Bản án số 159/2025/DS-PT ngày 17/03/2025 của TAND tỉnh Bến Tre về tranh chấp quyền sử dụng đất

  • Thuộc tính
  • Nội dung
  • VB gốc
  • VB liên quan
  • Lược đồ
  • Đính chính
  • Án lệ
  • BA/QĐ cùng nội dung
  • Tải về
Tải văn bản
Báo lỗi
  • Gửi liên kết tới Email
  • Chia sẻ:
  • Chế độ xem: Sáng | Tối
  • Thay đổi cỡ chữ:
    17

Thuộc tính Bản án 159/2025/DS-PT

Tên Bản án: Bản án số 159/2025/DS-PT ngày 17/03/2025 của TAND tỉnh Bến Tre về tranh chấp quyền sử dụng đất
Quan hệ pháp luật: Tranh chấp quyền sử dụng đất
Cấp xét xử: Phúc thẩm
Tòa án xét xử: TAND tỉnh Bến Tre
Số hiệu: 159/2025/DS-PT
Loại văn bản: Bản án
Ngày ban hành: 17/03/2025
Lĩnh vực: Dân sự
Áp dụng án lệ:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Đính chính:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Thông tin về vụ/việc: Chấp nhận kháng cáo của bị đơn, sửa 1 phần bản án ST
Tóm tắt Bản án

Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!

Tải văn bản

1
TÒA ÁN NHÂN DÂN
TỈNH BẾN TRE
Bản án số: 159/2025/DS-PT
Ngày: 17 - 3 - 2025
V/v tranh chấp quyền sử dụng đất
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH BẾN TRE
- Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa:
Ông Nguyễn Chí Đức
Các Thẩm phán:
Bà Lê Thị Thu Hương
Nguyễn Thị Rẻn
- Thư phiên tòa: Huỳnh Triệu Anh Thư - Thư Tòa án nhân n
tỉnh Bến Tre.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bến Tre tham gia phiên tòa: Ông
Nguyễn Khắc Phiên - Kiểm sát viên.
Ngày 17 tháng 3 m 2025, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Bến Tre xét xử
phúc thẩm công khai vụ án dân sự thụ số: 618/2024/TLPT-DS ngày 20 tháng
12 năm 2024 về “Tranh chấp quyền sử dụng đất”.
Do Bản án dân sự thẩm số: 113/2024/DS-ST ngày 17 tháng 10 năm 2024
của Tòa án nhân dân huyện Mỏ Cày Bắc, tỉnh Bến Tre bị kháng cáo.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số: 325/2024/QĐXXPT-DS
ngày 22 tháng 01 năm 2025, giữa các đương sự:
- Nguyên đơn:
Huỳnh Thị G, sinh năm 1959 (có mặt);
Địa chỉ: ấp V, xã K, huyện M, tỉnh Bến Tre.
- Bị đơn:
Lê Thị B, sinh năm 1943; Anh Tạ Đăng Đ, sinh năm 1985 (có mặt);
Địa chỉ: ấp V, xã K, huyện M, tỉnh Bến Tre.
Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho bà Lê Thị B:
Đoàn Thị Ngọc D Trợ giúp viên pháp của Trung tâm Trợ giúp pháp
lý nhà nước tỉnh B (có mặt);
- Người làm chứng do bị đơn tự triệu tập:
2
Ông Lê Châu S, sinh năm 1963 (có mặt);
Địa chỉ: ấp V, xã K, huyện M, tỉnh Bến Tre.
- Người kháng cáo: Bị đơn bà Lê Thị B, anh Tạ Đăng Đ.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Theo nội dung bản án sơ thẩm,
Theo đơn khởi kiện ngày 26/3/2024, đơn khởi kiện sửa đổi bổ sung ngày các
lời khai trong quá trình giải quyết vụ án cũng như tại phiên tòa, nguyên đơn
Huỳnh Thị G trình bày:
Phần đất đang tranh chấp thuộc một phần thửa số 344, tờ bản đồ số 14, tọa
lạc tại ấp V, xã K, huyện M, tỉnh Bến Tre do Huỳnh Thị G đứng tên quyền sử
dụng đất được Sở Tài nguyên Môi trường tỉnh B cấp giấy chứng nhận quyền
sử dụng đất ngày 23/4/2020 diện tích 696,4m
2
.
Đất có nguồn gốc của cha chồng bà G là Lê Văn P để lại cho chồng bà là
Văn S1. Đất này đất thổ mộ cho những người trong htộc chôn. Ông S1 quản
lý, trông coi đất từ khi ông P chết năm 1984, đến năm 2012 ông S1 chết. Sau
khi ông S1 chết, phần đất này bà G người trực tiếp quản lý, trông coi.
Thị B và anh Tạ Đăng Đ là bà con với ông S1, bà B là cô họ của ông S1.
Khi ông S1 còn sống, trước năm 2002, không nhớ chính xác năm nào, em
của ông S1Lê Châu Ẩ (ông đã chết) tự ý cho bà B vào trồng cỏ trên phần đất
tranh chấp này. Khi đó ông S1 không đồng ý nhưng do bà B chỉ trồng cỏ nên ông
S1 cũng không nói gì. Đến khoảng năm 2010, nhà nước yêu cầu khai đăng
để cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, ông S1 đã khai nhưng chưa
được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Sau khi ông S1 chết, UBND K
T mới yêu cầu các con của ông S1 đến làm thủ tục và bà G1 được cấp giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất ngày 23/4/2020.
B và anh Đ trồng cỏ trên phần đất trống không thổ mộ từ trước năm
2002 đến nay. Phần đất này hiện nay đang tranh chấp diện tích khoảng 255m
2
B anh Đ vẫn còn đang quản lý, canh tác đất. Cụ thể: B trồng cỏ để cho
ăn, trồng một số cây dừa nhỏ vào ngày 06/11/2023 nhưng bà G đến yêu cầu
không được trồng thì anh Đ không đồng ý và dùng dao đuổi bà đi. Tiếp đó, anh Đ
kéo rào lưới mùng đen xung quanh phần đất đang tranh chấp. Trước đó, B
trồng 02 cây dừa lớn tại thời điểm em ông S1 cho bà B trồng cỏ nhưng sau đó
G yêu cầu B đốn 02 cây dừa này B đã đốn. Hiện nay trên đất đang
tranh chấp có 02 ngôi mộ của chồng bà B và của vợ trước của chồng bà B.
Ủy ban nhân dân xã K T đã hòa giải, giải quyết tranh chấp nhưng không
thành. Bà B và anh Đ cho rằng, phần đất tranh chấp này là của bà B, do bà B mua
của ông Lê Châu .
Nay bà G1 yêu cầu Tòa án giải quyết:
3
Buộc Thị B anh Tạ Đăng Đ trả lại quyền sử dụng đất đối với phần
đất phần đất theo đo đạc thực tế diện tích 258,2m
2
, thuộc thửa 344A, tờ bản
đồ số 14, nằm trong thửa đất số 344, tờ bản đồ số 14, tọa lại tại ấp V, xã K, huyện
M, tỉnh Bến Tre đã được Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh B cấp giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà tài sản gắn liền với đất ngày
23/4/2020 cho bà Huỳnh Thị G1. Yêu cầu bà Lê Thị B và anh Tạ Đăng Đ tháo dỡ
hàng rào đã xây dựng, không được trồng cỏ, trả lại hiện trạng đất như ban đầu.
Do con đã xác định đất thổ mộ của gia đình nên không yêu cầu di
dời hai ngôi mộ đã lập trên phần đất tranh chấp.
Tại phiên tòa, bà G không yêu cầu trả lại hiện trạng đất nban đầu.
không biết số lượng cát bơm trên phần đất tranh chấp là bao nhiêu nhưng bà đồng
ý hoàn trả tiền bơm cát cho B, anh Đ là 10.000.000 đồng; bồi thường dừa theo
giá của Hội đồng định giá.
Tại các bản tự khai các lời khai trong quá trình giải quyết vụ án, bị đơn
Lê Thị B và anh Tạ Đăng Đ trình bày:
Phần đất tranh chấp thuộc một phần thửa số 344, tờ bản đồ số 14, tọa lạc tại
ấp V, K, huyện M, tỉnh Bến Tre do G đứng tên quyền sử dụng đất được Sở
Tài nguyên Môi trường tỉnh B cấp năm 2020, diện tích đất tranh chấp
255m
2
.
Đất nguồn gốc của ông Châu , hiện nay B không chứng cứ
chứng minh đất đang tranh chấp lúc đó của ông Ẩ. Năm 1990 ông sang
nhượng cho bà B đất diện tích khoảng 1.400m
2
. Khi ông bán cho B
không bán phần thổ mộ, chỉ bán phần đất trống không thổ mộ. Lúc ông bán
cho B giấy tờ bán nhưng hiện nay do đã bán vài nền ntrên phần đất ông
đã bán cho B đã đưa để làm thủ tục sang nhượng, vậy nay giấy tnày
không còn.
Phần thổ mộ hiện nay rất nhiều mộ không đếm nên không biết số lượng
bao nhiêu. Vì đất thổ mộ nên để cho dòng họ cùng chôn nhưng khi bà G được cấp
quyền sử dụng đất G không cho ai chôn nữa. Phần đất trống còn lại chỉ còn
chôn khoảng 05 06 cái mộ. Đất ông bán cho B khi B canh tác B
làm thổ mộ riêng và có chôn chồng bà B và vợ trước của ông T1.
Đất đang tranh chấp khi ông canh tác dùng để gieo mạ, trồng bắp, khoai,
. Khi mua đất đã 04 cây dừa do ông trồng sẵn, đến khi điện lực kéo dây
không an toàn nên yêu cầu bà B đốn 02 cây, thời gian sau này bà đốn tiếp 02 cây
còn lại, hiện nay các cây dừa ông Ẩ trồng không còn.
Suốt quá trình B canh tác trên đất G không ý kiến gì. Thời điểm
B vào quản , canh tác đất ông S1 vẫn còn sống. Ông Sáng qua L để coi ngó
phần đất thổ mộ không nói gì đối với phần đất trống bà đang quản lý, canh tác.
Trước khi ông S1 chết, phần đất tranh chấp phần thổ mộ chưa được cấp
quyền sử dụng đất cho ai. Vì lúc đó đất thổ mộ nên không cấp quyền sử dụng
4
đất cho ai mà do tất cả con cháu, dòng họ cùng quản lý, chăm sóc. Đến năm 2012
ông S1 chết, gia đình bà B vẫn tiếp tục canh tác.
Năm 2020 bà G đến Ủy ban nhân dân K T hỏi đất này cấp quyền sử
dụng cho ai chưa. Ủy ban K T cho biết chưa cấp quyền sử dụng cho ai. G
kê khai để cấp quyền sử dụng đất nhưng do là đất thổ mộ nên không cấp quyền sử
dụng đất cho G. Sau đó, bà G khai đất trồng cây lâu năm nên mới được cấp
quyền sử dụng vào năm 2020.
Khi bà G được cấp quyền sử dụng đất bà G mới tranh chấp và yêu cầu bà B,
anh Đ trả đất cho G. Tại thời điểm G làm thủ tục cấp giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất bà B và anh Đ không biết, anh em dòng họ cũng không ai biết
nên không ai ý kiến gì. Hiện nay đất tranh chấp bà anh Đ đang quản lý sử
dụng.
Nay đối với yêu cầu của bà G, bà B không đồng ý, vì phần đất này ông đã
sang nhượng lại cho vào năm 1990. Nguồn gốc đất của ông Châu P1 để
lại cho con là Châu , ông mới sang nhượng đất này cho như đã trình
bày, phần đất này không liên quan đến ông S1 G. Ông đã chết. Ông S
với ông ông em ruột của ông S1, chồng G. Bà với ông S1 con
dòng họ.
Khi làm thủ tục cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất này, bà G đã lừa dối
yêu cầu giáp ranh để G làm thủ tục cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng
phần đất khác của G1, phần đất này giáp với đất của anh Đ chứ không phải đất
thổ mộ đang tranh chấp. B không biết nên đã ranh cho G và G sử
dụng biên bản giáp ranh này để làm thủ tục cấp quyền sdụng đất cho G
phần đất đang tranh chấp.
Phần đất ông bán cho bà bán toàn bộ thửa đất. Phần đất ông bán
phần đất trống gồm phần đất bên ngoài thổ mộ đã được cấp giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất cho B đã bán hết, đến phần đất thổ mộ ông không
bán, tiếp đến phần đất bên trong thổ mộ phần đất trống hiện nay đang tranh
chấp, chưa được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, sau này cấp cho bà G.
Anh Đ đồng ý với lời trình bày của bà B.
Tại Bản án dân sự sơ thẩm số: 113/2024/DS-ST ngày 17 tháng 10 năm 2024
của Tòa án nhân dân huyện Mỏ Cày Bắc, tỉnh Bến Tre đã tuyên:
1. Chấp nhận yêu cầu của Huỳnh Thị G đối với phần đất diện tích
258,2m
2
, thuộc một phần thửa 344(14), toạ lạc tại ấp V, K, huyện M, tỉnh Bến
Tre, được ký hiệu trên hoạ đồ hiện trạng sử dụng đất là thửa 344A.
Buộc Thị B anh Tạ Đăng Đ tháo dỡ, di dời hàng rào 03 mặt cọc
tre lưới nhựa trả cho Huỳnh Thị G phần đất có diện tích 258,2m
2
thuộc
một phần thửa 344(14), toạ lạc tại ấp V, K, huyện M, tỉnh Bến Tre, được
hiệu trên hoạ đồ hiện trạng sử dụng đất là thửa 344A.
5
Huỳnh Thị G được quyền sử dụng phần đất diện tích 258,2m
2
, thuộc
một phần thửa 344(14), toạ lạc tại ấp V, K, huyện M, tỉnh Bến Tre, được
hiệu trên họa đồ hiện trạng sử dụng đất thửa 344A (Có họa đồ hiện trạng sử
dụng đất kèm theo).
2. Ghi nhận Huỳnh Thị G tự nguyện hoàn trả cho Thị B anh Tạ
Đăng Đ stiền 10.000.000đ (Mười triệu đồng) giá trị phần cát bơm trên đất
330.000 đ (Ba trăm ba mươi ngàn đồng) giá trị 05 (năm) cây dừa. Tổng số tiền bà
Huỳnh Thị G hoàn trả cho Thị B anh Tạ Đăng Đ 10.330.000đ (Mười
triệu ba trăm ba mươi ngàn đồng).
Ghi nhận Huỳnh Thị G không yêu cầu Thị B anh Tạ Đăng Đ di
dời 02 (hai) ngôi mộ trên phần đất thuộc một phần thửa 344(14), toạ lạc tại ấp V,
K, huyện M, tỉnh Bến Tre, được hiệu trên họa đồ hiện trạng sử dụng đất
thửa 344A.
Ngoài ra, bản án còn tuyên về chi phí tố tụng, án phí và quyền kháng cáo của
các đương sự.
Ngày 30/10/2024, bị đơn Thị B, anh Tạ Đăng Đ kháng cáo toàn bộ
bản án sơ thẩm, yêu cầu sửa án sơ thẩm theo hướng không chấp nhận toàn bộ yêu
cầu khởi kiện của nguyên đơn.
Tại phiên tòa phúc thẩm, bị đơn vẫn giữ nguyên nội dung kháng cáo.
Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho bị đơn bà Lê Thị B trình bày:
Đất nguồn gốc của cụ Văn P cho ông Lê Châu . Năm 1990 ông
sang nhượng cho B phần đất diện tích 1.400m
2
. Khi ông bán cho B
không bán phần thổ mộ, chỉ bán phần đất trống không thổ mộ, bao gồm luôn
phần đất tranh chấp thửa 344. Việc cụ P giao cho ông S1 phần đất này chỉ
giao cho ông S1 quản đất thổ mộ của họ tộc nhưng ông S1 đi đăng khai
để được cấp đất bao gồm đất thổ mộ của họ tộc là không đúng, lúc ông S1 đi đăng
ký kê khai gia đình của bị đơn cũng hoãn toàn không biết.
Gia đình của bị đơn đã sử dụng đất này từ năm 1997 đến nay và mộ của ông
T1 cũng được chôn trên phần đất này. Việc Sở Tài nguyên Môi trường tỉnh B
cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho bà Huỳnh Thị G đất trồng cầy lâu
năm là sai mục đích sử dụng đất vì đất này là đất thổ mộ, có rất nhiều mộ trên đất
này, không có trồng cây lâu năm, cũng không có nhà ở trên đất.
Các nhân chứng cũng xác nhận đất nguồn gốc của ông bán cho bà B,
ông T1, bị đơn đã quản sử dụng đất từ năm 1997 đến nay nguyên đơn
không quản lý, sử dụng đất, do đó Tòa thẩm chấp nhận u cầu khởi kiện của
nguyên đơn làm ảnh hưởng đến quyền lợi ích hợp pháp của bị đơn, nên đ
nghị Tòa phúc thẩm sửa toàn bộ bản án thẩm, không chấp nhận toàn bộ yêu
cầu khởi kiện của nguyên đơn.
6
Quan điểm của Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bến Tre:
V t tụng: Những người tiến hành ttụng đã tuân thủ đúng quy định của
Bộ luật Tố tụng dân sự, những người tham gia tố tụng đã thực hiện đúng các
quyền và nghĩa vụ được quy định tại Bộ luật Tố tụng dân sự.
Về nội dung: Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 Điều 308 của Bộ
luật Tố tụng dân sự năm 2015, không chấp nhận kháng cáo của bị đơn, giữ
nguyên bản án sơ thẩm.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Sau khi nghiên cứu các tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra
tại phiên tòa; căn cứ vào kết quả tranh tụng của các bên đương sự, xét kháng cáo
của bị đơn và đề nghị của Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bến Tre. Hội
đồng xét xử nhận định:
[1] V t tụng: Bị đơn Thị B, anh Tạ Đăng Đ kháng cáo thực hiện
các thủ tục kháng cáo hợp lệ, trong thời hạn luật định nên được xem xét giải
quyết theo trình tự phúc thẩm.
[2] V ni dung:
[2.1] Về nguồn gốc đất:
Các đương sự thống nhất nguồn gốc đất tranh chấp là của cha chồng G
cụ Văn P. Theo G, cụ P đlại phần đất đang tranh chấp cho chồng G
ông Văn S1. G tnh bày cụ P cho đất ông S1 nhưng không chứng cứ
chứng minh. Theo anh Đ, cụ P cho đất cho ông Ẩ sau đó ông Ẩ bán cho ông T1
cha của anh Đ, vậy anh Đ B mới vào quản lý, canh tác trên đất nhưng
cũng không có chứng cứ chứng minh.
[2.2] Về quá trình sử dụng đất:
G trình bày, ông S1 sau khi được cụ P cho đất thì trực tiếp quản lý, canh
tác trên đất từ năm 1984 đến năm 2012 ông S1 chết. Sau khi ông S1 chết, phần
đất này bà G là người trực tiếp quản lý, trông coi và đã được cấp giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất năm 2020. Trước năm 2002, ông cho B, anh Đ vào canh
tác trên đất. Do bà con họ hàng và B, anh Đ chỉ trồng cây ngắn ngày, hoa màu
để cải thiện cuộc sống mặc dù không đồng ý nhưng ông S1 cũng không nói gì.
B, anh Đ cho rằng, năm 1990 ông sang nhượng cho B đất diện
tích khoảng 1.400m
2
. Ông bán cho bà B n toàn bộ thửa đất, gồm phần đất
trống giáp với đất thổ mộ (hiện nay thửa 661 trên họa đồ hiện trạng sử dụng
đất) đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho B (đã bán cho người
khác) phần đất trống hiện nay đang tranh chấp (thửa 344A) chưa được cấp
giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho B. Còn phần đất thổ mộ (thửa
344B) ông không bán.
7
G, anh Đ đều xác định B, anh Đ người trực tiếp canh tác trên đất
tranh chấp nhưng lý do bà B, anh Đ được vào canh tác phần đất này thì khác nhau
như đã nêu trên và không có chứng cứ chứng minh.
Người làm chứng cho B, anh Đ ông Châu S làm chứng ông đã
bán phần đất đang tranh chấp cho ông T1 như lời trình bày của anh Đ. Tuy nhiên,
tại phiên tòa, ông S xác định, ông S là em chồng của G, giữa bà G và ông S
sự buồn vui, không hài lòng với nhau. Nguyên nhân do ông S thiếu tiền của
G đến nay chưa trả hết, bà G nhiều lần đến yêu cầu trả nhưng ông chưa trả nên bà
G lời lẽ không vui, ông không hài lòng. Do vậy, lời làm chứng của ông S
không đảm bảo tính khách quan nên không căn cứ xem xét lời trình bày của
ông S.
[2.3] Về quy trình cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất:
Theo “Sổ mục kê” theo Luật đất đai năm 1993, ông Văn S1 đăng
khai phần đất diện tích 910m
2
thuộc thửa 2626(3) tại ấp V, loại đất cây lâu
năm. Ngày 10/3/1998, hộ ông Văn S1 được cấp giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất số M 080976, thửa đất s2626(3), diện tích 910m
2
, tọa lạc tại p V,
K, huyện M (nay huyện M), tỉnh Bến Tre theo Quyết định số 01/UB-ngày
10/3/1998 của Ủy ban nhân dân huyện M (nay huyện M) về việc cấp giy
chứng nhận quyền sử dụng đất.
Về trình tự, thủ tục cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của y ban nhân
dân huyện M phù hợp với quy định tại Điều 36 Luật đất đai 1993; Mục I Phần II
Thông số: 346/1998/TT-TCĐC ngày 16/3/1998 của Tổng cục địa chính về
hướng dẫn thủ tục đăng đất đai, lập hồ địa chính cấp giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất.
Ngoài ra, tại “Biên bản công khai” ngày 09/4/1997 Hội đồng xét cấp giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất đã niêm yết công khai danh sách 276 hộ dân đăng
cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất trong đó hộ ông Văn S1. Hồ
thể hiện, không khiếu nại đối với danh sách hộ dân đăng cấp giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất.
Tại “Giấy chứng tử” số 54, Quyển số 01 ngày 20/7/2012 của Ủy ban nhân
dân K Tân thể hiện ông Văn S1 chết ngày 11/7/2012. Ngày 10/11/2012,
G những người thừa kế theo pháp luật của ông Sáng lập “Văn bản phân chia
tài sản thừa kế” thống nhất để lại phần đất thuộc thửa 2626(3), loại đất CLN cho
Huỳnh Thị G thừa kế phần đất trên. Ngày 02/01/2014 bà Huỳnh Thị G được
Ủy ban nhân dân huyện M cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu
nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất thửa đất số 2626(3) diện tích 910m
2
.
Ngày 02/5/2019, bà G Đơn đề nghị cấp lại, cấp đổi giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà tài sản khác gắn liền với đất đối với
thửa đất số 2626 (3), diện tích 910m
2
thành thửa 344 (14) diện tích 694,4m
2
.
Tại “Biên bản thẩm tra” ngày 03/01/2020 của UBND K T thể hiện: “Ý
kiến của Huỳnh Thị G: Tôi không mua bán trao đổi gì vớiLê Thị B. Tôi sử
8
dụng ổn định thửa 2626 tờ 3. Nay theo V 344 tờ 14. Nay tôi đồng ý ranh giới,
mốc giới, kết quả đo đạc theo Vlap …..; Ý kiến của Thị B: Tôi không mua
bán, trao đổi với Huỳnh Thị G. Nay tôi đồng ý ranh giới, mốc giới, kết quả
đo đạc theo Vlap thửa 344 tờ 14. Tôi cam đoan không tranh chấp khiếu nại về
sau”.
Ngày 23/4/2020 G được Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh B cấp giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà tài sản khác gắn liền với
đất thửa đất số 344 (14), diện tích 694,4m
2
, tọa lạc tại p V, K, huyện M, tỉnh
Bến Tre.
B, anh Đ cho rằng đã quản lý, sử dụng đất từ năm 1997 đến nay nhưng
không đăng ký, khai để được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, không
giải thích được do vì sao không thực việc đăng kê khai cấp giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất phần đất thửa số 344 cùng với phần đất thửa 661 nên
không có căn cứ xem xét lời trình bày của bà B, anh Đ.
Từ các căn cứ nêu trên sxác định, phần đất tranh chấp thuộc một
phần thửa 344 (14) diện tích 258,2m
2
được ký hiệu trên họa đồ hiện trạng sử dụng
đất thửa 344A thuộc quyền sử dụng của G. Do đó yêu cầu khởi kiện của
G căn cứ nên được chấp nhận. Buộc B anh Đ phải giao trả cho G1
phần đất diện tích 258,2m
2
hiệu thửa 344A thuộc một phần thửa 344
(14), toạ lạc tại ấp V, xã K, huyện M, tỉnh Bến Tre.
[2.4] Về xử lý tài sản trên đất:
Do yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn được chấp nhận, nhưng tại phiên tòa
G không yêu cầu bà B, anh Đ di dời 02 ngôi mộ không yêu cầu trả lại hiện
trạng đất như ban đầu nên Hội đồng xét xử ghi nhận.
Tuy nhiên, bà G thừa nhận gia đình B đã sử dụng phần đất này từ rất lâu
(từ lúc ông S1 còn sống) thừa nhận bị đơn công gìn giữ, bơm cát trên đất,
do đó cần buộc G bồi hoàn cho B, anh Đ công sức gigìn, cải tạo đất số
tiền 30.000.000 đồng giá trị 05 cây dừa mới trồng 330.000 đồng, tổng
cộng là 30.330.000 đồng (ba mươi triệu ba trăm ba mươi nghìn) đồng.
Ngoài ra, trên đất ba mặt là hàng rào do anh Đ bao xung quanh bằng lưới
nhựa màu đen được cố định bằng cọc tre tạm bợ, thể di dời được nên buộc
B, anh Đ phải di dời hàng rào cọc tre và lưới nhựa nêu trên để giao trả đất cho
G.
[2.5] Từ những phân tích nêu trên, xét kháng cáo của B, anh Đ căn
cứ một phần nên không được chấp nhận một phần, sửa một phần bản án sơ thẩm.
[3] Quan điểm của đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bến Tre phù hợp
một phần với nhận định của Hội đồng xét xử nên được chấp nhận một phần.
[4] Án phí dân sphúc thẩm: B được miễn. Anh Đ không phải chịu án
phí, hoàn lại cho anh Đ số tiền tạm ứng án phí đã nộp.
Vì các lẽ trên,
9
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ khoản 2 Điều 308, Điều 309 của Bộ luật Tố tụng dân sự,
Chấp nhận một phần kháng cáo của bà Lê Thị B, anh Tạ Đăng Đ.
Sửa một phần Bản án dân sự thẩm số: 113/2024/DS-ST ngày 17 tháng 10
năm 2024 của Tòa án nhân dân huyện Mỏ Cày Bắc, tỉnh Bến Tre.
Cụ thể tuyên:
Căn cứ Điều 166 Luật đất đai 2013; Điều 36 Luật đất đai 1993; khoản 9
Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự;
Điều 26 Nghị quyết số 326 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội
quy định về mức thu miễn, giảm, thu, nộp, quản sử dụng án phí lệ phí
Tòa án. Tuyên xử:
1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Huỳnh Thị G.
Buộc bà Lê Thị B anh Tạ Đăng Đ phải tháo dỡ, di dời hàng rào ba mặt là
cọc tre lưới nhựa trả lại cho Huỳnh Thị G phần đất diện tích 258,2m
2
(ký hiệu thửa 344A) thuộc một phần thửa 344, tbản đồ số 14, tọa lạc tại ấp V,
xã K, huyện M, tỉnh Bến Tre.
(Có họa đồ hiện trạng sử dụng đất kèm theo).
2. Buộc Huỳnh Thị G hoàn trcho Thị B anh Tạ Đăng Đ công
sức giữ gìn, cải tạo đất số tiền là 30.000.000 đồng và giá trị 05 cây dừa là 330.000
(ba trăm ba mươi nghìn) đồng, tổng cộng 30.330.000 đồng (ba mươi triệu ba
trăm ba mươi nghìn) đồng.
3. Ghi nhận Huỳnh Thị G không yêu cầu Thị B anh Tạ Đăng Đ
di dời 02 (hai) ngôi mộ trên phần đất ký hiệu thửa 344A thuộc một phần thửa 344
(14), tọa lạc tại ấp V, xã K, huyện M, tỉnh Bến Tre.
4. Huỳnh Thị G được quyền quản lý, sử dụng toàn bộ diện tích 258,2m
2
thuộc một phần thửa 344 (14) (ký hiệu thửa 344A) và toàn bộ cây trồng trên đất.
5. Về chi phí tố tụng: Thị B, anh Tạ Đăng Đ phải trách nhiệm liên
đới hoàn trả cho Huỳnh Thị G số tiền là 4.718.000 (bốn triệu bảy trăm mười
tám nghìn) đồng.
6. Về án phí dân sự sơ thẩm:
Huỳnh Thị G được miễn án phí.
Anh Tạ Đăng Đ phải chịu án phí là 300.000 (Ba trăm nghìn) đồng.
10
7. Án phí dân sự phúc thẩm:
Lê Thị B được miễn án phí.
Anh Tạ Đăng Đ không phải chịu án phí. H lại cho anh Đ số tiền tạm ứng án
phí đã nộp là 300.000 (ba trăm ngàn) đồng theo biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí
số 0004601 ngày 30/10/2024 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Mỏ Cày Bắc,
tỉnh Bến Tre.
Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định Điều 2 Luật thi
hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự
quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi nh
án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo qui định tại các điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Lut
thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo qui định tại Điều
30 Luật thi hành án dân sự.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Nơi nhận: TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM
- Các đương sự; THẨM PHÁN - CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
- VKSND tỉnh Bến Tre;
- TAND huyện Mỏ Cày Bắc;
- Chi cục THADS huyện Mỏ cày Bắc;
- Phòng KTNV&THA TAND tỉnh;
- Lưu hồ sơ vụ án, VP.
Nguyễn Chí Đức
Tải về
Bản án số 159/2025/DS-PT Bản án số 159/2025/DS-PT

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án số 159/2025/DS-PT Bản án số 159/2025/DS-PT

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án/ Quyết định cùng đối tượng

Bản án cùng lĩnh vực

Bản án mới nhất