Bản án số 25/2024/HNGĐ-ST ngày 30/09/2024 của TAND tỉnh Hà Nam về vụ án ly hôn do một bên ở nước ngoài

  • Thuộc tính
  • Nội dung
  • VB gốc
  • VB liên quan
  • Lược đồ
  • Đính chính
  • Án lệ
  • BA/QĐ cùng nội dung
  • Tải về
Tải văn bản
Báo lỗi
  • Gửi liên kết tới Email
  • Chia sẻ:
  • Chế độ xem: Sáng | Tối
  • Thay đổi cỡ chữ:
    17

Thuộc tính Bản án 25/2024/HNGĐ-ST

Tên Bản án: Bản án số 25/2024/HNGĐ-ST ngày 30/09/2024 của TAND tỉnh Hà Nam về vụ án ly hôn do một bên ở nước ngoài
Quan hệ pháp luật: Vụ án ly hôn do một bên ở nước ngoài
Cấp xét xử: Sơ thẩm
Tòa án xét xử: TAND tỉnh Hà Nam
Số hiệu: 25/2024/HNGĐ-ST
Loại văn bản: Bản án
Ngày ban hành: 30/09/2024
Lĩnh vực: Hôn nhân gia đình
Áp dụng án lệ:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Đính chính:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Thông tin về vụ/việc: Anh Vũ Văn M và chị Nguyễn Thị Bích T kết hôn trên cơ sở tự nguyện, tự do tìm hiểu, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã T, huyện K, tỉnh Hà Nam ngày 30 tháng 3 năm 2007. Sau khi kết hôn, vợ chồng chung sống hòa thuận, hạnh phúc được một thời gian thì phát sinh mâu thuẫn. Nay anh M xin ly hôn, chị T đồng ý.
Tóm tắt Bản án

Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!

Tải văn bản

TÒA ÁN NHÂN DÂN
TỈNH HÀ NAM
Bản án số: 25/2024/HNGĐ-ST
Ngày 30 - 9 - 2024
V/v “Ly hôn, tranh chấp nuôi con”.
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH HÀ NAM
- Thành phần Hội đồng xét xử sơ thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa: Ông Nguyễn Đức Thủy;
Các Hội thẩm nhân dân: Ông Phạm Tiến Dũng và ông Nguyễn Văn Đúng.
- Thư ký phiên tòa: Ông Vũ Huy Anh - T ký Tòa án nn dân tnh Nam.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Nam tham gia phiên toà:
Lê Thị Thu Thủy - Kiểm sát viên.
Ngày 30 tháng 9 năm 2024, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Nam xét x
thẩm công khai vụ án thụ số 27/2024/TLST-HNGĐ ngày 19 tháng 6 năm
2024 về việc “Ly hôn, tranh chấp nuôi con”, theo Quyết định đưa vụ án ra xét
xử số 24/2024/QĐXXST-HNGĐ ngày 30 tháng 8 năm 2024, giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Anh Văn M, sinh năm 1973; nơi cư trú: Số nhà A ngách
A ngõ A, đường P, tổ H, phường L, thành phố P, tỉnh Hà Nam; có mặt.
- Bị đơn: Chị Nguyễn Thị Bích T, sinh năm 1985; nơi đăng hộ khẩu
thường trú: Tổ H, phường L, thành phố P, tỉnh Hà Nam; chỗ ở hiện nay: Tại Đài
Loan (Không rõ địa chỉ); có đơn xin xét xử vắng mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và kết quả tranh tụng tại phiên toà thì
nội dung vụ án được xác định như sau:
Anh Văn M và chị Nguyễn Thị Bích T kết hôn trên sở tự nguyện, tự
do tìm hiểu, đăng kết hôn tại Ủy ban nhân dân T, huyện K, tỉnh
Nam ngày 30 tháng 3 năm 2007. Sau khi kết hôn, vợ chồng chung sống hòa
thuận, hạnh phúc tại tổ H, phường L, thành phố P, tỉnh Nam. Do hoàn cảnh
kinh tế khó khăn n tnăm 2018, chị Nguyễn Thị Bích T đi lao động tại Đài
Loan; từ đó, vợ chồng xa cách ít quan tâm tới nhau. Theo anh Văn M, trong
suốt thời gian chung sống, vợ chồng đã phát sinh nhiều mâu thuẫn, bất đồng
quan điểm, không tiếng nói chung; vchồng sống ly thân từ tháng 01 năm
2018. Nay, anh Văn M xác định tình cảm vợ chồng không còn đề nghị Toà
2
án giải quyết cho ly hôn theo quy định. Quan điểm của chị Nguyễn Thị Bích T
cũng xác định tình cảm vợ chồng không còn, anh M xin ly ly hôn chị T đồng ý
đ ngh Toà án xử công nhận thuận tình ly n giữa anh M và ch T theo
quy định.
Về con chung, vợ chồng 02 con chung gồm: (1) cháu Nguyễn N,
sinh ngày 05 tháng 11 năm 2007; (2) cháu Thị Trà A, sinh ngày 12 tháng 8
năm 2009. Hiện tại cả 02 cháu đang ở với anh M. Nếu ly hôn, anh Vũ Văn M đ
nghị Toà án giao cả 02 con chung cho anh M nuôi dưỡng, chăm c. Việc cấp
dưỡng nuôi con chung anh M không yêu cầu chị T phải cấp dưỡng; trường hợp
tranh chấp về phần cấpỡng nuôi con sẽ đề nghị giải quyết bằng vụ án khác.
Về tài sản chung, công nợ anh Văn M xác định không không yêu
cầu Toà án giải quyết.
Tại phiên toà thẩm, anh Văn M điện thoại trực tiếp qua ứng dụng
Zalo hình ảnh cho chị Nguyễn Thị Bích T được anh Văn M xác nhận
đúng chị Nguyễn Thị Bích T vợ anh M trên điện thoại. Chị T xác định hiện
chị đang lao động tại Đài Loan và đang sống bất hợp pháp (Sống lưu vong),
công việc chưa ổn định, chỗ ở không cố định; chị T đã được ông Nguyễn Văn C
thông báo việc anh M xin ly hôn. Quan điểm của chị T nhất trí việc anh M ly
hôn đề nghị Toà án xử công nhận thuận tình ly hôn giữa anh M chị T; về
con chung chị T anh M hai con chung gồm: Cháu Nguyễn N, sinh
ngày 05 tháng 11 năm 2007 cháu Thị Trà A, sinh ngày 12 tháng 8 năm
2009. Nếu ly hôn chị T đề nghị giao cả 02 cháu cho anh M nuôi dưỡng, việc cấp
dưỡng nuôi con chung chị T tự thỏa thuận với anh M. Về tài sản, công nợ và các
vấn đề khác chị T xác định không có nên không đề nghị Toà án giải quyết. Hiện
tại chị không có thai nghén gì.
Quan điểm của Kiểm sát viên tại phiên tòa xác định: Việc tuân theo pháp
luật tố tụng của Thẩm phán, Thư ký, Hội đồng xét xử và các đương sự đều thực
hiện đúng, đầy đủ theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự; riêng bị đơn không
cung cấp địa chỉ cho Toà án là thuộc trường hợp cố tình giấu địa chỉ. Hướng giải
quyết vụ án: Đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ các Điều 51, 55, 81, 82 Điều
123 của Luật Hôn nhân gia đình; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày
30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội. Xử công nhận thuận
tình ly hôn giữa anh Văn M chị Nguyễn Thị Bích T. Về con chung: Giao
cháu Nguyễn N, sinh ngày 05 tháng 11 năm 2007 cháu Thị Trà A,
sinh ngày 12 tháng 8 năm 2009 cho anh Văn M trông nom, chăm sóc, nuôi
dưỡng, giáo dục. Chị Nguyễn Thị Bích T không phải cấp dưỡng nuôi con chung.
Về án phí ly hôn thẩm, anh M và chị T phải chịu theo quy định; chấp nhận
việc anh M tự nguyn chịu toàn bộ án phí ly hôn thẩm.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên
toà căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên toà, ý kiến trình bày của các
3
đương sự (Đặc biệt chị Nguyễn Thị Bích T trình bày qua ứng dụng Zalo có hình
ảnh) nghe Kiểm sát viên phát biểu ý kiến, sau khi thảo luận nghị án, Hội
đồng xét xử nhận định:
[1] Về tố tụng, mặc dù chị Nguyễn Thị Bích T đã gửi Bản tự khai từ Đài
Loan vToà án nhân dân tỉnh Nam nhưng không xác nhận của Đại sứ
quán tại Đài Loan không cung cấp địa chỉ để Toà án uỷ thác theo quy định
nên thuộc trường hợp cố tình giấu địa chỉ. vậy, Tòa án phải tống đạt đầy đủ
các văn bản tố tụng cho ông Nguyễn Văn C (Bố đẻ chị T); bản thân chị T đã biết
việc Tòa án đang giải quyết việc anh M xin ly hôn chị T; đồng thời, đề nghị
được giải quyết vắng mặt. Căn cứ khoản 1 Điều 227; khoản 1 Điều 228 của Bộ
luật Tố tụng dân sự Nghị quyết số 01/2024/NQ-HĐTP ngày 16 tháng 5 năm
2024 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng một
số quy định của pháp luật trong giải quyết vụ việc về hôn nhân gia đình, Hội
đng t xtiến hành xét x vắng mặt chị Nguyn Thị Bích T theo quy định chung.
[2] Về thẩm quyền giải quyết vụ án, yêu cầu khởi kiện của anh Văn M
về việc ly hôn, tranh chấp nuôi con yếu tố nước ngoài chị Nguyễn Thị
Bích T trước khi đi lao động tại Đài Loan đăng hộ khẩu thường trú tại tổ
H, phường L, thành phố P, tỉnh Nam nên thuộc thẩm quyền giải quyết của
Tòa án nhân dân tỉnh Nam theo quy định tại khoản 1 Điều 28 điểm c
khoản 1 Điều 37 của Bộ luật Tố tụng dân sự.
[3] Về quan hệ hôn nhân, anh Vũ Văn M và chị Nguyễn Thị Bích T kết hôn
trên cơ sở tự nguyện, tự do tìm hiểu, có đăng kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã
T, huyện K, tỉnh Hà Nam ngày 30 tháng 3 năm 2007. Sau khi kết hôn, vợ chồng
chung sống hòa thuận, hạnh phúc được một thời gian thì phát sinh mâu thuẫn.
Nguyên nhân mâu thuẫn chủ yếu là do vợ chồng bất đồng quan điểm sống,
không tiếng nói chung kinh tế gia đình phần khó khăn. Đến đầu năm
2018, chị Nguyễn Thị Bích T đi lao động tại Đài Loan; từ đó, vợ chồng xa cách
không quan tâm tới nhau, mâu thuẫn ngày càng trầm trọng. Xét n nhân của
anh chị lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục
đích của hôn nhân không đạt được; anh M xin ly hôn, chị T đồng ý đề nghị
Toà án xử công nhận thuận tình ly hôn theo quy định. vậy, Hội đồng xét xử
căn cứ Điều 55 của Luật Hôn nhân gia đình; xử công nhận thuận tình ly hôn
giữa anh Vũ Văn M và chị Nguyễn Thị Bích T là phù hợp pháp luật.
[4] Về con chung: Hiện tại cháu Nguyễn Sĩ Ncháu Vũ Thị Trà A do
anh Vũ Văn M chăm sóc, nuôi dưỡng; chị T đang lao động tại Đài Loan. Vì vậy,
để bảm bảo quyền lợi của các con chưa thành niên và theo nguyện vọng của cả
hai cháu anh M, chị T; Hội đồng xét xử giao các cháu N cháu Trà A cho
anh Văn M tiếp tục nuôi dưỡng, chăm sóc theo quy định. Do anh M không
đề nghị chị T cấp dưỡng nuôi con chung nên Hội đồng xét xkhông xem xét;
sau này, phát sinh, đương sự được quyền khởi kiện vụ án khác theo quy định
của pháp luật.
4
[5] Về tài sản chung, công nợ các vấn đề khác các đương sự đều không
yêu cầu nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét.
[6] Về án phí hôn nhân gia đình thẩm: Buộc anh Văn M chị
Nguyễn Thị Bích T mỗi người phải chịu 75.000 đồng. Do anh M tự nguyện chịu
toàn bộ án phí nên Hội đồng đồng xét xử buộc anh Văn M chịu 150.000
đồng án phí ly hôn sơ thẩm; đối trừ số tiền 300.000 đồng tạm ứng án phí mà anh
M đã nộp tại Cục Thi hành án dân stỉnh Hà Nam thành án phí chung của anh
chị, trả lại anh M số tiền 150.000 đồng còn lại theo quy định.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ vào khoản 1 Điều 28; điểm c khoản 1 Điều 37; Điều 144; khoản 4
Điều 147; khoản 1 Điều 227; khoản 1 Điều 228; Điều 271; Điều 273; Điều 280
và khoản 2 Điều 479 của Bộ luật Tố tụng dân sự. Các Điều 51, 55, 81, 82, 83
Điều 123 của Luật Hôn nhân gia đình; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14
ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức
thu, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
1. Xử công nhận thuận tình ly hôn giữa anh Văn M chị Nguyễn Thị
Bích T.
2. Về con chung: Giao cháu Nguyễn N, sinh ngày 05 tháng 11 năm
2007 và cháu Thị Trà A, sinh ngày 12 tháng 8 năm 2009 cho anh Vũ Văn M
trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục đến khi các cháu N Trà
A đủ 18 tuổi, lao động tự lập được. Chị Nguyễn Thị Bích T không phải cấp
dưỡng nuôi con chung.
Sau khi ly hôn, người không trực tiếp nuôi con quyền, nghĩa vụ thăm
nom con mà không ai được cản trở. Người không trực tiếp nuôi con lạm dụng
việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm
sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con thì người trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu Tòa
án hạn chế quyền thăm nom con của người đó.
Người trực tiếp nuôi con cùng các thành viên trong gia đình không được
cản trở người không trực tiếp nuôi con trong việc thăm nom, chăm sóc, nuôi
dưỡng, giáo dục con.
3. Về án phí: Buộc anh Văn M phải chịu 150.000 đồng (Một trăm năm
mươi nghìn đồng) án phí ly hôn thẩm. Đối trừ số tiền 300.000 đồng (Ba trăm
nghìn đồng) tạm ứng án phí mà anh Văn M đã nộp theo Biên lai thu tạm ứng
án phí, lệ phí Tòa án số 0001472 ngày 19 tháng 6 năm 2024, tại Cục Thi hành án
dân sự tỉnh Nam; trả lại anh Văn M 150.000 đồng (Một trăm m mươi
nghìn đồng).
Án xử công khai thẩm, báo cho anh Văn M được quyền kháng cáo
bản án trong thời hạn 15 ngày kể tngày tuyên án; báo cho chị Nguyễn Thị
5
Bích T được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 01 tháng kể từ ngày nhận
được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định./.
Nơi nhận:
- TAND cấp cao tại Hà Nội;
- VKSND tỉnh Hà Nam;
- Phòng KTNV & THAHS Toà án tỉnh;
- Cục THADS tỉnh Hà Nam;
- Sở Tư pháp tỉnh Hà Nam;
- UBND phường Lê Hồng Phong, thành
phố Phủ Lý;
- Các đương sự;
- Bộ phận HCTP;
- Toà dân sự;
- Lưu hồ sơ vụ án.
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa
(Đã ký)
Nguyễn Đức Thủy
Tải về
Bản án số 25/2024/HNGĐ-ST Bản án số 25/2024/HNGĐ-ST

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án số 25/2024/HNGĐ-ST Bản án số 25/2024/HNGĐ-ST

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án/ Quyết định cùng đối tượng

Bản án cùng lĩnh vực

Bản án mới nhất