Bản án số 161/2024/DS-PT ngày 09/09/2024 của TAND TP. Đà Nẵng về tranh chấp hợp đồng thuê quyền sử dụng đất
- Thuộc tính
- Nội dung
- VB gốc
- VB liên quan
- Lược đồ
- Đính chính
- Án lệ
- BA/QĐ cùng nội dung
- Tải về
Tải văn bản
-
Bản án số 161/2024/DS-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
-
Bản án số 161/2024/DS-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Báo lỗi
Thuộc tính Bản án 161/2024/DS-PT
Tên Bản án: | Bản án số 161/2024/DS-PT ngày 09/09/2024 của TAND TP. Đà Nẵng về tranh chấp hợp đồng thuê quyền sử dụng đất |
---|---|
Quan hệ pháp luật: | Tranh chấp hợp đồng thuê quyền sử dụng đất |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Tòa án xét xử: | TAND TP. Đà Nẵng |
Số hiệu: | 161/2024/DS-PT |
Loại văn bản: | Bản án |
Ngày ban hành: | 09/09/2024 |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Áp dụng án lệ: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Đính chính: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Thông tin về vụ/việc: | Năm 2008, bà Huỳnh Thị T đã cho ông Phạm Công M thuê đất theo hợp đồng thuê đất ngày 21/12/2008 tại thửa đất số 08, tờ bản đồ số 183 (nay là thửa đất số 74, tờ bản đồ số 183), phường Q, quận S, Tp. Đà Nẵng, với nội dung như sau |
Tóm tắt Bản án
Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!
Tải văn bản
1
TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH
PHỐ ĐÀ NẴNG
Bản án số: 161/2024/DS - PT
Ngày: 09 – 9 – 2024
V/v “Tranh chấp hợp đồng thuê
đất”.
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG
- Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa: Ông Cao Văn Hiếu
Các Thẩm phán: Bà Trần Thị Thanh Mai
Bà Mai Vương Thảo
- Thư ký phiên tòa: Bà Nguyễn Thị Hồng Diễm, Thư ký Tòa án nhân dân thành
phố Đà Nẵng;
- Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân thành phố Đà Nẵng: Bà Lương Thị Chung
- Kiểm sát viên tham gia phiên toà.
Ngày 09 tháng 9 năm 2024 tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Đà Nẵng xét
xử phúc thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số: 61/2024/TLPT-DS ngày 05 tháng 8
năm 2024 về việc “Tranh chấp hợp đồng thuê đất”.
Do Bản án dân sự sơ thẩm số: 04/2023/DS-PT ngày 30 tháng 3 năm 2023 của
Tòa án nhân dân quận Ngũ Hành Sơn, thành phố Đà Nẵng bị kháng cáo và Quyết
định giám đốc thẩm số: 16/2024/DS-GĐT ngày 16/7/2024 của Tòa án nhân dân cấp
cao tại Đà Nẵng (hủy toàn bộ Bản án dân sự phúc thẩm số: 94/2023/DS-PT ngày
11/8/2023 của Tòa án nhân dân thành phố Đà Nẵng, giao hồ sơ xét xử phúc thẩm
lại).
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số: 158/2024/QĐ-PT ngày 16
tháng 8 năm 2024, Quyết định hoãn phiên tòa phúc thẩm số: 245/2024/QĐ – PT ngày
26 tháng 8 năm 2024, giữa các đương sự:
1. Nguyên đơn: Bà Huỳnh Thị T, sinh năm 1950, CCCD số 04815000xxxx; Địa
chỉ: Tổ 63, phường Q, quận S, thành phố Đà Nẵng.
Người đại diện hợp pháp của nguyên đơn: Ông Hà Đức T1, sinh năm 1984,
CCCD số 04908400xxxx; Địa chỉ: Tổ 63, phường Q, quận S, thành phố Đà Nẵng; Là
người đại diện theo ủy quyền (theo Giấy uỷ quyền lập ngày 19/4/2022 tại Văn phòng
công chứng Trần Quốc V). Bà T và ông T1 cùng có mặt.
2
2. Bị đơn: Ông Phạm Công M, sinh năm 1981; Địa chỉ: Tổ 63, phường Q, quận
S, thành phố Đà Nẵng. Có mặt
3. Những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
3.1. Ông Võ Như S1, sinh năm 1971, CCCD số 04807100xxxx;
3.2. Ông Võ Như D, sinh năm 1978, CCCD số 04807800xxxx;
3.3. Ông Võ Như T2, sinh năm 1980, CCCD số 04808000xxxx;
3.4. Bà Võ Thị Như T3, sinh năm 1990, CCCD số 04819000xxxx;
3.5. Ông Võ Như C, sinh năm 1992, CCCD số 04809200xxxx;
Cùng địa chỉ: Tổ 63, phường Q, quận S, thành phố Đà Nẵng.
- Bà Võ Thị Như H, sinh năm 1972, CCCD số 04817200xxxx; Địa chỉ: Tổ 58,
phường Q, quận S, thành phố Đà Nẵng.
- Bà Võ Thị Như S2, sinh năm 1975, CCCD số 04817500xxxx; Địa chỉ: Tổ 42,
phường E, quận S, thành phố Đà Nẵng.
Người đại diện theo uỷ quyền của các ông/bà Võ Như S1, Võ Thị Như H, Võ Thị
Như S2, Võ Như D, Võ Như T2, Võ Thị Như T3, Võ Như C: Ông Hà Đức T1, sinh năm
1984; Địa chỉ: Tổ 63, phường Q, quận S, thành phố Đà Nẵng. (Theo Giấy uỷ quyền lập
ngày 19/4/2022 tại Văn phòng công chứng Trần Quốc V). Có mặt
- Bà Võ Như T4, sinh năm 1983, CCCD số 04818300xxxx; Địa chỉ: Tổ 63,
phường Q, quận S, thành phố Đà Nẵng. Có mặt
- Bà Ngô Thị P, sinh năm 1985 (vợ ông Phạm Công M); Địa chỉ: Tổ 63, phường
Q, quận S, thành phố Đà Nẵng. Có mặt
- Cháu Phạm Công H1, sinh ngày 30/01/2007; Địa chỉ: Tổ 63, phường Q, quận
S, thành phố Đà Nẵng. Người đại diện hợp pháp của cháu Phạm Công H1: Ông Phạm
Công M và bà Ngô Thị P; Cùng địa chỉ: Tổ 63, phường Q, quận S, thành phố Đà Nẵng.
Có mặt
- Uỷ ban nhân dân phường Q, quận S, thành phố Đà Nẵng; Địa chỉ: Số 423
đường R, phường Q, quận S, thành phố Đà Nẵng. Vắng mặt
4. Do có kháng cáo của: Bị đơn ông Phạm Công M.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
* Theo đơn khởi kiện ngày 18/01/2022, đơn khởi kiện bổ sung ngày 17/02/2022,
các bản trình bày trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa sơ thẩm, đại diện
nguyên đơn trình bày:
Nguyên từ trước năm 1975, vợ chồng Bà T có khai hoang và sử dụng một thửa
đất có diện tích khoảng 490m² tại thửa đất số 64, tờ bản đồ số 18, xã Q, huyện Y, tỉnh
Quảng Nam - Đà Nẵng (cũ), nay là phường Q, quận S, Tp. Đà Nẵng. Năm 1999 Bà T
có cho con là ông Võ Như D với diện tích 302m², được Uỷ ban nhân dân phường xác
nhận. Đến năm 2006, Uỷ ban nhân dân quận S thu hồi đất của gia đình bà với diện
tích 309,9m² (hiện trạng sử dụng đất do con trai - Võ Như D sử dụng).
3
Sau khi thu hồi đất, phần đất còn lại do làm con đường đi vào trường U ngay
giữa thửa đất nên thửa đất tách làm 2 thửa gồm thửa số 114, tờ bản đồ số 183 có diện
tích đất 68,8m² – thửa đất này do con trai bà đang quản lý sử dụng và thửa đất số 74,
tờ bản đồ số 184 có diện tích đất 24,20m² do bà quản lý sử dụng.
Năm 2008, bà Huỳnh Thị T đã cho ông Phạm Công M thuê đất theo hợp đồng
thuê đất ngày 21/12/2008 tại thửa đất số 08, tờ bản đồ số 183 (nay là thửa đất số 74,
tờ bản đồ số 183), phường Q, quận S, Tp. Đà Nẵng, với nội dung như sau: Diện tích
thuê: 21m² (chiều rộng 2m, chiều dài 10,5m) Thời hạn thuê đất: Vô thời hạn, đến khi
nào mảnh đất bị giải toả. Số tiền thuê đất: Năm đầu tiên: 2.400.000đ/năm, những
năm tiếp theo: 3.600.000₫/năm.
Vì không hiểu biết pháp luật và do quan hệ họ hàng nên Hợp đồng thuê đất
không được hai bên công chứng chỉ làm hợp đồng viết tay, từ 2008 cho đến nay ông
Phạm Công M sử dụng đất thuê của bà Huỳnh Thị T để bán quán và trả tiền thuê đất
cho đến hết năm 2019.
Nay, Bà T không còn nhu cầu cho ông Phạm Công M thuê đất nên đã nhiều lần
yêu cầu ông Phạm Công M chấm dứt hợp đồng thuê và trả lại đất cho bà, nhưng ông
Phạm Công M không hoàn trả đất cho Bà T.
Do đó, Bà T đề nghị Tòa án xem xét, giải quyết:
Tuyên chấm dứt Hợp đồng thuê đất ngày 21/12/2008, buộc ông Phạm Công M
trả lại cho bà diện tích 21m² tại thửa đất số 74, tờ bản đồ số 183, phường Q, quận S,
Tp. Đà Nẵng, còn phần đất thừa sau này quá trình sử dụng sẽ xin được điều chỉnh
theo quy định. Bà T không yêu cầu ông M phải tiếp tục trả tiền thuê đất trong thời
gian qua và tự nguyện hỗ trợ cho ông M 100.000.000đ giá trị tài sản trên đất để ông
M bàn giao tài sản trên đất cho bà.
* Bị đơn, ông Phạm Công M trình bày:
Vào ngày 21/12/2008, bà Huỳnh Thị T và 08 người con của bà là các ông, bà
Ông Võ Như S1, bà Võ Thị Như H, bà Võ Thị Như S2, ông Võ Như D, ông Võ Như
T2, bà Võ Thị Như T4, bà Võ Thị Như T3, ông Võ Như C đã thống nhất để ông M
thuê thửa đất có diện tích 21m².
Từ khi có hợp đồng thuê đất, gia đình ông đã xây dựng nhà ở, sinh sống cho
đến nay. Quá trình sử dụng ông luôn thực hiện đúng nghĩa vụ như đã ký kết, không
vi phạm về vấn đề đạo đức cũng như pháp luật và được nhà nước cấp hộ khẩu tại nơi
ở. Ông không đồng ý theo yêu cầu chấm dứt hợp đồng thuê đất và buộc ông phải trả
lại đất cho Bà T. Đề nghị Tòa án giải quyết theo quy định của pháp luật.
* Những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
- Các ông, bà Võ Như S1, Võ Thị Như H, Võ Thị Như S2, Võ Như D, Võ Như T2,
Võ Thị Như T3, Võ Như C do ông Hà Đức T1 đại diện trình bày: Thống nhất theo trình
bày của nguyên đơn bà Huỳnh Thị T.
- Bà Võ Như T4: Thống nhất như trình bày của nguyên đơn bà Huỳnh Thị T.
4
- Bà Ngô Thị P: Thống nhất theo trình bày của bị đơn ông Phạm Công M.
- UBND phường Q: Xin vắng mặt và đề nghị Tòa án xét xử vụ án theo quy định
của pháp luật.
* Với nội dung vụ án như trên, Bản án dân sự sơ thẩm số: 04/2023/DS-ST ngày
30 tháng 3 năm 2023 của Tòa án nhân dân quận Ngũ Hành Sơn, thành phố Đà Nẵng
quyết định:
Căn cứ: Các Điều 166, Điều 422; Điều 474; Điều 468 Bộ luật Dân sự; Điều
271, Điều 272, Điều 273 Bộ luật Tố tụng dân sự; Nghị quyết số:
326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về án phí,
lệ phí Tòa án.
Chấp nhận đơn khởi kiện: "Yêu cầu chấm dứt hợp đồng thuê đất" của bà Huỳnh
Thị T đối với ông Phạm Công M.
Tuyên xử:
[1] Tuyên bố chấm dứt hợp đồng thuê đất, được lập ngày 21/12/2008, đối với
thửa đất số 74, tờ bản đồ số 183, phường Q, quận S, Tp. Đà Nẵng, giữa: Bà Huỳnh
Thị T và ông Phạm Công M.
[2] Buộc ông Phạm Công M phải trả cho bà Huỳnh Thị T toàn bộ diện tích đất
đã thuê, tại thửa đất số 74, tờ bản đồ số 183, thuộc tổ 63, phường Q, quận S, Tp. Đà
Nẵng có diện tích 21m².
[3] Buộc bà Huỳnh Thị T phải thối trả cho ông Phạm Công M 100.000.000đ
(một trăm triệu đồng).
Kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án cho đến khi
thi hành án xong tất cả các khoản tiền, hàng tháng bên phải thi hành án còn phải chịu
khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại khoản 2
Điều 468 Bộ luật Dân sự.
[4] Ngay sau khi bản án có hiệu lực pháp luật, bà Huỳnh Thị T thối trả cho ông
Phạm Công M số tiền 100.000.000₫ thì buộc ông Phạm Công M phải giữ nguyên hiện
trạng tài sản trên đất, bàn giao cho bà Huỳnh Thị T toàn bộ diện tích đất đã thuê và
tài sản gắn liền với đất bao gồm: Căn nhà cấp 4, 02 tầng có diện tích xây dựng
22,88m², diện tích sử dụng 37,36m², 03 cây Bàng. Bà T được quyền sử dụng tài sản
nói trên, ông Phạm Công M không được quyền cản trở.
Ngoài ra, Bản án sơ thẩm còn quyết định về án phí, quyền kháng cáo, quyền và
nghĩa vụ thi hành án theo quy định của pháp luật.
* Ngày 11 tháng 4 năm 2023, Tòa án nhân dân quận Ngũ Hành Sơn nhận được
Đơn kháng cáo của bị đơn ông Phạm Công M kháng cáo toàn bộ Bản án sơ thẩm với
nội dung:
Tòa án cấp sơ thẩm không tiến hành lấy lời khai của bị đơn (ông M) và người
có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan (bà Ngô Thị P và cháu Phạm Công H1 là vợ và con
5
ông M) trước khi đưa vụ án ra xét xử là có vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng về
xác minh, thu thập chứng cứ theo quy định tại Điều 97 Bộ luật Tố tụng dân sự.
Tòa án cấp sơ thẩm đã không xem xét đầy đủ các tài liệu, chứng cứ có liên quan
dẫn đến việc giải quyết vụ án không đúng quy định của pháp luật, vi phạm nghiêm
trọng về thủ tục tố tụng dẫn đến tuyên bản án không khách quan, trái quy định của
pháp luật, làm ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự, nhà nước.
Yêu cầu Tòa án cấp phúc thẩm giải quyết: Tuyên hủy Bản án sơ thẩm để xét
xử lại sơ thẩm.
* Tại Bản án phúc thẩm số: 94/2023/DS-PT ngày 11/8/2023 của Tòa án nhân
dân thành phố Đà Nẵng quyết định:
1. Chấp nhận kháng cáo của ông Phạm Công M; Sửa Bản án sơ thẩm số
04/2023/DS-ST ngày 30 tháng 3 năm 2023 của Tòa án nhân dân quận Ngũ Hành Sơn,
thành phố Đà Nẵng.
1.1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Huỳnh Thị T, tuyên vô hiệu “Hợp
đồng thuê đất” ngày 21/12/2008 lập giữa bà Huỳnh Thị T và các ông, bà: Võ Như
S1, Võ Thị Như H, Võ Thị Như S2, Võ Như D, Võ Như T2, Võ Thị Như T4, Võ Thị
Như P với ông Phạm Công M.
1.2. Không chấp nhận yêu cầu của bà Huỳnh Thị T về việc buộc ông Phạm
Công M phải giao trả diện tích đất tại thửa số 74, tờ bản đồ số 183, tổ 63, phường Q,
quận S, thành phố Đà Nẵng.
Tòa án cấp phúc thẩm còn quyết định về án phí phúc thẩm và trách nhiệm thi
hành án.
* Ngày 10/6/2024, Chánh án Tòa án nhân nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng có
Quyết định số: 16/2024/KN-DS kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm Bản án phúc
thẩm, đề nghị Ủy ban Thẩm phán Tòa án nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng xét xử giám
đốc thẩm sửa Bản án dân sự phúc thẩm số 94/2023/DS-PT ngày 11/8/2023 của Tòa
án nhân dân thành phố Đà Nẵng theo hướng tuyên chấm dứt hợp đồng thuê đất ngày
21/12/2008 giữa ông M với Bà T và các con của Bà T, buộc ông M giao lại diện tích
đất đã thuê 21m² cho Bà T, nhưng vì diện tích đất thực tế thửa 74, tờ bản đồ số 184 là
24,20m² (do Ủy ban nhân dân phường Q quản lý) lớn hơn diện tích đất Bà T cho ông
M thuê nên tạm giao cho Bà T sử dụng 24,20m² đất đến khi Bà T đủ điều kiện được
cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất hoặc khi cơ quan Nhà nước có thẩm quyền
thu hồi đất thì Bà T thực hiện theo quy định của pháp luật, đồng thời ghi nhận sự tự
nguyện của Bà T bồi thường cho ông M 100.000.000 đồng giá trị tài sản trên đất; sau
khi Bà T thanh toán 100.000.000 đồng cho ông M thì Bà T được quyền sử dụng căn
nhà 02 tầng có diện tích đất xây dựng 22,88m², diện tích sử dụng 37,36m², 03 cây
Bàng trên đất và quyền sử dụng đất.
* Tại Quyết định giám đốc thẩm số: 16/2024/DS-GĐT ngày 16/7/2024 của Tòa
án nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng, chấp nhận Quyết định kháng nghị theo thủ tục giám
6
đốc thâm số: 16/KN-DS ngày 10/6/2024 của Chánh án Tòa án nhân nhân dân cấp cao
tại Đà Nẵng, hủy toàn bộ Bản án dân sự phúc thẩm số: 94/2023/DS-PT ngày
11/8/2023 của Tòa án nhân dân thành phố Đà Nẵng, giao hồ sơ xét xử phúc thẩm lại.
Giao hồ sơ vụ án cho Tòa án nhân dân thành phố Đà Nẵng xét xử phúc thẩm lại theo
đúng quy định của pháp luật.
* Tại phiên tòa phúc thẩm xét xử lại:
- Bị đơn ông Phạm Công M giữ nguyên nội dung kháng cáo ngày 11 tháng 4
năm 2023 đề nghị HĐXX tuyên hủy Bản án sơ thẩm để xét xử lại sơ thẩm.
- Bà Huỳnh Thị T và ông Hà Đức T1 người đại diện theo ủy quyền của Bà T
không chấp nhận kháng cáo của bị đơn ông Phạm Công M, đề nghị HĐXX phúc thẩm
căn cứ Quyết định giám đốc thẩm số: 16/2024/DS-GĐT ngày 16/7/2024 của Tòa án
nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng, chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Bà T tuyên chấm dứt
Hợp đồng thuê đất ngày 21/12/2008 giữa ông M với Bà T và các con của Bà T, buộc
ông M giao trả lại diện tích đất thực tế của thửa đất số 74, tờ bản đồ số 183 là 24,20m
2
cùng tài sản trên đất cho Bà T quản lý, sử dụng, Bà T tự nguyện bồi thường cho ông
M 100.000.000 đồng giá trị tài sản trên đất.
- Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân thành phố Đà Nẵng phát biểu ý kiến:
Về thủ tục tố tụng: Những người tiến hành tố tụng và tham gia tố tụng tại cấp
phúc thẩm đã thực hiện đúng, đầy đủ quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự trong quá
trình giải quyết vụ án tại cấp phúc thẩm.
Về nội dung vụ án: căn cứ khoản 2 Điều 308 BLTTDS, đề nghị HĐXX phúc thẩm
tuyên: Không chấp nhận kháng cáo của bị đơn ông Phạm Công M, sửa 01 phần Bản án dân
sự sơ thẩm số 04/2023/DS-ST ngày 30.3.2023 của TAND quận Ngũ Hành Sơn như
sau:
Tuyên bổ sung nội dung: Buộc ông Phạm Công M phải trả cho bà Huỳnh Thị T
toàn bộ diện tích đất đã thuê, tại thửa đất số 74, tờ bản đồ số 183, thuộc tổ 63, phường
Q, quận S, TP. Đà Nẵng có 24,2m
2
;
Buộc ông Phạm Công M, bà Ngô Thị P, Phạm Công H1 bàn giao ngôi nhà cấp
4, hai tầng có diện tích 22,8m
2
và 03 cây bàng trên thửa đất số 74 cho bà Huỳnh Thị
T.
Tạm giao cho bà Huỳnh Thị T diện tích đất 24,2m
2
và ngôi nhà cấp 4, hai tầng
có diện tích 22,8m
2
và 03 cây bàng tại thửa đất số 74, tờ bản đồ số 183, thuộc tổ 63,
phường Q, quận S, TP. Đà Nẵng.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
[1] Xét kháng cáo của bị đơn ông Phạm Công M.
[1.1] Về kháng cáo của ông Phạm Công M cho rằng Tòa án cấp sơ thẩm không
tiến hành lấy lời khai của bị đơn (ông M), người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan gồm:
Ngô Thị P và Phạm Công H1 (vợ và con ông M) là vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố
tụng theo quy định tại Điều 97 BLTTDS.
7
Xét thấy, quá trình giải quyết vụ án tại cấp sơ thẩm, bị đơn ông Phạm Công M
và bà Ngô Thị P (vợ ông M) là người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan đã có bản tự
khai trình bày ý kiến của mình đối với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, nên Tòa án
cấp sơ thẩm không tiến hành lấy lời khai ông M, bà Phượng là đúng theo quy định tại
điểm a, khoản 2 Điều 97, khoản 1 Điều 98 BLTTDS. Đối với cháu Phạm Công H1,
sinh năm 2007, chưa đủ 18 tuổi nên ông M và bà P (là cha mẹ ruột) là đại diện theo
pháp luật tham gia tố tụng, đã có bản tự khai. Tại phiên tòa phúc thẩm, ông M, bà P
xác định cháu H1 còn đi học không đóng góp gì vào tài sản nguyên đơn có tranh chấp.
Do đó, ông M kháng cáo cho rằng Tòa án cấp sơ thẩm có vi phạm nghiêm trọng thủ
tục tố tụng là không có cơ sở.
[1.2] Theo Đơn khởi kiện của nguyên đơn bà Huỳnh Thị T, trình bày của người
đại diện hợp pháp của nguyên đơn và các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, gồm
Quyết định số 50/QĐ-UBND ngày 24/3/2006 của UBND quận Ngũ Hành Sơn về việc
thu hồi 309,9m
2
đất thuộc thửa đất số 64 (thửa số 08, tờ bản đồ 183) do con trai Bà T
là anh Võ Như D đứng tên sử dụng, Công văn số: 745/CCT-KKTH ngày 10/6/2020,
Chi cục Thuế khu vực Sơn Trà - Ngũ Hành Sơn, Quyết định giải quyết khiếu nại số:
7138/QĐ-UBND ngày 31/12/2021 của Ủy ban nhân dân quận Ngũ Hành Sơn và Biên
bản làm việc của đại diện Ủy ban nhân dân phường Q và Tòa án nhân dân cấp cao tại
Đà Nẵng vào ngày 19/4/2024 có cơ sở xác định: gia đình bà Huỳnh Thị T sử dụng
thửa đất số 64, tờ bản đồ số 18 đo theo Nghị định 64/CP, có diện tích 490m
2
loại đất
màu, do UBND xã Q (nay là phường Q) quản lý. Năm 2006 Ủy ban nhân dân quận
Ngũ Hành Sơn thu hồi 309,9m
2
đất của gia đình Bà T (có bồi thường) để mở đường
đi vào Trường U nên diện tích đất còn lại bị tách thành 2 thửa gồm thửa số 114, tờ
bản đồ số 183, diện tích 68,8m
2
do anh Võ Như D (con trai Bà T) quản lý, sử dụng và
thửa số 74, tờ bản đồ số 183, diện tích 24,2m
2
do Bà T quản lý sử dụng. Thửa đất 74
này tuy vẫn thuộc quyền sử dụng của Nhà nước, nhưng Bà T là người quản lý sử dụng
đất trên thực tế.
[1.3] Ngày 21/01/2008 bà Huỳnh Thị T và các con ký Hợp đồng cho ông Phạm
Công M thuê thửa đất 74, tờ bản đồ số 183 nêu trên. Như vậy, ông M sử dụng thửa
đất 74 trên cơ sở thuê đất từ bà gia đình T. Hiện nay Nhà nước chưa có kế hoạch sử
dụng thửa đất này và chưa có quyết định thu hồi đất phục vụ mục đích khác. Do đó,
Tòa án cấp sơ thẩm chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Bà T tuyên chấm dứt Hợp đồng
thuê đất ngày 21/12/2008, buộc ông M trả lại Bà T thửa đất 74, tờ bản đồ số 183 có
cơ sở như nhận định tại Quyết định giám đốc số: 16/2024/DS-GĐT ngày 16/7/2024
của TAND Cấp cao tại Đà Nẵng. Do đó, HĐXX không chấp nhận kháng cáo của bị
đơn ông Phạm Công M
Tuy nhiên, vì thửa đất trên Bà T chưa được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng
đất nên lẽ ra Bản án sơ thẩm chỉ tuyên tạm giao Bà T quản lý, sử dụng thửa đất. Đồng
thời trên đất ông M xây dựng ngôi nhà cấp 04, hai tầng có diện tích xây dựng 22,8m
2
và trồng 03 cây bàng có tổng giá trị tài sản trên đất theo kết quả định giá là
8
78.435.693đ. Quá trình giải quyết tại cấp sơ thẩm, Bà T tự nguyện bồi thường cho
ông M tổng giá trị xây dựng và cây trồng là 100.000.000đ. Bản án sơ thẩm giao cho
Bà T quản lý, sử dụng thửa đất 74, nhưng không giao quyền sử dụng ngôi nhà và 03
cây bàng cho Bà T là không phù hợp.
Ngoài ra, theo trích lục Bản đồ địa chính (trích lục tại Văn Phòng đăng ký đất
đai quận Ngũ Hành Sơn (BL 313) thì thửa đất số 74, tờ bản đồ số 183 có diện tích
24,20m
2
, nhưng Bản sơ thẩm chỉ tuyên buộc ông M trả lại diện tích 21m
2
là không
phù hợp với diện tích thực tế của thửa đất.
[2] Từ những phân tích nhận định trên, HĐXX chấp nhận ý kiến trình bày của
bà Huỳnh Thị T cùng đại diện Bà T tại phiên tòa và ý kiến của đại diện Viện kiểm sát
nhân dân thành phố Đà Nẵng; Không chấp nhận toàn bộ nội dung kháng cáo của bị
đơn ông Phạm Công M cũng như ý kiến của ông M tại phiên tòa; Sửa một phần Bản
án dân sự sơ thẩm số: 04/2023/DS-ST ngày 30.3.2023 của TAND quận Ngũ Hành
Sơn theo hướng nhận định trên.
[3] Về án phí và chi phí tố tụng:
[3.1] Án phí dân sự sơ thẩm: Ông Phạm Công M phải chịu án phí dân sự sơ
thẩm là 300.000đ (ba trăm ngàn đồng) do yêu cầu khởi kiện của bà Huỳnh Thị T được
chấp nhận, theo quy định tại Điều 147 Bộ luật Tố tụng dân sự, Điều 26 Nghị quyết
số: 326/2016/NQ- UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội.
Bà Huỳnh Thị T đã trên 60 tuổi nên được miễn án phí theo quy định tại điểm đ
khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số: 326/2016/NQ- UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy
ban Thường vụ Quốc hội.
[3.2] Về án phí phúc thẩm. Căn cứ khoản 1 Điều 29 Nghị quyết số:
326/2016/NQ- UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, bị
đơn ông Phạm Công M phải chịu án phí phúc thẩm là 300.000đ do kháng cáo không
được chấp nhận.
[3.3] Chi phí thẩm định giá và xem xét, thẩm định tại chỗ nguyên đơn bà Huỳnh
Thị T tự nguyện chịu (đã nộp và chi xong).
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ: Khoản 2 Điều 308 Bộ luật tố tụng dân sự;
Không chấp nhận toàn bộ kháng cáo của bị đơn ông Phạm Công M.
Sửa một phần Bản án dân sự sơ thẩm số: 04/2023/DS-ST ngày 30 tháng 3 năm
2023 của Tòa án nhân dân quận Ngũ Hành Sơn, thành phố Đà Nẵng.
Căn cứ: Các Điều 166, Điều 422; Điều 474; Điều 468 Bộ luật Dân sự; Điều
271, Điều 272, Điều 273 Bộ luật Tố tụng dân sự; Nghị quyết số:
326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về án phí,
lệ phí Tòa án.
9
Chấp nhận đơn khởi kiện: "Yêu cầu chấm dứt hợp đồng thuê đất" của bà Huỳnh
Thị T đối với ông Phạm Công M.
Tuyên xử:
1. Tuyên bố chấm dứt Hợp đồng thuê đất, được lập ngày 21/12/2008, đối với
thửa đất số 74, tờ bản đồ số 183, phường Q, quận S, Tp. Đà Nẵng, giữa bà Huỳnh Thị
T và ông Phạm Công M.
Buộc ông Phạm Công M, bà Ngô Thị P, cháu Phạm Công H1 phải trả cho bà
Huỳnh Thị T toàn bộ diện tích đất đã thuê tại thửa đất số 74, tờ bản đồ số 183, thuộc
tổ 63, phường Q, quận S, thành phố Đà Nẵng có diện tích 24,20m
2
; Và bàn giao ngôi
nhà cấp 4, hai tầng có diện tích 22,8m
2
, diện tích sử dụng 37,36m² và 03 cây bàng
trên thửa đất số 74, tờ bản đồ số 183 cho bà Huỳnh Thị T.
2. Bà Huỳnh Thị T phải thối trả cho ông Phạm Công M 100.000.000đ (một
trăm triệu đồng). Sau khi bà Huỳnh Thị T thanh toán 100.000.000 đồng cho ông Phạm
Công M thì Bà T được quyền sử dụng căn nhà 02 tầng có diện tích đất xây dựng
22,88m², diện tích sử dụng 37,36m², 03 cây Bàng trên đất và quyền sử dụng đất.
Kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án cho đến khi
thi hành án xong tất cả các khoản tiền, hàng tháng bên phải thi hành án còn phải chịu
khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại khoản 2
Điều 468 Bộ luật Dân sự.
3. Tạm giao cho bà Huỳnh Thị T sử dụng 24,20m² đất tại thửa đất số 74, tờ bản
đồ số 183, phường Q, quận S, thành phố Đà Nẵng đến khi Bà T đủ điều kiện được
cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất hoặc khi cơ quan Nhà nước có thẩm quyền
thu hồi đất thì Bà T phải thực hiện theo quy định của pháp luật.
4. Về chi phí tố tụng: Chi phí thẩm định giá và xem xét, thẩm định tại chỗ
nguyên đơn bà Huỳnh Thị T tự nguyện chịu (đã nộp và chi xong).
5. Án phí dân sự:
5.1. Về án phí dân sự sơ thẩm:
Ông Phạm Công M phải chịu án phí dân sự sơ thẩm là 300.000đ (Ba trăm ngàn
đồng).
Hoàn trả lại cho bà Huỳnh Thị T số tiền tạm ứng án phí sơ thẩm đã nộp là
300.000 đồng, theo Biên lai thu số 0001189 ngày 15/3/2022 của Chi cục Thi hành án
quận Ngũ Hành Sơn, thành phố Đà Nẵng.
5.2. Án phí phúc thẩm: ông Phạm Công M phải chịu 300.000đ, được trừ vào số
tiền tạm ứng án phí phúc thẩm đã nộp là 300.000 đồng, theo biên lai thu số 0009640
ngày 13/4/2023 của Chi cục Thi hành án dân sự quận Ngũ Hành Sơn, thành phố Đà
Nẵng.
6. Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
7 Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án
dân sự thì người được thi hành án, người phải thi hành án có quyền thỏa thuận thi
10
hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc cưỡng chế thi hánh
án theo quy định tại Điều 6,7,9 Luật thi hành án dân sự. Thời hiệu thi hành án được
thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.
Nơi nhận:
- Các đương sự;
- VKSND TP. Đà Nẵng;
- Chi Cục THADS quận Ngũ Hành Sơn;
- Tòa án nhân dân quận Ngũ Hành Sơn;
- Lưu hồ sơ vụ án.
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM
THẨM PHÁN - CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
(đã ký)
Cao Văn Hiếu
Tải về
Bản án số 161/2024/DS-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án số 161/2024/DS-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án/ Quyết định cùng đối tượng
1
Ban hành: 12/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
2
Ban hành: 20/11/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
3
Ban hành: 12/11/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
4
Ban hành: 22/10/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
5
Ban hành: 30/09/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
6
Ban hành: 29/09/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
7
Ban hành: 20/09/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
8
Ban hành: 19/09/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
9
Ban hành: 11/09/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
10
Ban hành: 11/09/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
11
Ban hành: 11/09/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
12
Ban hành: 06/09/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
13
Ban hành: 29/08/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
14
Ban hành: 27/08/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
15
Ban hành: 26/08/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
16
Ban hành: 22/08/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
17
Ban hành: 21/08/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
18
Ban hành: 16/08/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
19
Ban hành: 15/08/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm