Bản án số 112/2025/DS-PT ngày 27/03/2025 của TAND cấp cao tại Đà Nẵng về tranh chấp quyền sử dụng đất
- Thuộc tính
- Nội dung
- VB gốc
- VB liên quan
- Lược đồ
- Đính chính
- Án lệ
- BA/QĐ cùng nội dung
- Tải về
Tải văn bản
-
Bản án số 112/2025/DS-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
-
Bản án số 112/2025/DS-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Báo lỗi
Thuộc tính Bản án 112/2025/DS-PT
Tên Bản án: | Bản án số 112/2025/DS-PT ngày 27/03/2025 của TAND cấp cao tại Đà Nẵng về tranh chấp quyền sử dụng đất |
---|---|
Quan hệ pháp luật: | Tranh chấp quyền sử dụng đất |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Tòa án xét xử: | TAND cấp cao tại Đà Nẵng |
Số hiệu: | 112/2025/DS-PT |
Loại văn bản: | Bản án |
Ngày ban hành: | 27/03/2025 |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Áp dụng án lệ: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Đính chính: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Thông tin về vụ/việc: | Không chấp nhận kháng cáo của bị đơn bà Lê Thị C và bà Lê Thị M; giữ nguyên Bản án dân sự sơ thẩm số 29/2024/DS-ST ngày 17/9/2024 của Toà án nhân dân tỉnh Quảng Trị. |
Tóm tắt Bản án
Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!
Tải văn bản

1
TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO
TẠI ĐÀ NẴNG
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
Bản án số: 112/2025/DS-PT
Ngày: 27/3/2025.
V/v tranh chấp về yêu cầu
chấm dứt hành vi cản trở
quyền sử dụng đất.
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI ĐÀ NẴNG
- Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa:
bà Trần Thị Kim Liên
Các Thẩm phán:
ông Trần Quốc Cường
ông Phùng Anh Dũng
- Thư ký phiên tòa: ông Đinh Tiến Hoàng - Thư ký Tòa án nhân dân cấp
cao tại Đà Nẵng.
- Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng: bà Trần Thị
Xuân Thanh - Kiểm sát viên tham gia phiên toà.
Ngày 27 tháng 3 năm 2025, tại trụ sở Tòa án nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng
xét xử phúc thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số 302/2024/TLPT-DS ngày 18
tháng 11 năm 2024 về tranh chấp về yêu cầu chấm dứt hành vi cản trở quyền sử
dụng đất.
Do Bản án dân sự sơ thẩm số 29/2024/DS-ST ngày 17/9/2024 của Tòa án
nhân dân tỉnh Quảng Trị bị kháng cáo.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 613/2025/QĐ-PT ngày 04 tháng 3
năm 2025, giữa các đương sự:
1. Nguyên đơn: ông Lê Văn N và bà Lê Thị N S;
Cùng địa chỉ: khối 04, thị trấn K, huyện H, tỉnh Quảng Trị. Vắng mặt.
Người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn: ông Nguyễn Đức T; địa chỉ:
tỉnh Quảng Trị (văn bản ủy quyền ngày 03/10/2023). Vắng mặt.
2. Bị đơn:
- Bà Lê Thị C;
Địa chỉ: khối 04, thị trấn K, huyện H, tỉnh Quảng Trị. Có mặt.
- Ông Đỗ Văn M (chết ngày 12/02/2024). Người kế thừa quyền, nghĩa vụ
tố tụng của ông Đỗ Văn M:
+ Bà Lê Thị C - sinh năm 1967; địa chỉ: khối 04, thị trấn K, huyện H, tỉnh
2
Quảng Trị. Có mặt.
+ Ông Đỗ Trường Q - sinh năm 1991;
+ Bà Đỗ Thị Hoài T - sinh năm 1995;
Cùng địa chỉ: khối 04, thị trấn K, huyện H, tỉnh Quảng Trị.
Người đại diện theo ủy quyền của ông Đỗ Trường Q và bà Đỗ Thị Hoài T:
bà Lê Thị C (văn bản ủy quyền ngày 22/8/2024). Có mặt.
+ Ông Đỗ Trí D - sinh năm 1998;
Địa chỉ: khối 04, thị trấn K, huyện H, tỉnh Quảng Trị. Có mặt.
- Ông Trần Hữu Q, địa chỉ: khối 04, thị trấn K, huyện H, tỉnh Quảng Trị.
Vắng mặt.
- Bà Lê Thị M; địa chỉ: khối 04, thị trấn K, huyện H, tỉnh Quảng Trị. Có
mặt.
Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị đơn: ông Lê Tấn P và ông
Trần Văn V - Luật sư của Văn phòng Luật sư T, thuộc Đoàn Luật sư tỉnh Quảng
Trị. Có mặt.
3. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
- Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh Quảng Trị; địa chỉ: tỉnh Quảng Trị.
Vắng mặt.
- Ủy ban nhân dân huyện H, tỉnh Quảng Trị; địa chỉ: thị trấn K, huyện H,
tỉnh Quảng Trị.
Người đại diện theo uỷ quyền: ông Hồ Quốc T - Phó Trưởng phòng Phòng
Nông nghiệp và Môi trường huyện H (văn bản uỷ quyền số 345/UBND-VP ngày
13/3/2025). Có đơn xin vắng mặt.
- Ủy ban nhân dân thị trấn K, huyện H, tỉnh Quảng Trị; địa chỉ: số 130
đường Lê Duẩn, thị trấn K, huyện H, tỉnh Quảng Trị. Có đơn xin vắng mặt.
4. Người kháng cáo: bị đơn bà Lê Thị C và bà Lê Thị M.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
* Theo đơn khởi kiện, nguyên đơn ông Lê Văn N và bà Lê Thị N S trình
bày:
Ngày 30/12/2003, hộ ông Lê Văn M được Uỷ ban nhân dân huyện H cấp
Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số X 567960 tại thửa đất số 37, tờ bản đồ số
31, với diện tích 2.442m
2
, địa chỉ: khối 04, thị trấn K, huyện H. Tại thời điểm hộ
ông M được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất năm 2003 (hộ gia đình
gồm: ông Lê Văn M và các con là ông Lê Văn N, bà Lê Thị M, bà Lê Thị C, bà
Lê Thị M, bà Lê Thị L).
Năm 2011, ông M và các con ông M (gồm: ông Lê Văn N, bà Lê Thị M, bà
Lê Thị C, bà Lê Thị M, bà Lê Thị L và con dâu là bà Lê Thị N S) lập văn bản
thỏa thuận phân chia thửa đất số 37, tờ bản đồ số 31, diện tích 2.442m
2
, địa chỉ
thửa đất: khối 04, thị trấn K, huyện H cho chị em trong gia đình để ở. Văn bản
thỏa thuận đã được Uỷ ban nhân dân thị trấn K chứng thực. Ông Lê Văn N, bà Lê
3
Thị M, bà Lê Thị C, bà Lê Thị M, bà Lê Thị L sử dụng đất theo phần nhưng chưa
đăng ký để sang tên nên đến năm 2016 vẫn xác định hộ ông Lê Văn M chủ sử
dụng đất cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số X 567960 tại thửa đất số 37,
tờ bản đồ số 31, diện tích 2.442m
2
, địa chỉ thửa đất: khối 04, thị trấn K, huyện H.
Ngày 20/10/2013, ông Lê Văn M chết không để lại di chúc. Ngày
02/3/2016, những người thừa kế theo pháp luật thuộc hàng thừa kế thứ nhất của
ông Lê Văn M, đồng thời cũng là những thành viên trong hộ của ông Lê Văn M
(gồm: ông Lê Văn N, bà Lê Thị M, bà Lê Thị C, bà Lê Thị M, bà Lê Thị L - đều
là con của ông M) lập văn bản thỏa thuận tặng cho di sản thừa kế và tài sản
chung đối với quyền sử dụng đất có diện tích 2.442m
2
, thuộc thửa đất số 37, tờ
bản đồ số 31 theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số X 567960, địa chỉ thửa
đất: khối 04, thị trấn K, huyện H, tỉnh Quảng Trị với nội dung: “Tại văn bản
thỏa thuận phân chia di sản thừa kế này, chúng tôi đồng ý tặng cho toàn bộ giá
trị phần di sản của mình được hưởng cho ông Lê Văn N và bà Lê Thị N S, đồng
thời tặng cho phần tài sản thuộc khối tài sản chung của chúng tôi cho ông N, bà
S. Ông Lê Văn N và bà Lê Thị N S được sử dụng đất theo quy định của pháp
luật, đăng ký biến động đất tại cơ quan có thẩm quyền, có quyền chuyển
nhượng, tặng cho và đăng ký sang tên quyền sử dụng đất và tài sản găn liền với
đất nêu trên. Có toàn quyền của người sử dụng đất”. Văn bản thỏa thuận được
đã được những người thuộc hàng thừa kế cùng ký và chứng thực tại Uỷ ban
nhân dân thị trấn K, huyện H, tỉnh Quảng Trị.
Trên cơ sở văn bản thỏa thuận phân chia di sản thừa kế ngày 02/3/2016,
ngày 31/3/2016, Uỷ ban nhân dân huyện H, tỉnh Quảng Trị sang tên, cấp đổi
Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số CB 535622, thửa đất số 37, tờ bản đồ số
31, diện tích 2.478m
2
cho ông Lê Văn N (nguồn gốc: do nhận thừa kế quyền sử
dụng đất).
Sau khi bị thu hồi đất làm đường T, diện tích giảm nên ông Lê Văn N, Lê
Thị N S yêu cầu cấp đổi Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và tách ra nhiều
thửa. Ngày 12/8/2021, Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh Quảng Trị cấp đổi các
Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho ông Lê Văn N, bà Lê Thị N S và tách
lô đất thành nhiều thửa, trong đó có thửa đất số 221 và thửa đất số 224 hiện nay
đang tranh chấp.
Theo kết quả xem xét, thẩm định tại chỗ do Tòa án thực hiện thì:
- Trên thửa đất 221 có một phần nhà ở và tài sản khác như (sân bê tông,
mái hiên, nhà xây lợp tôn, nhà móng bếp) của ông Q, bà M sử dụng diện tích
31,7m
2
.
- Trên thửa đất 224 có một phần nhà ở và tài sản gồm: sân bê tông, mái hiên,
nhà xây lợp tôn, nhà móng bếp) của ông M, bà C sử dụng diện tích 15,4m
2
.
Ông Lê Văn N yêu cầu Tòa án buộc bà Lê Thị M, ông Trần Hữu Q và bà
Lê Thị C cùng người kế thừa quyền, nghĩa vụ của ông Đỗ Văn M chấm dứt hành
4
vi trở thực hiện quyền sử dụng dất và phải tháo dỡ các công trình đã xây dựng
trên các thửa đất trên.
* Bị đơn trình bày:
Sau khi hộ ông Lê Văn M được Uỷ ban nhân dân huyện H cấp Giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất năm 2003 thì ngày 16/5/2011, các thành viên trong hộ
ông M (ông M và các con) lập văn bản thỏa thuận về quyền sử dụng đất và tài sản
gắn liền trên đất đối với thửa đất nêu trên. Căn cứ vào đó, bị đơn ông M, bà C và
ông Q, bà M tiếp tục sử dụng và ở tại các lô đất cho đến nay (có sơ đồ kèm theo).
Khi cơ quan Nhà nước có chủ trương thu hồi đất để xây dựng đường Trương
Công Kỉnh, vì trên diện tích đất thu hồi bị đơn đang sử dụng nên tại Quyết định
số 2935/QĐ-UBND ngày 23/9/2016 của Uỷ ban nhân dân huyện H về việc thu
hồi đất xây dựng đường Trương Công Kỉnh đã thu hồi đất của bà Lê Thị C 80m
2
,
thu hồi đất của bà Lê Thị M 95m
2
.
Đối với văn bản thỏa thuận phân chia thừa kế ngày 02/3/2016, bị đơn trình
bày là không biết nội dung mà chỉ ký vào biên bản do tin tưởng ông Lê Văn N
nói ký vào để nhận tiền đền bù.
Tại Biên bản hòa giải tranh chấp đất đai ngày 25/5/2017 đã ghi nhận thống
nhất phương án của ông N đưa ra là: sau khi thi công đường Trương Công Kỉnh
hoàn thành, bị đơn tiếp tục sử dụng trên diện tích đất còn lại theo văn bản thỏa
thuận năm 2011, nếu đủ điều kiện được tách thửa.
Ngày 18/01/2024, bà Lê Thị C có ý kiến đề nghị Tòa án hủy Giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất số 919751 ngày 12/8/2021 do Sở Tài nguyên và Môi
trường tỉnh Quảng Trị cấp cho ông Lê Văn N và bà Lê Thị N S. Ông Trần Hữu
Q, bà Lê Thị M yêu cầu Tòa án hủy Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số CX
919746 ngày 12/8/2021 do Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh Quảng Trị cấp
cho ông Lê Văn N và bà Lê Thị N S.
* Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
- Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh Quảng Trị trình bày: việc cấp Giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất cho ông Lê Văn N và bà Lê Thị N S là đúng quy
định pháp luật. Do đó, đề nghị Tòa án không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bị
đơn.
- Ủy ban nhân dân huyện H, tỉnh Quảng Trị trình bày: Uỷ ban nhân dân
huyện H cấp Giấy chứng nhận cho ông Lê Văn N ngày 31/3/2016 tại thửa đất số
37, tờ bản đồ số 31, diện tích 2.478,42m
2
, địa chỉ thửa đất: khối 04, thị trấn K,
huyện H, tỉnh Quảng Trị là đã căn cứ trên hồ sơ và tờ trình của chi nhánh Văn
phòng Đăng ký đất đai huyện, đảm bảo đúng theo trình tự, thủ tục quy định. Tại
thời điểm xác nhận, thửa đất không có tranh chấp, quá trình thực hiện chuyển
tên người sử dụng đất các thành viên tham gia tự nguyện, công khai, ký thỏa
thuận tại công sở Uỷ ban nhân dân thị trấn K và đã được chứng thực hợp pháp.
Hết hạn khiếu nại không ai khiếu nại nên Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất
5
cho ông Lê Văn N tại thửa đất số 37, tờ bản đồ số 31, diện tích 2.478m
2
, địa chỉ
thửa đất: khối 04, thị trấn K, huyện H, tỉnh Quảng Trị hoàn toàn hợp pháp.
Về việc thực hiện Quyết định số 2939/QĐ-UBND ngày 23/9/2016. Dự án
GMS có thực hiện đền bù giải phóng mặt bng ông Lê Văn Ngc, bà Lê Thị
Cúc, bà Lê Thị Mùi, bà Lê Thị M, Lê Thị L đã nhận đầy đủ tiền đền bù nhà ở và
tài sản trên đất. Quá trình lập, ký danh sách thu hồi đất, phê duyệt kinh phí bồi
thường, hỗ trợ; nhận tiền bồi thường, hỗ trợ và bàn giao mặt bng đều đã được
công khai và các hộ gia đình, cá nhân có liên quan không có ý kiến, khiếu nại gì
từ trước cho đến nay. Uỷ ban nhân dân sẽ chỉ đạo Ban Quản lý dự án Phát triển
quỹ đất và Cụm công nghiệp, Uỷ ban nhân dân thị trấn K và các cơ quan liên
quan tuyên truyền, vận động các hộ đã nhận tiền bồi thường, hỗ trợ về đất và tài
sản trên đất tại tuyến đường Trương Công Kỉnh, thị trấn K sớm bàn giao mặt
bng và tháo dỡ những công trình trên diện tích đất đã thu hồi để bàn giao cho
Uỷ ban nhân dân thị trấn K quản lý theo quy định.
- Uỷ ban nhân dân thị trấn K trình bày: trên cơ sở Văn bản thoả thuận phân
chia di sản thừa kế được lập ngày 02/3/2016 và chứng thực theo quy định, Uỷ
ban nhân dân thị trấn đã tiếp nhận hồ sơ đăng ký biến động và xác nhận đăng ký
biến động ông Lê Văn N đảm bảo đúng theo trình tự, thủ tục quy định. Tại thời
điểm xác nhận, thửa đất không có tranh chấp.
Tại Bản án dân sự sơ thẩm số 29/2024/DS-ST ngày 17/9/2024 của Tòa
án nhân dân tỉnh Quảng Trị đã quyết định:
Căn cứ khoản 9 Điều 26, Điều 34, điểm a khoản 1 Điều 39, khoản 1 Điều
147, khoản 1 Điều 157, Khoản 1 Điều 158, khoản 1 Điều 165, điểm g khoản 1
Điều 217 của Bộ luật Tố tụng Dân sự; Điều 169 của Bộ luật Dân sự; khoản 10
Điều 12, Điều 166 và Điều 203 của Luật Đất đai năm 2013; khoản 2 Điều 26,
khoản 2 Điều 27, Điều 29 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày
30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm,
thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án, xử:
Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.
1. Buộc bà Lê Thị C, người kế thừa quyền, nghĩa vụ của ông M: anh Đỗ
Trường Q, chị Đỗ Thị Hoài T, anh Đỗ Trí D (là con của ông M, bà C) phải chấm
dứt hành vi cản trở thực hiện quyền sử dụng đất và phải có nghĩa vụ tháo dỡ các
công trình (nhà xây lợp tôn) trên diện tích 15,4m
2
(vị trí số 4 trong sơ đồ hiện
trạng sử dụng đất) để trả lại nguyên hiện trạng thửa đất số 224, tờ bản đồ số 31,
tại khối 04, thị trấn K, huyện H, tỉnh Quảng Trị cho ông Lê Văn N, bà Lê N Thị
S (có sơ đồ hiện trạng thửa đất kèm theo).
2. Buộc ông Trần Hữu Q và bà Lê Thị M phải chấm dứt hành vi cản trở
thực hiện quyền sử dụng đất và phải có nghĩa vụ tháo dỡ các công trình (nhà xây
lợp tôn) trên diện tích 31,7m
2
(vị trí số 4 trong sơ đồ hiện trạng sử dụng đất) để
trả lại nguyên hiện trạng thửa đất số 221, tờ bản đồ số 31 thị trấn K, huyện H,

6
tỉnh Quảng Trị cho ông Lê Văn N, bà Lê N Thị S (có sơ đồ hiện trạng thửa đất
kèm theo).
Ngoài ra, bản án sơ thẩm còn quyết định về chi phí tố tụng, trách nhiệm thi
hành án, án phí và thông báo quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.
Ngày 28/9/2024, bị đơn bà Lê Thị C và bà Lê Thị M kháng cáo toàn bộ bản
án sơ thẩm và đề nghị cấp phúc thẩm sửa toàn bộ bản án sơ thẩm theo hướng:
không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn ông Lê Văn N và bà Lê Thị
N S; công nhận hiệu lực của Văn bản thoả thuận phân chia quyền sử dụng đất
ngày 16/5/2011; tuyên Văn bản thoả thuận phân chia di sản thừa kế ngày
02/3/2016 vô hiệu một phần do bị lừa dối và huỷ các Giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất số CX 919746, số CX 919754 đã cấp cho ông Lê Văn N, bà Lê Thị N
S.
Tại phiên tòa phúc thẩm:
- Bị đơn bà Lê Thị C và bà Lê Thị M giữ nguyên nội dung kháng cáo. Bà C
và bà M đều cho rng các bà bị lừa dối khi ký vào Văn bản thoả thuận phân chia
di sản thừa kế ngày 02/3/2016.
- Luật sư Lê Tấn Phong và Luật sư Trần Văn Vũ cho rng bà Lê Thị C và
bà Lê Thị M bị lừa dối để ký vào Văn bản thoả thuận phân chia di sản thừa kế
ngày 02/3/2016 nên đề nghị Hội đồng xét xử tuyên vô hiệu văn bản này. Văn
bản thoả thuận phân chia quyền sử dụng đất ngày 16/5/2011 có hiệu lực vì đã
thống nhất phân chia khi ông Lê Văn M còn sống. Vì vậy, đề nghị Hội đồng xét
xử chấp nhận kháng cáo của bà Lê Thị C và bà Lê Thị M.
- Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng cho rng, về phần
thủ tục tố tụng ở giai đoạn xét xử phúc thẩm đảm bảo đúng quy định của pháp
luật. Toà án cấp sơ thẩm không thụ lý yêu cầu phản tố của phía bị đơn nhưng lại
nhận định trong bản án là vi phạm nghiêm trng thủ tục tố tụng. Văn bản thoả
thuận phân chia quyền sử dụng đất ngày 16/5/2011 phát sinh hiệu lực, các bà Lê
Thị C, Lê Thị M có quyền sử dụng hợp pháp phần đất đã phân chia. Do đó, Văn
bản thoả thuận phân chia di sản thừa kế ngày 02/3/2016 không đúng pháp luật vì
thửa đất số 37, tờ bản đồ số 31 không còn là di sản. Trên đất có tài sản chung
của vợ chống bà C, bà M nhưng việc thoả thuận lại không có sự đồng ý của ông
Trần Hữu Q và ông Đỗ Văn M. Văn bản thoả thuận này không đúng ý chí của
các bà C, M nên vô hiệu. Ngoài ra, tại Biên bản hoà giải ngày 25/5/2017, ông Lê
Văn N có đưa ra phương án: sau khi thi công đường Trương Công Kỉnh hoàn
thành, bị đơn được tiếp tục sử dụng diện tích còn lại theo thoả thuận năm 2011
nếu đủ điều kiện được tách thửa. Hiện trên đất còn tài sản của các bà. Đề nghị
Hội đồng xét xử chấp nhận kháng cáo của bị đơn bà Lê Thị C và bà Lê Thị M,
sửa toàn bộ bản án sơ thẩm theo hướng không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của
nguyên đơn ông Lê Văn N.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
7
Căn cứ các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại
phiên toà; căn cứ kết quả tranh tụng tại phiên toà; Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Về thủ tục tố tụng:
[1.1] Nguyên đơn ông Lê Văn N, bà Lê Thị N S, bị đơn ông Trần Hữu Q và
người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh Quảng
Trị; Uỷ ban nhân dân huyện H và Uỷ ban nhân dân thị trấn K, huyện H không
có kháng cáo nhưng có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến việc kháng cáo đã
được Toà án triệu tập hợp lệ lần thứ ba mà vẫn vắng mặt. Đại diện Viện Kiểm
sát nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng đề nghị Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vụ
án. Căn cứ vào khoản 3 Điều 296 của Bộ luật Tố tụng Dân sự, Hội đồng xét xử
quyết định tiến hành xét xử vụ án.
[1.2] Đối với các đơn của của ông Đỗ Văn M, bà Lê Thị C và ông Trần
Hữu Q, bà Lê Thị M với tiêu đề “Đơn phản tố” đề ngày 24/10/2023 yêu cầu Toà
án công nhận hiệu lực của Văn bản thoả thuận về quyền sử dụng đất và tài sản
gắn liền trên đất lập ngày 16/5/2011 và tuyên Văn bản thoả thuận phân chia di
sản thừa kế ngày 02/3/2016 vô hiệu, Hội đồng xét xử thấy: nội dung trong các
đơn này không phải là yêu cầu phản tố. Vì vậy, Toà án cấp sơ thẩm không thụ lý
là đúng quy định tại Điều 200 của Bộ luật Tố tụng Dân sự.
[2] Xét kháng cáo của bị đơn bà Lê Thị C và bà Lê Thị M, Hội đồng xét xử
thấy:
[2.1] Về nguồn gốc thửa đất tranh chấp: ngày 30/12/2003, hộ ông Lê Văn
M được Uỷ ban nhân dân huyện H cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số X
567960 tại thửa đất số 37, tờ bản đồ số 31, diện tích 2.442m
2
, địa chỉ: khối 04,
thị trấn K, huyện H, tỉnh Quảng Trị. Thời điểm này hộ gia đình ông M gồm: ông
Lê Văn M và các con là ông Lê Văn N, bà Lê Thị M, bà Lê Thị C, bà Lê Thị M,
bà Lê Thị L. Ngày 16/5/2011, ông Lê Văn M cùng 05 người con (gồm: ông Lê
Văn N, bà Lê Thị M, bà Lê Thị C, bà Lê Thị M, bà Lê Thị L) và bà Lê Thị N S
(là con dâu của ông M) lập Văn bản thỏa thuận về quyền sử dụng đất và tài sản
gắn liền trên đất, tặng cho quyền sử dụng đất tại thửa đất số 37, tờ bản đồ số 31
cho các con trong gia đình để ở. Văn bản này được Uỷ ban nhân dân thị trấn K
chứng thực. Sau khi phân chia đất, ông Lê Văn N, bà Lê Thị M, bà Lê Thị C, bà
Lê Thị M và bà Lê Thị L sử dụng đất theo phần đã phân chia nhưng chưa hoàn
thành các thủ tục đăng ký để sang tên quyền sử dụng đất. Do đó, Văn bản thoả
thuận về quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền trên đất ngày 16/5/2011 chưa có
hiệu lực theo quy định tại Điều 459, Điều 503 của Bộ luật Dân sự năm 2015
(Điều 467, Điều 692 của Bộ luật Dân sự năm 2005).
[2.2] Năm 2013, ông Lê Văn M chết không để lại di chúc; xác định di sản
thừa kế của ông Lê Văn M là một phần quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà
trong khối tài sản chung của hộ gia đình được chia cho những người thừa kế.
Ngày 02/3/2016, những người thừa kế theo pháp luật thuộc hàng thừa kế thứ
8
nhất của ông Lê Văn M (gồm: ông Lê Văn N, bà Lê Thị M, bà Lê Thị C, bà Lê
Thị M, bà Lê Thị L) đã thay đổi ý kiến, lập Văn bản thỏa thuận phân chia di sản
thừa kế đối với thửa đất số 37, tờ bản đồ số 31, diện tích 2.442m
2
có nội dung:
“Tại văn bản thỏa thuận phân chia di sản thừa kế này, chúng tôi đồng ý tặng
cho toàn bộ giá trị phần di sản của mình được hưởng cho ông Lê Văn N và bà
Lê Thị N S, đồng thời tặng cho phần tài sản thuộc khối tài sản chung của chúng
tôi cho ông Lê Văn N và bà Lê Thị N S. Ông Lê Văn N và bà Lê Thị N S được
đăng ký biến động tại cơ quan có thẩm quyền, có quyền chuyển nhượng, tặng
cho và đăng ký sang tên quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất nêu trên,
có toàn quyền của người sử dụng đất theo quy định của pháp luật. Ngoài ra,
chúng tôi không có ý kiến nào khác... Văn bản phân chia di sản thừa kế này do
chúng tôi tự nguyện lập...”. Trên cơ sở đó, ngày 03/3/2016, ông N có đơn đăng
ký biến động đất đai và Đơn đề nghị cấp lại, cấp đổi Giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất đối với thửa đất số 37, tờ bản đồ số 31. Ngày 31/3/2016, Uỷ ban nhân
dân huyện H cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài
sản khác gắn liền với đất số CB 535622, thửa đất số 37, tờ bản đồ 31, diện tích:
2.478m
2
tại địa chỉ: khối 04, thị trấn K, huyện H, tỉnh Quảng Trị cho ông Lê
Văn N.
[2.3] Xét tại thời điểm lập Văn bản thoả thuận phân chia di sản thừa kế
ngày 02/3/2016 ông Lê Văn N, bà Lê Thị M, bà Lê Thị C, bà Lê Thị M, bà Lê
Thị L có đủ năng lực hành vi dân sự, hoàn toàn tự nguyện tặng cho toàn bộ giá
trị phần di sản thừa kế được hưởng và phần tài sản của các bà trong khối tài sản
chung cho ông Lê Văn N, bà Lê Thị N S, nội dung thỏa thuận không trái quy
định pháp luật, không vi phạm đạo đức xã hội, đều cam kết, cùng ký vào văn
bản thỏa thuận trước mặt người chứng thực tại Uỷ ban nhân dân thị trấn K ngày
02/3/2016 và thoả thuận này được lập thành văn bản đúng quy định. Hội đồng
xét xử thấy rng việc Uỷ ban nhân dân huyện H cấp Giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất số CB 535622 cho
ông Lê Văn N là đúng trình tự, thủ tục, thẩm quyền theo quy định của pháp luật
về đất đai. Do đó, ông N có đầy đủ quyền của người sử dụng đất theo quy định
tại Điều 166, Điều 179 của Luật Đất đai năm 2013.
Tuy nhiên, sau khi ký Văn bản thỏa thuận phân chia di sản thừa kế ngày
02/3/2016, bà Lê Thị M và bà Lê Thị C lại không giao đất cho ông Lê Văn N
mà vẫn tiếp tục sử dụng. Khi thực hiện Quyết định số 2935/QĐ-UBND ngày
23/9/2016 của Uỷ ban nhân dân huyện H về thu hồi đất của hộ gia đình, cá nhân
để xây dựng công trình đường Trương Công Kỉnh, hộ ông Lê Văn N, hộ bà Lê
Thị Cúc, hộ bà Lê Thị Mùi đã được bồi thường đầy đủ về đất, nhà ở, tài sản trên
đất và bố trí tái định cư. Như vậy, trong trường hợp này bà C và bà M đã được
Uỷ ban nhân dân huyện H bồi thường tài sản và quyền lợi đã được bảo đảm, kể
cả quyền lợi của những người khác trong hộ gia đình của bà C và bà M. Ngày
9
30/7/2021, ông Lê Văn N, bà Lê Thị N S có đơn đề nghị cấp lại, cấp đổi Giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất và đơn đề nghị tách thửa đất, được Sở Tài
Nguyên và Môi trường tỉnh Quảng Trị cấp đổi Giấy chứng nhận quyền sử dụng
đất và tách thửa cho ông Lê Văn N, bà Lê Thị N S, đã tách thành nhiều thửa,
trong đó có các thửa đất số 224 và số 221, địa chỉ thửa đất: khối 04, thị trấn K,
huyện H. Như vậy, ông Lê Văn N và bà Lê Thị N S có đầy đủ quyền của người
sử dụng đất đối với các thửa đất số 221, 224, cùng tờ bản đồ số 85 theo các Giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với
đất số CX 919751 và số CX 919746 do Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh
Quảng Trị cấp ngày 12/8/2021.
[2.4] Theo Sơ đồ hiện trạng sử dụng đất kèm theo Biên bản xem xét, thẩm
định tại chỗ ngày 03/5/2024 thì thấy: trên thửa đất số 221 (vị trí 4) có một phần
nhà ở và tài sản khác như (sân bê tông, mái hiên, nhà xây lợp tôn, nhà móng
bếp) do gia đình ông Q, bà M xây dựng trước đây có diện tích 31,7m
2
và trên
thửa đất số 224 (vị trí 4) có một phần nhà ở và tài sản (gồm: sân bê tông, mái
hiên, nhà xây lợp tôn, nhà móng bếp) do gia đình ông M, bà C xây dựng trước
đây có diện tích 15,4m
2
, nhưng hiện nay toàn bộ diện tích đất này thuộc quyền
sử dụng của ông N, bà S. Việc bà C, người kế thừa quyền, nghĩa vụ tố tụng của
ông Đỗ Văn M là bà C, ông Q, bà T, ông D và vợ chồng bà M không thực hiện
tháo dỡ tài sản trên các thửa đất nêu trên là cố tình cản trở, gây khó khăn đối với
việc thực hiện quyền sử dụng đất của ông N, bà S; đồng thời đã xâm phạm đến
quyền và lợi ích hợp pháp của người sử dụng đất. Vì vậy, Hội đồng xét xử thấy
toàn bộ nội dung kháng cáo của bị đơn bà Lê Thị C và bà Lê Thị M không có cơ
sở chấp nhận.
[3] Từ những phân tích trên, Hội đồng xét xử thấy rng Toà án cấp sơ thẩm
chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông N và bà S là có căn cứ, đúng quy định của
pháp luật. Tại phiên toà phúc thẩm, bà C và bà M không cung cấp được tài liệu,
chứng cứ gì mới chứng minh cho nội dung kháng cáo của mình. Vì vậy, Hội
đồng xét xử không chấp nhận kháng cáo của bà C và bà M cũng như lời bảo vệ
của Luật sư Lê Tấn Phong, Luật sư Trần Văn Vũ; không chấp nhận đề nghị của
đại diện Viện Kiểm sát nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng, giữ nguyên bản án sơ
thẩm.
[4] Do toàn bộ nội dung kháng cáo không được chấp nhận nên bà Lê Thị C
và bà Lê Thị M phải chịu án phí dân sự phúc thẩm theo quy định tại khoản 1
Điều 29 của Nghị quyết số 326/2016 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ
Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí
và lệ phí Tòa án.
[5] Các quyết định khác còn lại của bản án sơ thẩm không có kháng cáo,
kháng nghị nên không xét.
Vì các lẽ trên;

10
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào khoản 1 Điều 308 của Bộ luật Tố tụng Dân sự,
Không chấp nhận kháng cáo của bị đơn bà Lê Thị C và bà Lê Thị M; giữ
nguyên Bản án dân sự sơ thẩm số 29/2024/DS-ST ngày 17/9/2024 của Toà án
nhân dân tỉnh Quảng Trị.
Áp dụng Điều 169 của Bộ luật Dân sự; khoản 10 Điều 12, Điều 166, Điều 203
của Luật Đất đai năm 2013; khoản 1 Điều 29 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14
ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn,
giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án.
Tuyên xử:
1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn ông Lê Văn N và bà Lê
Thị N S.
1.1. Buộc bà Lê Thị C và người kế thừa quyền, nghĩa vụ tố tụng của ông
Đỗ Văn M: ông Đỗ Trường Q, bà Đỗ Thị Hoài T, ông Đỗ Trí D (là con của ông
Đỗ Văn M, bà Lê Thị C) phải chấm dứt hành vi cản trở thực hiện quyền sử dụng
đất và phải có nghĩa vụ tháo dỡ các công trình trên diện tích 15,4m
2
(vị trí số 4
trong sơ đồ hiện trạng sử dụng đất) để trả lại nguyên hiện trạng thửa đất số 224,
tờ bản đồ số 31, tại địa chỉ: khối 04, thị trấn K, huyện H, tỉnh Quảng Trị cho ông
Lê Văn N, bà Lê N Thị S (có sơ đồ hiện trạng thửa đất kèm theo).
1.2. Buộc ông Trần Hữu Q và bà Lê Thị M phải chấm dứt hành vi cản trở
thực hiện quyền sử dụng đất và phải có nghĩa vụ tháo dỡ các công trình trên diện
tích 31,7m
2
(vị trí số 04 trong sơ đồ hiện trạng sử dụng đất) để trả lại nguyên
hiện trạng thửa đất số 221, tờ bản đồ số 31, tại địa chỉ: khối 04, thị trấn K, huyện
H, tỉnh Quảng Trị cho ông Lê Văn N, bà Lê N Thị S (có sơ đồ hiện trạng thửa
đất kèm theo).
Trường hợp Bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 của Luật Thi
hành án Dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự
có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành
án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 của Luật
Thi hành án Dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều
30 của Luật Thi hành án Dân sự.
2. Về án phí: bà Lê Thị C và bà Lê Thị M - mỗi người phải chịu
300.000đồng án phí dân sự phúc thẩm, được khấu trừ số tiền tạm ứng án phí
phúc thẩm đã nộp tại các Biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Toà án số 0000184
và số 0000185 cùng ngày 01/11/2024 của Cục Thi hành án dân sự tỉnh Quảng
Trị (do ông Trần Văn Vũ nộp thay).
3. Các quyết định khác còn lại của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng
nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

11
* Nơi nhận:
- Toà án nhân dân tối cao;
- VKSND cấp cao tại Đà Nẵng;
- TAND tỉnh Quảng Trị;
- VKSND tỉnh Quảng Trị;
- Cục THADS tỉnh Quảng Trị;
- Những người tham gia tố tụng;
- Lưu: HSVA, P HCTP, LT.
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM
THẨM PHÁN - CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
ĐÃ KÝ
Trần Thị Kim Liên
Tải về
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án/ Quyết định cùng đối tượng
1
Ban hành: 10/04/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
2
Ban hành: 09/04/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
3
Ban hành: 04/04/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
4
Ban hành: 02/04/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
5
Ban hành: 01/04/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
6
Ban hành: 31/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
7
Ban hành: 31/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
8
Ban hành: 28/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
9
Ban hành: 28/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
10
Ban hành: 26/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
11
Ban hành: 26/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
12
Ban hành: 26/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
13
Ban hành: 25/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
14
Ban hành: 25/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
15
Ban hành: 25/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
16
Ban hành: 25/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
17
Ban hành: 24/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
18
Ban hành: 21/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
19
Ban hành: 21/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm