguyễn Thị Thu H3 về việc yêu cầu
bị đơn trả lại phần đất tranh chấp có diện tích 75m
2
, thuộc thửa 370 tách, tờ bản
đồ số 10, tọa lạc ấp VC, xã VT, huyện C, tỉnh Bến Tre.
2. Đình chỉ một phần yêu cầu khởi kiện của các nguY đơn đối với phần đất
sông rạch (đất công cộng) có diện tích 262m
2
, thuộc thửa 370 còn lại, tờ bản đồ
số 10, tọa lạc ấp VC, xã VT, huyện C, tỉnh Bến Tre do Uỷ ban nhân dân xã VT
quản lý.
3. Chấp nhận yêu cầu phản tố của bị đơn ông Nguyễn Khắc T2, bà Nguyễn
Thị Thu H3:
Ông Nguyễn Khắc T2, bà Nguyễn Thị Thu H3 được sử dụng phần đất có
diện tích 75m
2
, thuộc thửa 370 tách, tờ bản đồ số 10, tọa lạc ấp VC, xã VT, huyện
C, tỉnh Bến Tre, có tứ cận:
Đông giáp rạch;
Tây giáp Trương Công An;
Nam giáp đường;
Bắc giáp thửa 370 còn lại.
11
(Có họa đồ kèm theo).
Các đương sự có nghĩa vụ liên hệ với cơ quan có thẩm quyền để đăng ký,
kê khai và cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất theo quy định của pháp luật.
4. Về chi phí tố tụng: Buộc ông Nguyễn Văn N, ông Nguyễn Văn T, ông
Nguyễn Văn H, bà Nguyễn Thị H1, bà Nguyễn Thị S, bà Nguyễn Thị H2, ông
Nguyễn Văn L, bà Nguyễn Thị T1 và ông Nguyễn Văn N phải chịu toàn chi phí
tố tụng là 10.122.000 (mười triệu, một trăm hai mươi hai nghìn) đồng, các nguY
đơn đã nộp xong.
5. Về án phí dân sự sơ thẩm:
- Buộc ông Nguyễn Văn N, ông Nguyễn Văn T, ông Nguyễn Văn H, bà
Nguyễn Thị H1, bà Nguyễn Thị S, bà Nguyễn Thị H2, ông Nguyễn Văn L, bà
Nguyễn Thị T1 và ông Nguyễn Văn N phải liên đới chịu án phí dân sự sơ thẩm
không có giá ngạch là 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng), nhưng được trừ vào số
tiền tạm ứng án phí dân sự sơ thẩm mà các nguY đơn đã nộp theo biên lai thu tạm
ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0001187, ngày 10/11/2023 của Chi cục Thi hành án
dân sự huyện C.
- Hoàn trả lại cho ông Nguyễn Khắc T2, bà Nguyễn Thị Thu H3 số tiền tạm
ứng án phí dân sự sơ thẩm mà ông bà đã nộp theo biên lai thu số 0003333, ngày
17/9/2024 tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Chợ Lách, tỉnh Bến Tre.
6. Về án phí dân sự phúc thẩm:
- Ông Nguyễn Văn N là người cao tuổi nên được miễn toàn bộ án phí. Chi
cục Thi hành án dân sự huyện Chợ Lách hoàn lại cho ông N số tiền tạm ứng án
phí đã nộp 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng) theo biên lai thu số 0005673 ngày
22/10/2024.
- Ông Nguyễn Văn T, ông Nguyễn Văn H, bà Nguyễn Thị H1, bà Nguyễn
Thị S, bà Nguyễn Thị H2, ông Nguyễn Văn L, bà Nguyễn Thị T1 và ông Nguyễn
Văn N mỗi người phải chịu 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng) án phí phúc thẩm
nhưng được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí mà các ông bà đã nộp theo các
biên lai thu số 0005672, 0005671, 0005670, 0005669, 0005668, 0005667,
0005675, 0005666 cùng ngày 22/10/2024 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện
Chợ Lách.
Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật
Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân
sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành
án, hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và Điều
9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại
Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.
12
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Nơi nhận:
- TAND cấp cao tại TP.HCM;
- VKSND tỉnh Bến Tre;
- TAND huyện C;
- Chi cục THADS huyện C;
- Các đương sự;
- Phòng KTNV&THAHS tỉnh Bến Tre;
- Chánh án TAND tỉnh Bến Tre;
- Lưu hồ sơ vụ án.
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM
THẨM PHÁN – CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
Lê Minh Đạt
Tải về
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án/ Quyết định cùng đối tượng
1
Ban hành: 17/04/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
2
Ban hành: 15/04/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
3
Ban hành: 14/04/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
4
Ban hành: 14/04/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
5
Ban hành: 10/04/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
6
Ban hành: 10/04/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
7
Ban hành: 09/04/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
8
Ban hành: 09/04/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
9
Bản án số 270/2025/DS-PT ngày 09/04/2025 của TAND cấp cao tại TP.HCM về tranh chấp quyền sử dụng đất
Ban hành: 09/04/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
10
Ban hành: 08/04/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
11
Ban hành: 04/04/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
12
Ban hành: 03/04/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
13
Ban hành: 02/04/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
14
Ban hành: 01/04/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
15
Ban hành: 31/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
16
Ban hành: 31/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
17
Ban hành: 31/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
18
Ban hành: 28/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
19
Ban hành: 28/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
20
Ban hành: 28/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm