Bản án số 18/2022/HS-ST ngày 04/04/2022 của TAND huyện Mỹ Xuyên, tỉnh Sóc Trăng về tội trộm cắp tài sản
- Thuộc tính
- Nội dung
- VB gốc
- VB liên quan
- Lược đồ
- Đính chính
- Án lệ
- BA/QĐ cùng tội danh
- Tải về
-
Bản án số 18/2022/HS-ST
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Thuộc tính Bản án 18/2022/HS-ST
Tên Bản án: | Bản án số 18/2022/HS-ST ngày 04/04/2022 của TAND huyện Mỹ Xuyên, tỉnh Sóc Trăng về tội trộm cắp tài sản |
---|---|
Tội danh: | 138.Tội trộm cắp tài sản (Bộ luật hình sự năm 1999) |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Tòa án xét xử: | TAND huyện Mỹ Xuyên (TAND tỉnh Sóc Trăng) |
Số hiệu: | 18/2022/HS-ST |
Loại văn bản: | Bản án |
Ngày ban hành: | 04/04/2022 |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Áp dụng án lệ: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Đính chính: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Thông tin về vụ án: |
Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!
Tải văn bản
TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN MỸ XUYÊN, TỈNH SÓC TRĂNG
BẢN ÁN 18/2022/HS-ST NGÀY 04/04/2022 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN
Trong ngày 04 tháng 4 năm 2022, tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện Mỹ Xuyên, tỉnh Sóc Trăng tiến hành mở phiên tòa xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 10/2022/TLST-HS ngày 08 tháng 3 năm 2022 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 11/2022/QĐXXST-HS ngày 18 tháng 3 năm 2022 đối với:
- Bị cáo: Trương T P; Tên gọi khác: P C;
Sinh ngày: 07 tháng 7 năm 1989; Giới tính: Nam.
Nơi đăng ký thường trú: phường 8, thành phố Sóc Trăng, tỉnh Sóc Trăng; Dân tộc: Hoa; Quốc tịch: Việt Nam; Tôn giáo: không; Nghề nghiệp: không;
Trình độ học vấn: 10/12; Họ và tên cha: Trương V L, sinh năm 1957 (đã chết); Họ và tên mẹ: Nguyễn Thị X M, sinh năm 1960; Anh chị em ruột: có 03 người, lớn nhất sinh năm 1978, nhỏ nhất là bị cáo; Họ và tên vợ: Lưu T T, sinh năm 1989 (đã ly thân, chưa ly hôn tại Toà án); Con: có 01 người sinh năm 2008;
Tiền án: có 02 tiền án về Tội trộm cắp tài sản:
Năm 2019 bị Tòa án nhân dân thành phố Sóc Trăng, tỉnh Sóc Trăng tuyên phạt 01 năm 06 tháng tù về Tội trộm cắp tài sản, sau khi chấp hành xong năm 2020, P tiếp tục phạm Tội trộm cắp tài sản và bị Tòa án nhân dân huyện Trần Đề, tỉnh Sóc Trăng tuyên phạt 01 năm tù, đến ngày 17/7/2021 thì chấp hành xong.
Tiền sự: không.
Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 31/12/2021 sau đó chuyển tạm giam cho đến nay. (Bị cáo có mặt).
- Bị hại: Ông Trương V X, sinh năm 1990 (vắng mặt). Địa chỉ: xã T huyện Mỹ Xuyên, tỉnh Sóc Trăng.
- Người làm chứng:
1. Ông Trương V C, sinh năm 1981 (vắng mặt). Địa chỉ: xã T, huyện Mỹ Xuyên, tỉnh Sóc Trăng.
2. Ông Trần V H, sinh năm 1971 (vắng mặt).
Nơi ĐKTT: xã T, huyện Mỹ Xuyên, tỉnh Sóc Trăng.
Chỗ ở hiện nay: xã T, huyện Mỹ Xuyên, tỉnh Sóc Trăng.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Vào khoảng 12 giờ ngày 31/12/2021, Trương T P được một người bạn tên Phong (chưa rõ nhân thân lai lịch) chở bằng xe mô tô hiệu Wave (không rõ biển số) của Phong đi từ thành phố Sóc Trăng về hướng xã T, huyện Mỹ Xuyên, tỉnh Sóc Trăng để đi đến nhà người quen của Phong ở Nhu Gia xin tiền. Đến khoảng 12 giờ 20 phút cùng ngày, khi đi ngang kho chứa hàng của ông Trương V X (sinh năm 1990) tại địa chỉ: số 430, ấp Khu 1, xã T, huyện Mỹ Xuyên, tỉnh Sóc Trăng thì P nhìn thấy phía trước nhà kho có đậu 01 xe mô tô của ông X hiệu Honda Wave Alpha màu vàng-đen-bạc, biển số 83P2-606.95 không có người trông coi. Lúc này P nảy sinh ý định sẽ lấy trộm xe mô tô này để bán lấy tiền tiêu xài và mua ma túy sử dụng nên P kêu Phong dừng xe lại để P xuống xe và đi lại gần chỗ xe mô tô đang đậu để tìm cách lấy trộm. P quan sát thấy trên xe mô tô vẫn còn đang gắn sẵn chìa khóa nên P lên xe khởi động máy rồi điều khiển xe 83P2-606.95 đi ra đường Quốc lộ 1A hướng về thành phố Sóc Trăng còn Phong thì điều khiển xe chạy theo phía sau. Trong lúc P lấy trộm xe mô tô chạy đi thì ông Trương V X P hiện nên điều khiển xe mô tô truy đuổi theo P, đến khu vực xã T thì ông X đuổi kịp và tông xe vào P làm 02 xe ngã xuống đường. Khi P định bỏ chạy thì bị ông X truy hô và cùng những người dân tại khu vực khống chế bắt giữ P và báo cho lực lượng Công an xã T đến lập biên bản bắt người quả tang. Quá trình điều tra Trương T P đã thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội như đã nêu trên, đối với Phong trong quá trình P bị ông X truy đuổi thì đã bỏ đi mất.
Về vật chứng: quá trình điều tra đã thu giữ khi bắt quả tang là 01 xe mô tô hiệu Honda Wave Alpha màu vàng-đen-bạc biển số 83P2-606.95, sau khi làm rõ đã trả lại cho chủ sở hữu là ông Trương V X.
Tại bản Kết luận định giá tài sản số 01/KL-HĐĐGTS ngày 02/01/2022 của Hội đồng định giá tài sản thường xuyên trong tố tụng hình sự trên địa bàn huyện Mỹ Xuyên, kết luận như sau: 01 xe mô tô hiệu Honda Wave Alpha màu vàng-đen-bạc, biển số 83P2-606.95, có giá trị tại thời điểm bị chiếm đoạt là 6.850.000 đồng.
Tại Cáo trạng số 13/CT-VKSMX ngày 03 tháng 3 năm 2022 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Mỹ Xuyên, đã truy tố đối với bị cáo Trương T P về “Tội trộm cắp tài sản” theo quy định tại điểm g khoản 2 Điều 173 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017.
Tại phiên tòa, bị cáo Trương T P thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội là vào ngày 31/12/2021, Trương T P đã lấy trộm xe mô tô hiệu Honda Wave Alpha màu vàng-đen-bạc, biển số 83P2-606.95 của ông Trương V X, có giá trị là 6.850.000 đồng và bị bắt quả tang.
Bị hại ông Trương V X đã nhận lại tài sản, không yêu cầu bị cáo bồi thường về trách nhiệm dân sự.
Kiểm sát viên đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận cáo trạng số 13/CT-VKSMX ngày 03 tháng 3 năm 2022 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Mỹ Xuyên và đề nghị áp dụng điểm g khoản 2 Điều 173; điểm h, s khoản 1 Điều 51; khoản 1 Điều 38 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017, đề nghị xử phạt bị cáo Trương T P từ 02 năm 06 tháng đến 03 năm tù; Về trách nhiệm dân sự: Bị hại ông Trương V X đã nhận lại được tài sản bị mất trộm, không có yêu cầu nên không đặt ra xem xét; Về vật chứng: Vật chứng đã được xử lý tại giai đoạn điều tra nên không đặt ra xem xét và đề nghị tuyên án phí theo quy định.
Trong phần lời nói sau cùng: Bị cáo xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
Về tố tụng:
[1] Về các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Mỹ Xuyên, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Mỹ Xuyên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo, bị hại không có người nào có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[2] Tại phiên tòa bị hại là ông Trương V X, người làm chứng là ông Trương V C, ông Trần V H vắng mặt. Hội đồng xét xử xét thấy, tại giai đoạn điều tra những người vắng mặt nêu trên đã có lời khai rõ ràng, việc vắng mặt không làm ảnh hưởng đến việc xét xử vụ án, nên Hội đồng xét xử thống nhất căn cứ khoản 1 Điều 292, khoản 1 Điều 293 Bộ luật Tố tụng hình sự xét xử vắng mặt họ.
Về nội dung:
[1] Tại phiên toà, bị cáo Trương T P khai nhận hành vi phạm tội của bị cáo như sau: Vào khoảng 12 giờ ngày 31/12/2021, Trương T P được một người bạn tên Phong chở bằng xe mô tô hiệu Wave của Phong đi từ thành phố Sóc Trăng về hướng xã T, huyện Mỹ Xuyên, tỉnh Sóc Trăng, khi đi ngang kho chứa hàng của ông Trương V X thì P nhìn thấy phía trước nhà kho có đậu 01 xe mô tô của ông X hiệu Honda Wave Alpha màu vàng-đen-bạc, biển số 83P2-606.95 nên P kêu Phong dừng xe lại để P xuống xe và đi lại gần chỗ xe mô tô đang đậu để tìm cách lấy trộm. Trên xe mô tô vẫn còn đang gắn sẵn chìa khóa nên P lên xe khởi động máy rồi điều khiển xe 83P2-606.95 đi ra đường Quốc lộ 1A hướng về thành phố Sóc Trăng thì ông Trương V X P hiện và đuổi theo, đến khu vực ấp Cần Đước, xã T thì ông X đuổi kịp và tông xe vào P làm 02 xe ngã xuống đường, sau đó P bị khống chế bắt giữ.
[2] Tại bản Kết luận định giá tài sản số 01/KL-HĐĐGTS ngày 02/01/2022 của Hội đồng định giá tài sản thường xuyên trong tố tụng hình sự trên địa bàn huyện Mỹ Xuyên, kết luận như sau: 01 xe mô tô hiệu Honda Wave Alpha màu vàng-đen-bạc, biển số 83P2-606.95, có giá trị tại thời điểm bị chiếm đoạt là 6.850.000 đồng.
[3] Xét lời khai của bị cáo tại phiên toà là phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, phù hợp với lời khai của bị hại, của người làm chứng, phù hợp với biên bản khám nghiệm hiện trường và các tài liệu, chứng cứ khác thể hiện trong hồ sơ. Tài sản bị cáo trộm trị giá 6.850.000 đồng. Bản thân bị cáo đã có 02 tiền án cùng về Tội trộm cắp tài sản chưa được xóa án tích, bị cáo đã bị áp dụng tình tiết tái phạm trong bản án trước nhưng vẫn tiếp tục phạm tội nên thuộc trường hợp tái phạm nguy hiểm theo quy định tại điểm g khoản 2 Điều 173 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017. Do đó, Cáo trạng số 03/CT-VKSMX ngày 03 tháng 3 năm 2022 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Mỹ Xuyên, đã truy tố đối với bị cáo Trương T P về tội “Trộm cắp tài sản” theo điểm g khoản 2 Điều 173 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017 là có căn cứ, đúng người, đúng tội và đúng pháp luật, Hội đồng xét xử chấp nhận.
[4] Xét về hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm hại đến quyền sở hữu hợp pháp về tài sản của bị hại một cách trái pháp luật. Ngoài ra, hành vi của bị cáo còn gây mất an toàn trật tự xã hội và gây bất ổn an ninh ở địa phương. Do vậy, cần phải xử lý bị cáo nghiêm trước pháp luật, nhằm để răn đe, giáo dục và góp phần phòng chống tội phạm.
[5] Về tình tiết tăng nặng: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng.
[6] Về tình tiết giảm nhẹ: Xem xét cho bị cáo các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự như sau: Sau khi phạm tôi, bị cáo thể hiện thái độ thành khẩn khai báo, tài sản mất trộm đã được thu hồi trả lại kịp thời cho bị hại nên thuộc trường hợp phạm tội nhưng gây thiệt hại không lớn. Đây là các tình tiết giảm nhẹ đã được quy định tại điểm h, điểm s khoản 1, Điều 51 Bộ luật hình sự 2015, sửa đổi bổ sung 2017 nên cần xem xét áp dụng để giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo trong lúc lượng hình.
[7] Về trách nhiệm dân sự: Bị hại ông Trương V X đã nhận lại được tài sản, không có yêu cầu, nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét.
[8] Về vật chứng: Những vật chứng đã được xử lý tại giai đoạn điều tra là có căn cứ nên không đặt ra xem xét.
[9] Đối với người tên Phong do chưa xác định được nhân thân, lai lịch và chưa có cơ sở xác định vai trò đồng phạm với bị cáo P nên nếu có căn cứ sẽ xử lý sau theo quy định pháp luật.
[10] Lời đề nghị của Kiểm sát viên tại phiên tòa là có căn cứ Hội đồng xét xử chấp nhận.
[11] Về án phí: Bị cáo Trương T P là người bị kết án nên bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm là 200.000 đồng.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ điểm g khoản 2 Điều 173; điểm h, s khoản 1 Điều 51; khoản 1 Điều 38 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017.
Căn cứ khoản 2 Điều 135; khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015;
Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Tuyên bố bị cáo Trương T P phạm “Tội trộm cắp tài sản”. Tuyên xử:
1. Xử phạt bị cáo Trương T P 03 (ba) năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tính từ ngày 31/12/2021.
2. Về trách nhiệm dân sự: Bị hại không yêu cầu, nên Hội đồng xét xử không xem xét.
3. Về vật chứng: Vật chứng đã được xử lý tại giai đoạn điều tra nên Hội đồng xét xử không xem xét.
4. Về án phí hình sự sơ thẩm: Bị cáo Trương T P phải chịu án phí hình sự sơ thẩm là 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng).
5. Về quyền kháng cáo: Bị cáo, bị hại được quyền kháng cáo bản án này trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án (đối với người vắng mặt thì thời hạn kháng cáo được tính kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được tống đạt hợp lệ để yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh Sóc Trăng xét xử theo trình tự phúc thẩm.
6. Về việc thi hành án: Trường hợp Bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, Điều 7, Điều 7a và Điều 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!