Bản án số 172/2024/HNGĐ-ST ngày 03/07/2024 của TAND tỉnh Bắc Giang về vụ án ly hôn do một bên ở nước ngoài
- Thuộc tính
- Nội dung
- VB gốc
- VB liên quan
- Lược đồ
- Đính chính
- Án lệ
- BA/QĐ cùng nội dung
- Tải về
Tải văn bản
-
Bản án số 172/2024/HNGĐ-ST
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
-
Bản án số 172/2024/HNGĐ-ST
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Báo lỗi
Thuộc tính Bản án 172/2024/HNGĐ-ST
Tên Bản án: | Bản án số 172/2024/HNGĐ-ST ngày 03/07/2024 của TAND tỉnh Bắc Giang về vụ án ly hôn do một bên ở nước ngoài |
---|---|
Quan hệ pháp luật: | Vụ án ly hôn do một bên ở nước ngoài |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Tòa án xét xử: | TAND tỉnh Bắc Giang |
Số hiệu: | 172/2024/HNGĐ-ST |
Loại văn bản: | Bản án |
Ngày ban hành: | 03/07/2024 |
Lĩnh vực: | Hôn nhân gia đình |
Áp dụng án lệ: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Đính chính: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Thông tin về vụ/việc: | Ban an HNGD giua chi Lanh Thi N và anh Pham Hong Q |
Tóm tắt Bản án
Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!
Tải văn bản
1
TÒA ÁN NHÂN DÂN
TỈNH BẮC GIANG
Bản án số: 172/2024/HNGĐ-ST
Ngày: 03/7/2024
V/v ly hôn, tranh chấp nuôi con
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH BẮC GIANG
- Thành phần Hội đồng xét xử sơ thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa: Ông Nguyễn Như Hiển.
Các Hội thẩm nhân dân: Ông Ngô Văn Bê
Bà Nguyễn Thị Phú
- Thư ký phiên tòa: Ông Nguyễn Duy Khôi - Thư ký Tòa án nhân dân
tỉnh Bắc Giang.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bắc Giang: Bà Ngô Thị Vân
Anh – Kiểm sát viên.
Ngày 03 tháng 7 năm 2024, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Bắc Giang xét
xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 72/2024/TLST-HNGĐ ngày 03 tháng 4
năm 2024 về việc “Ly hôn, tranh chấp nuôi con chung”.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 86/2024/QĐXX-ST ngày
03/5/2024 và Quyết định hoãn phiên tòa số 82/2024/QĐST-HNGĐ ngày
03/6/2024 giữa các đương sự:
1. Nguyên đơn: Chị Lãnh Thị N, sinh ngày 24/02/1997 (vắng mặt)
Nơi thường trú: thôn M, xã V, huyện S, tỉnh Bắc Giang.
2. Bị đơn: Anh Phạm Hồng Q, sinh ngày 18/11/1987 (vắng mặt)
Nơi thường trú và nơi cư trú cuối cùng tại Việt Nam: thôn C, xã T, huyện
L, tỉnh Bắc Giang.
Hiện đang lao động tại nước ngoài, không rõ địa chỉ.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Theo đơn khởi kiện về việc xin ly hôn và bản tự khai, nguyên đơn chị Lãnh
Thị N trình bày:
Về hôn nhân: chị và anh Q kết hôn trên cơ sở tự nguyện và có đăng ký kết
hôn ngày 25/12/2017 tại Ủy ban nhân dân xã T, huyện L, tỉnh Bắc Giang. Sau
khi kết hôn chị về nhà anh Q làm dâu và chung sống hòa thuận. Thời gian đầu
vợ chồng chung sống hòa thuận nhưng càng về sau càng phát sinh nhiều mâu
thuẫn, đỉnh điểm là tháng 5/2018. Nguyên nhân mâu thuẫn là bất đồng quan
điểm sống và nuôi dạy con. Tháng 10/2018 anh Q đi lao động tại Đài Loan, vợ
2
chồng ly thân từ đó. Tháng 11/2021 chị cùng con chuyển về nhà bố mẹ đẻ sinh
sống tại thôn M, xã V, huyện S, tỉnh Bắc Giang. Trong thời gian mâu thuẫn vợ
chồng nhiều lần nói chuyện với mong muốn cùng tiếp tục chung sống để chăm
sóc con nhưng không được. Khi hai bên gia đình biết chuyện có khuyên bảo vợ
chồng bỏ qua mâu thuẫn về đoàn tụ nhưng chị xác định tình cảm không còn nên
không đoàn tụ được. Nay chị xác định tình cảm vợ chồng không còn nên đề nghị
Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn anh Phạm Hồng Q.
Về con chung: Chị và anh Q có 01 con chung là Phạm Quỳnh C, sinh ngày
06/11/2017, hiện nay cháu đang sinh sống cùng chị. Sau khi ly hôn chị đề nghị
giao cháu C cho chị là người trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng.
Về cấp dưỡng nuôi con chung: Không yêu cầu Tòa án giải quyết.
Về tài sản chung, công nợ: Không yêu cầu Tòa án giải quyết.
Anh Phạm Hồng Q là bị đơn không có mặt tại địa phương, không gửi văn
bản giấy tờ, tài liệu về cho Tòa án nhân dân tỉnh Bắc Giang.
Tại biên bản làm việc ngày 10/4/2024 và 22/4/2024, ông Phạm Hồng T là
bố anh Phạm Hồng Q cho biết.
Về hôn nhân của anh Q, chị N ông cho biết: Anh, chị được tự do tìm hiểu
đi đến hôn nhân, được hai bên gia đình tổ chức lễ cưới, hỏi theo phong tục địa
phương và có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã T, huyện L, tỉnh Bắc
Giang. Sau khi kết hôn chị N về nhà ông làm dâu và chung sống hòa thuận.
Chung sống hòa thuận đến năm 2018 thì anh, chị phát sinh mâu thuẫn. Nguyên
nhân mâu thuẫn là do bất đồng quan điểm sống. Cuối năm 2018 anh Q đi lao
động tại Đài Loan. Sau khi anh Q đi lao động khoảng 01 tháng chị N cùng con
chuyển về nhà bố mẹ đẻ sinh sống từ đó đến nay. Hai bên gia đình có khuyên
bảo anh, chị bỏ qua mâu thuẫn về ở với nhau để cùng chăm sóc con nhưng
không được.
Về con chung: anh Q, chị N có 01 con chung là cháu Phạm Quỳnh C, sinh
ngày 06/11/2017, hiện nay cháu C đang sinh sống cùng chị N.
Ngoài ra ông cho biết: Trước khi đi lao động tại Đài Loan anh Q sinh sống
cùng gia đình tại thôn C, xã T, huyện L, tỉnh Bắc Giang. Sau khi sang Đài Loan
anh Q vẫn thường xuyên liên lạc về gia đình. Gia đình đã thông báo cho anh Q
biết về việc Tòa án nhân dân tỉnh Bắc Giang đang thụ lý giải quyết vụ án “Ly
hôn, tranh chấp nuôi con” giữa chị N và anh Q nhưng anh Q không có ý kiến gì.
Tại phiên tòa, chị Lãnh Thị N vắng mặt và có đơn đề nghị xét xử vắng mặt, anh
Phạm Hồng Q đã được Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ 02 nhưng vẫn vắng mặt.
Hội đồng xét xử tóm tắt nội dung vụ án, công bố đơn khởi kiện, bản tự khai
của chị Lãnh Thị N; Biên bản làm việc với ông Phạm Hồng T là bố của anh
Phạm Hồng Q và thông qua các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bắc Giang phát biểu về việc tuân
theo pháp luật về tố tụng của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, thư ký Tòa án đã
3
tuân thủ đúng các quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự kể từ khi thụ lý vụ án
đến trước thời điểm Hội đồng xét xử vào nghị án.
Về việc chấp hành pháp luật của đương sự: Nguyên đơn có đơn xin xét xử
vắng mặt thực hiện đúng quyền và nghĩa vụ tố tụng của mình được quy định
trong Bộ luật tố tụng dân sự, bị đơn không có địa chỉ cụ thể ở nước ngoài, Tòa
án đã niêm yết đầy đủ các văn bản tố tụng đối với bị đơn. Căn cứ các quy định
của pháp luật, Hội đồng xét xử, xét xử vắng mặt nguyên đơn, bị đơn là đúng
theo quy định của pháp luật.
Về nội dung: Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng các Điều 51, 53, 56, 81, 82,
83, khoản 2 Điều 123 và Điều 127 Luật hôn nhân và gia đình; khoản 1 điều 28,
khoản 3 Điều 35, điểm c khoản 1 Điều 37, khoản 4 Điều 147, Điều 227, Điều
228, Điều 238, Điều 271; Điều 273, khoản 2 Điều 479 Bộ luật tố tụng dân sự;
điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTBVQH14 ngày 30/12/2016
Nghị quyết của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định mức thu, miễn, giảm, thu,
nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của
chị Lãnh Thị N; xử:
Về hôn nhân: chị Lãnh Thị N được ly hôn anh Phạm Hồng Q.
Về con chung: Do anh Q hiện đang lao động tại nước ngoài nên đề nghị
Hội đồng xét xử giao cháu Phạm Quỳnh C cho chị Lãnh Thị N là người trực tiếp
chăm sóc, nuôi dưỡng cho đến khi đủ 18 tuổi hoặc đến khi có sự thay đổi khác
theo quy định của pháp luật. Anh Q không phải cấp dưỡng nuôi con chung.
Chị N phải chịu 300.000 đồng án phí ly hôn sơ thẩm.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được công bố tại phiên
toà, ý kiến của đại diện Viện kiểm sát. Hội đồng xét xử nhận định:
[1]. Về quan hệ tranh chấp: Chị N khởi kiện xin ly hôn anh Q và yêu cầu
giải quyết nuôi con chung. Vì vậy, đây là vụ án “ly hôn, tranh chấp về nuôi con”
theo khoản 1 Điều 28 của Bộ luật Tố tụng dân sự.
[2]. Về thẩm quyền giải quyết vụ án: Tại Công văn số 8991/QLXNC-P3
ngày 03/5/2024 của Cục Quản lý xuất nhập cảnh - Bộ công an cung cấp, anh Q
xuất cảnh gần nhất ngày 16/10/2018, hiện chưa có thông tin nhập cảnh về nước.
Do đó, anh Q được xác định là đang ở nước ngoài. Mặt khác, anh Q là bị đơn có
hộ khẩu thường trú tại tỉnh Bắc Giang. Vì vậy, đây là vụ án có một bên đương
sự ở nước ngoài nên thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân tỉnh Bắc
Giang theo quy định tại khoản 1 Điều 28, khoản 3 Điều 35, điểm c khoản 1 Điều 37
của Bộ luật Tố tụng dân sự.
[3]. Về sự vắng mặt đương sự:
[3.1] Về sự vắng mặt của nguyên đơn: Nguyên đơn có đơn xin xét xử vắng
mặt nên Hội đồng xét xử căn cứ khoản 1 Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự xét
xử vắng mặt nguyên đơn.
4
[3.2] Về sự vắng mặt của bị đơn: Căn cứ lời khai của nguyên đơn và ông
Phạm Hồng T (bố anh Q) Tòa án xác định được nơi cư trú cuối cùng trước khi
xuất cảnh của anh Q ở Việt Nam là: thôn C, xã T, huyện L, tỉnh Bắc Giang. Tòa
án đã tiến hành giao thông báo thụ lý vụ án cho anh Q thông qua gia đình và đề
nghị gia đình thông báo cho anh Q biết việc Tòa án nhân dân tỉnh Bắc Giang
đang thụ lý giải quyết vụ án “Ly hôn, tranh chấp nuôi con” giữa chị Lãnh Thị N
và anh Phạm Hồng Q. Gia đình anh Q cho biết anh Q vẫn thường xuyên liên lạc
về gia đình, nhưng anh Q không cung cấp cho gia đình, Tòa án địa chỉ cụ thể
của anh Q tại Đài Loan. Nhận thấy, đây là trường hợp bị đơn cố tình giấu địa
chỉ, từ chối khai báo, từ chối cung cấp những tài liệu cần thiết. Do đó, Tòa án đã
tiến hành niêm yết các văn bản tố tụng cần tống đạt cho bị đơn và xử vắng mặt
bị đơn theo Điều 10 Nghị quyết 01/2024/NQ-HĐTP ngày 16/5/2024 của Hội
đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao và khoản 2 Điều 227 của Bộ luật tố
tụng dân sự.
[4]. Về hôn nhân: Chị Lãnh Thị N và anh Phạm Hồng Q kết hôn trên cơ sở
hoàn toàn tự nguyện và có đăng ký kết hôn ngày 25/12/2017 tại Ủy ban nhân
dân xã T, huyện L, tỉnh Bắc Giang. Do đó, đây là hôn nhân hợp pháp cần được
pháp luật bảo vệ. Quá trình chung sống phát sinh mâu thuẫn, chị N xác định tình
cảm vợ chồng không còn, nên chị đề nghị Tòa án xử cho chị được ly hôn anh
Phạm Hồng Q.
Xét yêu cầu khởi kiện xin ly hôn của chị N với anh Q, Hội đồng xét xử
thấy: Sau khi kết hôn chị N và anh Q chung sống hòa thuận đến đầu tháng
5/2018 thì phát sinh mâu thuẫn. Tháng 10/2018 anh Q đi lao động tại nước
ngoài, sau khi anh Q đi lao động một thời gian chị N cùng con chuyển về nhà bố
mẹ đẻ sinh sống. Kể từ đó vợ chồng sống ly thân nhau, ai có cuộc sống riêng
của người đó, không còn quan tâm đến nhau. Do đó, Hội đồng xét xử xác định
anh Q, chị N không còn yêu thương, quan tâm, chăm sóc, giúp đỡ nhau làm cho
hôn nhân lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục
đích của hôn nhân không đạt được. Vì vậy, Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu
xin ly hôn của chị N với anh Q là phù hợp với tình trạng hôn nhân thực tế, phù
hợp Điều 51, Điều 53 và Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình cũng như đề nghị
của Kiểm sát viên tại phiên tòa.
[5]. Về nuôi con chung: Chị N và anh Q có 01 con chung là cháu Phạm
Quỳnh C, sinh ngày 06/11/2017. Hiện nay cháu đang sinh sống cùng chị N. Sau
khi ly hôn chị N đề nghị giao con chung cho chị N là người trực tiếp chăm sóc,
nuôi dưỡng.
Xét yêu cầu giao con chung cho chị N là người trực tiếp chăm sóc, nuôi
dưỡng sau ly hôn, Hội đồng xét xử thấy: anh Q hiện nay đang lao động tại nước
ngoài nên không đảm bảo việc nuôi dưỡng, chăm sóc con chung. Mặt khác, cháu
C hiện đang sinh sống cùng chị N, cháu phát triển bình thường cả về thể chất lẫn
tinh thần. Vì vậy, việc giao cháu C cho chị N trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng sau
5
ly hôn sẽ đảm bảo hơn giao cho anh Q chăm sóc, nuôi dưỡng. Do đó, Hội đồng
xét xử chấp nhận yêu cầu giao cháu C cho chị N trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng
sau ly hôn là phù hợp với tình hình thực tế, phù hợp Điều 81, 82, 83 Luật hôn
nhân và gia đình cũng như đề nghị của Kiểm sát viên tại phiên tòa.
Sau khi ly hôn anh Phạm Hồng Q có quyền thăm nom con chung, không ai
được cản trở.
Trường hợp anh Phạm Hồng Q có nguyện vọng thay đổi người trực tiếp
nuôi con chung hoặc vì quyền lợi chính đáng của con chung, các đương sự có
quyền khởi kiện yêu cầu thay đổi người trực tiếp nuôi con sau ly hôn bằng vụ án
khác theo quy định tại Điều 84 Luật hôn nhân gia đình.
[6]. Về cấp dưỡng nuôi con chung: Do chị N không yêu cầu nên Hội đồng
xét xử không xem xét, giải quyết.
[7]. Về tài sản, công nợ: Do chị N không yêu cầu nên Hội đồng xét xử
không xem xét, giải quyết.
[8]. Về án phí: Theo quy định tại khoản 4 Điều 147 của Bộ Luật Tố tụng
dân sự; và điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày
30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định mức thu, miễn, giảm, thu,
nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Toà án. Chị Lãnh Thị N phải chịu 300.000
đồng án phí Hôn nhân gia đình sơ thẩm nhưng được khấu trừ vào số tiền
300.000 đồng đã nộp tạm ứng án phí tại Cục Thi hành án dân sự tỉnh Bắc Giang.
[9]. Về quyền kháng cáo:
[9.1] Theo Điều 271, khoản 2 Điều 479 Bộ luật tố tụng dân sự, anh Q đang lao
động tại nước ngoài không có mặt tại phiên tòa thì thời hạn kháng cáo bản án của Tòa
án là 01 tháng, kể từ ngày bản án được tống đạt hợp lệ hoặc kể từ ngày bản án được
niêm yết hợp lệ theo quy định của pháp luật.
[9.2] Theo Điều 271; khoản 1 Điều 273 Bộ luật tố tụng dân sự, chị N vắng
mặt tại phiên tòa nhưng có mặt tại Việt Nam thì thời hạn kháng cáo bản án của Tòa
án là 15 ngày, kể từ ngày bản án được tống đạt hợp lệ hoặc kể từ ngày bản án được
niêm yết hợp lệ theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ vào khoản 1 Điều 51, khoản 1 Điều 53, khoản 1 Điều 56, Điều 81,
Điều 82, Điều 83, khoản 2 Điều 123, Điều 127 Luật Hôn nhân và gia đình;
khoản 1 Điều 28, khoản 3 Điều 35, điểm c khoản 1 Điều 37, khoản 4 Điều 147,
Điều 227, Điều 228, Điều 238, Điều 271, Điều 273, khoản 2 Điều 479 Bộ Luật
Tố tụng dân sự; điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14
ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định mức thu, miễn,
giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Toà án; xử:
1. Về hôn nhân: Chị Lãnh Thị N được ly hôn anh Phạm Hồng Q.
6
2. Về con chung: Giao cháu Phạm Quỳnh C, sinh ngày 06/11/2017 cho chị
Lãnh Thị N là người trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng cho đến khi đủ 18 tuổi hoặc
đến khi có sự thay đổi khác theo quy định của pháp luật.
Sau khi ly hôn, anh Phạm Hồng Q không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ
thăm nom con mà không ai được cản trở.
3. Về án phí: Chị Lãnh Thị N phải chịu 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) án
phí sơ thẩm, nhưng được trừ vào số tiền 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) tạm
ứng án phí đã nộp theo biên lai số 0001131 ngày 03/4/2024 của Cục Thi hành án
dân sự tỉnh Bắc Giang. Xác nhận chị Lãnh Thị N đã nộp đủ án phí sơ thẩm.
4. Về quyền kháng cáo bản án:
Anh Phạm Hồng Q có quyền kháng cáo trong thời hạn 01 tháng kể từ ngày
bản án được tống đạt hợp lệ hoặc kể từ ngày bản án được niêm yết hợp lệ theo
quy định của pháp luật.
Chị Lãnh Thị N có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày bản án
được tống đạt hợp lệ hoặc kể từ ngày bản án được niêm yết hợp lệ theo quy định
của pháp luật.
Nơi nhận:
- VKSND tỉnh Bắc Giang;
- Cục THADS tỉnh Bắc Giang;
- UBND xã T, huyện L, tỉnh Bắc Giang;
- Cổng thông tin điện tử;
- Các đương sự;
- Lưu hồ sơ vụ án;
- Lưu VP.
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ SƠ THẨM
THẨM PHÁN-CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
Nguyễn Như Hiển
Tải về
Bản án số 172/2024/HNGĐ-ST
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án số 172/2024/HNGĐ-ST
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án/ Quyết định cùng đối tượng
1
Ban hành: 05/12/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
2
Ban hành: 28/11/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
3
Ban hành: 28/11/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
4
Ban hành: 18/11/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
5
Ban hành: 28/10/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
6
Ban hành: 30/09/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
7
Ban hành: 30/09/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
8
Ban hành: 30/09/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
9
Ban hành: 30/09/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
10
Ban hành: 30/09/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
11
Ban hành: 30/09/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
12
Ban hành: 27/09/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
13
Ban hành: 27/09/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
14
Ban hành: 27/09/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
15
Ban hành: 27/09/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
16
Ban hành: 27/09/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
17
Ban hành: 26/09/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
18
Ban hành: 26/09/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
19
Ban hành: 23/09/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
20
Ban hành: 23/09/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm