Bản án số 14/2025/DSST ngày 22/09/2025 của Tòa án nhân dân khu vực 6 - Ninh Bình, tỉnh Ninh Bình về tranh chấp quyền sử dụng đất
- Thuộc tính
- Nội dung
- VB gốc
- VB liên quan
- Lược đồ
- Đính chính
- Án lệ
- BA/QĐ cùng nội dung
- Tải về
Tải văn bản
-
Bản án số 14/2025/DSST
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
-
Bản án số 14/2025/DSST
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Báo lỗi
Thuộc tính Bản án 14/2025/DSST
| Tên Bản án: | Bản án số 14/2025/DSST ngày 22/09/2025 của Tòa án nhân dân khu vực 6 - Ninh Bình, tỉnh Ninh Bình về tranh chấp quyền sử dụng đất |
|---|---|
| Quan hệ pháp luật: | Tranh chấp quyền sử dụng đất |
| Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
| Tòa án xét xử: | Tòa án nhân dân khu vực 6 - Ninh Bình, tỉnh Ninh Bình |
| Số hiệu: | 14/2025/DSST |
| Loại văn bản: | Bản án |
| Ngày ban hành: | 22/09/2025 |
| Lĩnh vực: | Dân sự |
| Áp dụng án lệ: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
| Đính chính: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
| Thông tin về vụ/việc: | NGUYỄN VĂN T - PHẠM VĂN C "TRANH CHẤP RANH GIỚI QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT, BUỘC THÁO DỠ TÀI SẢN TRÊN ĐẤT LẤN CHIẾM" |
Tóm tắt Bản án
Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!
Tải văn bản

1
TÒA ÁN NHÂN DÂN
KHU VỰC 6 - NINH BÌNH
Bản án số: 14/2025/DS-ST
Ngày 22/ 9/2025
V/v“Tranh chấp ranh giới quyền sử dụng
đất, yêu cầu tháo dỡ tài sản trên diện tích
đất lấn chiếm, ghi nhận chuyển nhượng
quyền sử dụng đất”
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN KHU VỰC 6 - NINH BÌNH
- Thành phần Hội đồng xét xử sơ thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa: Bà Nguyễn Thị Tươi.
Các Hội thẩm nhân dân: Ông Trần Văn Tuấn, bà Đỗ Thị Liên.
- Thư ký phiên tòa: Bà Nguyễn Thị Tuyết Nhung - Thư ký Tòa án nhân dân
khu vực 6, tỉnh Ninh Bình.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân khu vực 6, tỉnh Ninh Bình tham gia
phiên toà: Ông Phạm Minh Tiến - Kiểm sát viên.
Ngày 22 tháng 9 năm 2025 tại Trụ sở Tòa án nhân dân khu vực 6, tỉnh Ninh
Bình xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 08/2025/TLST-DS ngày 04 tháng 3
năm 2025 về “Tranh chấp ranh giới quyền sử dụng đất, yêu cầu tháo dỡ tài sản trên
diện tích đất lấn chiếm, ghi nhận việc chuyển nhượng quyền sử dụng đất” theo Quyết
định đưa vụ án ra xét xử số: 10/2025/QĐXXST-DS ngày 23 tháng 8 năm 2025,
Quyết định hoãn phiên tòa số 16/2025/QĐST-DS ngày 11 tháng 9 năm 2025 giữa
các đương sự:
* Nguyên đơn: ông Nguyễn Văn T, sinh năm 1961 và bà Trần Thị H, sinh
năm 1963; cùng nơi cư trú: Thôn A N, xã B, huyện B, tỉnh Hà Nam (nay là thôn A
N, xã B, tỉnh Ninh Bình). Đại diện theo uỷ quyền: Ông Đặng Ngọc T1, sinh năm
1958; địa chỉ: Tổ G, phường T, thành phố P, tỉnh Hà Nam (nay là tổ G, phường P,
tỉnh Ninh Bình) và bà Phạm Thị Lê V, sinh 1998; địa chỉ: Tổ B, phường L, thành
phố P, tỉnh Hà Nam (nay là tổ B, phường P, tỉnh Ninh Bình).
* Bị đơn:
+ Ông Phạm Văn C, sinh năm 1967; nơi cư trú: Tổ dân phố số D, phường H,
thị xã D, tỉnh Hà Nam (nay là tổ dân phố số D, phường D, tỉnh Ninh Bình).
+ Ông Phạm Văn Đ, sinh năm 1953; địa chỉ: Tổ dân phố số C, phường H, thị
xã D, tỉnh Hà Nam (nay là tổ dân phố số C, phường D, tỉnh Ninh Bình).
+ Ông Phạm Văn S, sinh năm 1961;
+ Ông Phạm Văn N, sinh năm 1964;
+ Bà Phạm Thị D, sinh năm 1972;
2
Cùng nơi cư trú: Tổ dân phố T, phường H, thị xã D, tỉnh Hà Nam (nay là tổ
dân phố T, phường D, tỉnh Ninh Bình).
+ Bà Phạm Thị S1, sinh năm 1973; nơi cư trú: Thôn L, xã T, thị xã D, tỉnh
Hà Nam (nay là thôn L, phường D, tỉnh Ninh Bình).
* Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan gồm:
+ Ông Nguyễn Văn T2, sinh năm 1972;
+ Bà Nguyễn Thị N1, sinh năm 1975;
+ Chị Phạm Thị Hương T3, sinh năm 1985;
Cùng nơi cư trú: Tổ dân phố T, phường H, thị xã D, tỉnh Hà Nam (nay là tổ
dân phố T, phường D, tỉnh Ninh Bình).
+ Bà Nguyễn Thị S2, sinh năm 1966; nơi cư trú: Tổ dân phố số D, phường H,
thị xã D, tỉnh Hà Nam (nay là tổ dân phố số D, phường D, tỉnh Ninh Bình).
+ Chị Phạm Thu P, sinh năm 1992; địa chỉ: Tổ dân phố T, phường H, thị xã
D, tỉnh Hà Nam (nay là tổ dân phố T, phường D, tỉnh Ninh Bình)
Tại phiên tòa có mặt bà V, ông C, vắng mặt những người tham gia tố tụng
khác.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Theo đơn khởi kiện, quá trình giải quyết vụ án và tại phiên toà đại diện
nguyên đơn trình bày như sau:
Ngày 25/8/2023, giữa vợ chồng nguyên đơn và vợ chồng ông Nguyễn Văn
T2, bà Nguyễn Thị N1 thống nhất thỏa thuận và ký Hợp đồng chuyển nhượng quyền
sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất tại Văn phòng C1. Tài sản mà vợ chồng
nguyên đơn nhận chuyển nhượng, gồm có: Quyền sử dụng đất của vợ chồng ông
T2, bà N1, theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản
khác gắn liền với đất số vào sổ cấp GCN CS03914 do Sở Tài nguyên và Môi trường
tỉnh H cấp ngày 29/06/2022. Cụ thể như sau: Thửa đất số: 66; Tờ bản đồ số: PL18;
địa chỉ: TDP T, phường H, thị xã D, tỉnh Hà Nam; diện tích: 190,0m
2
; mục đích sử
dụng: Đất ở tại đô thị; nguồn gốc sử dụng: Nhận chuyển nhượng đất được Công
nhận QSDĐ như giao đất có thu tiền sử dụng đất; tài sản trên đất: Nhà mái bằng 02
tầng, tổng diện tích 190m
2
, có khu phụ trong nhà, xây dựng năm 2000. Sau khi nhận
chuyển nhượng quyền sử dụng đất nêu trên, vợ chồng nguyên đơn đã nhờ Văn phòng
C1 và Cán bộ địa chính phường H đo đạc, cắm mốc giới cụ thể đối với thửa đất.
Ngày 05/01/2024, tại trang 4 của Giấy chứng nhận Chi nhánh Văn phòng đăng ký
đất đai thị xã D đã thay đổi nội dung trong Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất,
quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất (về tên chủ sử dụng), cụ thể như
sau: “Chuyển nhượng cho ông: Nguyễn Văn T, CCCD số: 035061002999 và vợ là
bà Trần Thị H, CCCD số: 035163001253, cùng địa chỉ tại: Thôn A N, xã B, huyện
B, tỉnh Hà Nam theo hồ sơ số: 263.CN”.
3
Ngày 04/5/2024, gia đình nguyên đơn thuê người để xây dựng tường bao xung
quanh thửa đất. Trong quá trình xây dựng, thì anh, chị, em nhà ông Phạm Văn C,
gồm có: ông C, cùng vợ là bà Nguyễn Thị S2; ông Phạm Văn Đ, bà Phạm Thị S1,
bà Phạm Thị D, ông Phạm Văn N ra ngăn cản, không cho gia đình nguyên đơn tiếp
tục xây dựng, họ khẳng định phần đất mà gia đình nguyên đơn xây dựng là tài sản
thuộc quyền sử dụng của họ. Quá trình hòa giải tại địa phương nguyên đơn biết
nguồn gốc thửa đất mà vợ chồng nguyên đơn nhận chuyển nhượng là của các cụ (bố
mẹ của các anh/chị/em ông Phạm Văn C). Các cụ đã tiến hành phân chia tài sản cho
các con. Sau đó, ông C đã chuyển nhượng cho chị Phạm Thị Hương T3 (cháu của
ông C) thửa đất nêu trên. Khi chuyển nhượng, các bên có thống nhất để lại một phần
diện tích đất để làm ngõ và làm sân của Nhà thờ, diện tích khoảng 70m
2
và có lập
Biên bản cam kết. Tuy nhiên, gia đình ông C cũng không thực hiện các thủ tục để
tách Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất theo quy định của pháp luật.
Vợ chồng nguyên đơn nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất từ vợ chồng
ông Nguyễn Văn T2, bà Nguyễn Thị N1. Thời điểm nhận chuyển nhượng, ông T2,
bà N1, chị Phạm Thị Hương T3 (chủ sử dụng cũ đối với thửa đất nêu trên) khẳng
định thửa đất và tài sản trên đất nêu trên thuộc quyền sử dụng hợp pháp của ông bà,
không xảy ra tranh chấp với bất kỳ ai, chị T3 cũng không nói cho nguyên đơn về sự
việc nêu trên nên vợ chồng nguyên đơn mới đồng ý nhận chuyển nhượng. Nguyên
đơn khẳng định việc nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất và tài sản trên đất nêu
trên là hoàn toàn đúng các quy định của pháp luật. Mặt khác, hiện nay Giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất đối với
thửa đất số 66, tờ bản đồ số PL18, diện tích 190m
2
đất ở, địa chỉ: TDP T, phường
H, thị xã D, tỉnh Hà Nam mang tên vợ chồng nguyên đơn – ông Nguyễn Văn T, bà
Trần Thị H.
Do đó, việc ông Phạm Văn C, ông Phạm Văn Đ, ông Phạm Văn S, ông Phạm
Văn N, Phạm Thị D, Phạm Thị S1 (là người được cấp giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất của thửa liền kề số 65, PL 18) ngăn cấm, không cho nguyên đơn xây dựng
tường bao xung quanh trên diện tích đất thuộc quyền sử dụng của vợ chồng nguyên
đơn là hành vi xâm phạm đến quyền và nghĩa vụ của cá nhân sử dụng đất được Nhà
nước bảo hộ và quy định cụ thể tại Điều 166, Điều 170, Điều 179 Luật đất đai năm
2013.
Tại đơn khởi kiện nguyên đơn khởi kiện đối với bị đơn ông Phạm Văn C
nhưng đến ngày 15/8/2025 nguyên đơn sửa đổi, bổ sung yêu cầu khởi kiện: Đề nghị
Toà án yêu cầu đồng bị đơn là ông Phạm Văn C, ông Phạm Văn Đ, ông Phạm Văn
S, ông Phạm Văn N, Phạm Thị D, Phạm Thị S1 trả lại toàn bộ diện tích đất đã lấn
chiếm sang nhà nguyên đơn là 12,7m
2
(phần ngõ đi) và phần đất phía sau căn nhà
thuộc thửa đất số 66, tờ bản đồ số PL 18, địa chỉ: Tổ dân phố T, phường H, thị xã
D, tỉnh Hà Nam (nay là phường D, tỉnh Ninh Bình) là 54,45m
2
, buộc tháo dỡ các tài
sản, công trình trên đất tranh chấp do bị đơn xây dựng và sử dụng. Trên vị trí đất
tranh chấp 12,7m
2
có tài sản sau: 02 cánh cổng sắt, cầu thang của nhà xây trên thửa
66, mặt bê tông 12,7m
2
. Tại vị trí đất tranh chấp 54,45m
2
có những tài sản sau: 01
phần mái tôn của nhà thờ nằm trên thửa đất 66, diện tích 12,16m
2
; 01 bể nước 2,4m
2
;
4
01 sân bê tông; 01 trụ cổng; 01 tường gạch sau nhà của thửa 66 và các tường gạch
bao quanh các gốc cây; 01 cây mai tứ quý, 01 cây bưởi, 02 cây bơ. Ngoài ra trên
diện tích đất tranh chấp không có tài sản gì khác. Đồng thời nguyên đơn ông Nguyễn
Văn T, bà Trần Thị H bổ sung yêu cầu khởi kiện đề nghị Tòa án ghi nhận sự tự
thống nhất của các đương sự thỏa thuận: Vợ chồng ông T, bà H đồng ý chuyển
nhượng cho ông Phạm Văn C diện tích đất thổ cư là 16m
2
(gồm 12,7m
2
vị trí ngõ
tranh chấp và 3,3m
2
kéo dài từ ngõ xuống cận thửa đất số 66, PL 18 tại tổ dân phố
T, phường D, tỉnh Ninh Bình) để nhập vào thửa đất số 65, PL 18 có tứ cận: Phía
Đông có kích thước 0,25m; phía Tây có kích thước 0,59m; phía Bắc có kích thước
(27,32 + 2,32 + 5,64 + 2,70)m; phía Nam có kích thước (27,33 + 10,58)m và ông C
đã thanh toán cho ông T, bà H số tiền 150.000.000 đồng.
* Các bị đơn trình bày:
- Đồng bị đơn ông Phạm Văn C, Phạm Văn N, Phạm Văn Đ, Phạm Thị D
cùng trình bày: Ông bà gồm Phạm Văn C, Phạm Văn Đ, Phạm Văn S, Phạm Văn N,
Phạm Thị S1, Phạm Thị D là các anh chị em trong gia đình con của cụ Phạm Văn B
và Trần Thị S3. Khi còn sống các cụ có diện tích đất tại tổ dân phố T, phường H và
đã tặng cho các con trong gia đình theo thống nhất. Cụ Bùi mất khoảng 2014, đến
năm 2017 cụ S3 còn sống thì đã mời chính quyền địa phương đến để xác định lại
ranh giới sử dụng đất tại thửa số 09, tờ bản đồ phụ lục số 18 tại xóm T, thị trấn H
ông C được sử dụng diện tích 190m
2
(thửa đất này ông đã chuyển nhượng cho chị
T3 (con ông Phạm Văn S), nguồn gốc sử dụng đất ông được bố mẹ chia (Nội dung
buổi làm việc như trong biên bản làm việc ngày 15/3/2017 mà ông nộp cho Toà án).
Trong nội dung đó đã xác định thửa đất số 09, tờ bản đồ PL 18 có cạnh giáp đường
QL 38B đất nhà chị T3 còn lại là 4,5m (cạnh phía Tây), cạnh phía Đông còn lại là
4,3m chiều dài đất tính từ nhà chị T3 vào đến giáp mép sân là 27,25m. Chị T3 nhất
trí ranh giới ngoài phần thoả thuận nêu trên thì phần đất còn lại theo di chúc lập năm
1997.
Ngoài ra, Bị đơn ông Phạm Văn C còn trình bày: Ông thừa nhận việc 06 anh
chị em trong gia đình có sử dụng phần diện tích đất 12,7m
2
(phần ngõ đi) và phần
đất phía sau căn nhà thuộc thửa đất số 66, tờ bản đồ số PL 18, địa chỉ: Tổ dân phố
T, phường H, thị xã D, tỉnh Hà Nam (nay là phường D, tỉnh Ninh Bình) là 54,45m
2
như kết quả đã trích đo của Chi nhánh V là chính xác. Ông và các anh em trong gia
đình nhất trí trả lại ông T, bà H diện tích đất lấn chiếm trên và tự nguyện tháo dỡ
các tài sản trên đất lấn chiếm. Ông cũng như các anh chị em trong gia đình có nguyện
vọng đề nghị ông T chuyển nhượng lại 12,7m
2
và chuyển nhượng thêm phần diện
tích kéo dài đến hết thửa đất để anh chị em có lối đi vào nhà thờ (tổng là 16m
2
). Nay
giữa ông và ông T, bà H đã tự nguyện thống nhất thỏa thuận ông C thanh toán cho
ông T, bà H số tiền 150.000.000 đồng và ông T, bà H sẽ chuyển nhượng quyền sử
dụng đất 16m
2
của thửa đất số 66, tờ bản đồ PL 18 tại tổ dân phố T để nhập vào thửa
đất số 65, tờ bản đổ PL 18.
- Bị đơn bà Phạm Thị D trình bày: Bà đã nắm được toàn bộ yêu cầu khởi kiện
của nguyên đơn, bà không lấn chiếm gì diện tích đất cho ông T, bà H. Bà là một
trong số đồng sử dụng có tên trong đất của nhà thờ, cũng như có quyền sử dụng
5
riêng đối với diện tích đất của nhà bà tại thửa số 65 tờ bản đồ PL 18 tổ dân phố T,
phường H, thị xã D, tỉnh Hà Nam (nay là phường D, tỉnh Ninh Bình) chung thửa
với đất của nhà thờ. Bà sử dụng đúng diện tích đã được cấp theo giấy chứng nhận.
Đối với phần 12,7m
2
diện tích đất tranh chấp (lối đi vào nhà thờ) bà có công sức
trong việc san nền, đổ bê tông lối đi vào nhà thờ, nhưng bà không yêu cầu Tòa án
giải quyết phần công sức này. Còn 02 cánh cổng sắt trên diện tích 12,7 m
2
là khi bà
sửa nhà, bà mang ra để sử dụng. Trong trường hợp Tòa án xét xử, bà có nguyện
vọng xin lại 02 chiếc cổng sắt này. Hiện tại trên diện tích đất được cấp cho bà tại
thửa 65, PL 18 bà có xây nhà hai tầng kín hết chiều rộng thửa đất số 65, trên phần
đất bà được cấp có con gái bà là Phạm Thu P, đang ở, bà chỉ cho chị P ở nhờ, chứ
nhà vẫn là của bà. Bà không đồng ý việc đưa chị P vào tham gia tố tụng, vì chị P
không liên quan gì. Bà xin Tòa án giải quyết vắng mặt bà trong suốt quá trình giải
quyết tiếp theo của vụ án cho đến khi vụ án hoàn toàn kết thúc. Bà đề nghị giải quyết
theo pháp luật.
- Bị đơn ông Phạm Văn Đ trình bày: Ông đã biết về yêu cầu khởi kiện của
nguyên đơn. Ông là một trong các thành viên có tên trong nhà thờ chung của các
anh em trong gia đình nhưng ông không liên quan đến vụ việc tranh chấp. Ông chỉ
có tên trong phần đất làm nhà thờ chứ ông chưa nhìn thấy giấy chứng nhận quyền
sử dụng đất, được biết bà Phạm Thị D đang quản lý giấy chứng nhận của nhà thờ.
Tài sản trên đất của nhà thờ do bố mẹ ông để lại, ông không có công sức gì với tài
sản ngoài quyền lợi đứng tên chung, bản thân ông cũng không đòi hỏi gì quyền lợi
trong vụ tranh chấp này, việc quản lý nhà thờ là do bà Phạm Thị D và các anh chị
em khác quản lý, trông nom, không liên quan gì đến ông. Nay đề nghị Tòa án không
báo gọi ông nữa, ông xin vắng mặt tất cả các buổi làm việc tiếp theo cho đến khi
giải quyết xong vụ việc.
Bị đơn ông Phạm Văn N trình bày: Ông không liên quan gì đến việc tranh
chấp trong vụ án giữa ông T, bà H với ông C và các đồng bị đơn khác. Ông chỉ đứng
tên chung với các anh chị em khác trong phần đất của nhà thờ tại thửa 65, tờ bản đồ
PL 18, đó là đất của bố mẹ ông để lại làm nhà thờ chung, ngoài việc đứng tên ông
không có quyền lợi gì, không đóng góp gì vào tài sản trên đất. Đề nghị Tòa án giải
quyết tạo lối đi cho nhà thờ chung phía trong.
Bị đơn bà Phạm Thị S1 trình bày: Thửa đất có nhà thờ (thửa số 65, PL18) có
tên bà cùng 05 anh chị em chung thửa với chị gái bà là bà Phạm Thị D. Bà cũng
không biết việc chuyển nhượng đất giữa các bên, bà không nắm được, bà chỉ có tên
trên thửa đất của nhà thờ chung, bà không có yêu cầu gì về quyền lợi trong vụ án.
Tài sản trên đất tranh chấp và trên nhà thờ bà không nắm được, bà chỉ có tên chứ bà
không sinh sống trên thửa đất. Bà đề nghị Tòa án giải quyết vắng mặt bà.
Bị đơn ông Phạm Văn S trình bày: có quan điểm như bà Phạm Thị S1, ông là
bố đẻ của chị Phạm Thị Hương T3, việc các bên chuyển nhượng thửa số 66, PL 18
cho nhau ông không biết được và cũng không liên quan đến ông. Ông đề nghị giải
quyết hòa giải cho các bên tạo điều kiện cho nhà thờ có tên ông và các anh em có
lối đi. Tài sản trên đất tranh chấp và trên nhà thờ ông không nắm được, ông chỉ có
6
tên chứ ông không sinh sống trên thửa đất. Ông đề nghị Tòa án giải quyết vắng mặt
ông.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan chị Phạm Thị Hương T3 trình bày:
Chị đã nắm được toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn. Chị thừa nhận trước
đây giữa vợ chồng chị và ông C có thỏa thuận bằng văn bản về việc để lại lối đi vào
nhà thờ. Nhưng khi chuyển nhượng với người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là
nhà N1, T2 thì chị làm thủ tục chuyển nhượng toàn bộ diện tích được cấp trong giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất tại thửa đất số 66, tờ bản đồ phụ lục 18 (không để lại
lối đi). Sau đó vợ chồng anh chị N1, T2 lại chuyển nhượng diện tích đất này cho
ông T, bà H. Hiện chị đã ly hôn chồng là anh Nguyễn Thái N2 (ly hôn năm 2019).
Việc chuyển nhượng không liên quan đến anh N2. Và chị cũng đã làm thủ tục
chuyển nhượng xong đối với ông T2, bà N1 nên chị không liên quan gì đến vụ án
này nữa. Chị đề nghị Tòa án giải quyết theo pháp luật. Do công việc bận rộn nên chị
đề nghị Tòa án giải quyết vắng mặt. Ngoài ra không có yêu cầu gì khác.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông Nguyễn Văn T2, bà Nguyễn Thị
N1 trình bày: Vợ chồng ông bà có nhận chuyển nhượng thửa đất số 66, PL 18 của
chị Phạm Thị Hương T3, việc chuyển nhượng giữa hai bên đúng theo quy định của
pháp luật và có đăng ký tại Chi nhánh văn phòng đất đai thị xã D. Sau khi nhận
chuyển nhượng thửa đất trên ông bà đã tiếp quản thửa đất và tài sản trên đất, không
có tranh chấp gì. Tài sản trên thửa 66, PL18 có 01 nhà mái bằng hai tầng, có khu
phụ trong nhà, ông bà không có nhu cầu sử dụng nên đã chuyển nhượng toàn bộ đất
và tài sản trên đất cho ông T, bà H, thủ tục chuyển nhượng là hợp pháp, đúng quy
định của pháp luật và có đăng ký giao dịch tại cơ quan có thẩm quyền. Sau đó ông
T, bà H tiếp quản và sử dụng đất cùng tài sản trên đất mới phát sinh tranh chấp. Việc
tranh chấp không liên quan đến ông bà nên ông bà đề nghị Tòa án giải quyết vắng
mặt.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà Nguyễn Thị S2 trình bày: Bà là vợ
ông Phạm Văn C, thửa đất số 66, PL 18 là của bố mẹ chồng bà để lại tách mang tên
ông C, bà chỉ có công trong việc xây nhà trên đất nhưng do không có nhu cầu sử
dụng nên lúc đó chị T3 (cháu ruột ông C) không có nhà để ở nên vợ chồng bà để
chuyển nhượng thửa đất đó cho chị T3. Nay xảy ra tranh chấp đề nghị Tòa án giải
quyết theo pháp luật, quan điểm của ông C cũng là quan điểm của bà, việc chuyển
nhượng đất từ vợ chồng bà sang chị T3 là đúng quy định của pháp luật, chuyển
nhượng toàn bộ thửa đất và tài sản trên đất, bà không có ý kiến gì khác. Bà là con
dâu không có tên trong đất nhà thờ. Nay bà đề nghị giải quyết theo pháp luật và bà
xin vắng mặt.
Đối với người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan chị Phạm Thu P là con đẻ của
bà Phạm Thị D là người đang sinh sống cùng bà D trên thửa đất số 65, PL18: Quá
trình làm việc cùng bà Phạm Thị D, chị P cho rằng chị và mẹ chị đang sinh sống
trên thửa đất 65, PL 18, vụ việc tranh chấp không liên quan đến chị và bà Phạm Thị
D. Nay chị đề nghị Tòa án không báo gọi mẹ con chị.
7
* Kết quả xác minh tại Ủy ban nhân dân phường H, thị xã D, tỉnh Hà Nam
(nay là Ủy ban nhân dân phường D, tỉnh Ninh Bình) cung cấp:
Các thửa đất số 65, 66 tờ bản đồ PL 18 tại tổ dân phố T, phường H, thị xã D,
tỉnh Hà Nam (nay là phường D, tỉnh Ninh Bình) có nguồn gốc như sau:
Tại tờ bản đồ số 3, bản đồ địa chính năm 1989 thị trấn H tại thửa đất số 239,
diện tích 866m
2
ghi tên B (đất ở 360m
2
, thổ canh 506m
2
). Căn cứ Quyết định số
480/2005/QĐ-UBND ngày 16/12/2005 của Ủy ban nhân dân huyện D về việc phê
duyệt phương án xử lý hợp pháp hóa cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, tại
danh sách hộ đủ điều kiện cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thể hiện như sau:
Tại số thứ tự 07 ghi chủ sử dụng đất: Phạm Bình Y, vợ Trần Thị H1, tờ bản
đồ PL 18, thửa đất 9/1, tổng diện tích 190m
2
(đất ở).
Tại số thứ tự 08 ghi chủ sử dụng đất: Phạm Văn B, vợ Trần Thị S3, tờ bản đồ
PL 18, thửa đất 9/2, tổng diện tích 188m
2
(đất ở).
Tại số thứ tự 09 ghi chủ sử dụng đất: Phạm Văn C, vợ Nguyễn Thị S2, tờ bản
đồ PL 18, thửa đất 9/3, tổng diện tích 190m
2
(đất ở).
Tại số thứ tự 10 ghi chủ sử dụng đất: Phạm Văn N, vợ Nguyễn Hồng T4, tờ
bản đồ PL 18, thửa đất 9/4, tổng diện tích 202m
2
(đất ở).
Ngày 01/6/2006 các hộ theo như số thứ tự có trong danh sách được liệt kê
trên đã được Ủy ban nhân dân huyện D cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đều
tại thửa đất số 9, tờ bản đồ PL18 tại xóm T, thị trấn H, huyện D, tỉnh Hà Nam với
diện tích được thể hiện như trong danh sách theo quyết định trên. Sau khi được cấp
giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, hộ ông Phạm Văn C đã chuyển nhượng cho chị
Phạm Thị Hương T3 và chị T3 lại chuyển nhượng cho ông Nguyễn Văn T2, bà
Nguyễn Thị N1. Ngày 25/8/2023 vợ chồng ông T2, bà N1 đã chuyển nhượng cho
ông T, bà H diện tích 190m
2
đất ở và ngày 05/01/2024 ông T, bà H được cấp Giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất (thể hiện tại trang 4 giấy chứng nhận số DG285551).
Sau khi chuyển nhượng ông T, bà H đã quản lý và sinh sống trên diện tích đất nhận
chuyển nhượng, trên đất nhận chuyển nhượng có 01 nhà hai tầng và công trình phụ
kèm theo. Về thuế đất phi nông nghiệp từ thời điểm ông T, bà H nhận chuyển
nhượng thì chính quyền địa phương chưa thu được. Hiện nay những ai sinh sống
trên đất thì đề nghị Tòa án làm việc với đương sự để làm rõ. Hiện nay diện tích đất
trên không đảm bảo cho nghĩa vụ dân sự nào. Ngày 15/3/20217 địa phương có lập
biên bản làm việc giải quyết đơn của chị T3 về ranh giới sử dụng đất, nội dung trong
biên bản do các bên tự thỏa thuận nhưng các bên không thực hiện theo thỏa thuận
đó và các bên vẫn thực hiện việc giao dịch chuyển nhượng. Hiện nay nhà ông T, bà
H (thửa số 66, P) và thửa đất nhà ông Phạm Văn N là hai thửa độc lập, còn thửa đất
nhà bà Phạm Thị D và thửa đất có nhà thờ (mang tên Đ, S, N, C, D, Sau) là chung
thửa tại thửa số 65, tờ bản đồ PL 18, đều có mặt giáp đường đi nên không phải tạo
lập ngõ đi chung cho các thửa đất này. Các thửa đất trên đã được cơ quan Nhà nước
có thẩm quyền cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất theo đúng trình tự, thủ tục
của pháp luật.
8
* Theo kết quả cung cấp về hồ sơ lịch sử biến động của các thửa đất 65, 66,
PL 18 tại tổ dân phố T, phường H, thị xã D, tỉnh Hà Nam do Chi nhánh V – Văn
phòng Đ1, tỉnh Ninh Bình cung cấp cũng như kết quả xác minh của Tòa án tại
UBND phường H, thị xã D, tỉnh Hà Nam (nay là phường D, tỉnh Ninh Bình) thì gia
đình ông T, bà H có được 190m
2
đất ở tại thửa đất số 65 tờ bản đồ PL18 tại tổ dân
phố T, phường H là do được nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất từ ông Nguyễn
Văn T2, bà Nguyễn Thị N1. Nguồn gốc sử dụng đất: Nhận chuyển nhượng đất được
Công nhận quyền sử dụng đất như giao đất có thu tiền sử dụng đất (có hồ sơ hợp
đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất kèm theo). Các thửa đất trên đã được cơ
quan Nhà nước có thẩm quyền cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất theo đúng
trình tự, thủ tục của pháp luật.
* Về công trình, vật kiến trúc trên hai thửa đất: Trên 02 thửa đất này có nhà
và các công trình phụ trợ kèm theo.
* Kết quả xem xét thẩm định tại chỗ và định giá tài sản xác định: Kết quả của
cơ quan chuyên môn (Chi nhánh văn phòng Đ) đã đo đạc, thể hiện các bị đơn đã sử
dụng sang diện tích của ông Nguyễn Văn T, bà Trần Thị H theo như giấy chứng
nhận quyền sử dụng đã cấp gồm: Diện tích đất tranh chấp tại vị trí 12,7m
2
(đất ONT)
có tứ cận như sau: Phía Bắc giáp thửa 65 kích thước 27,32m; phía Nam kích thước
27,33m; phía Tây giáp đường có kích thước 0,59m; phía Đông có kích thước 0,34m;
trên diện tích đất tranh chấp 12,7m
2
gồm: 02 cánh cổng sắt, cầu thang của nhà xây
trên thửa 66, mặt bê tông diện tích 12,7m
2
; Tại vị trí đất tranh chấp 54,45m
2
có tứ
cận như sau: Phía Đông giáp thửa 65 kích thước 5,05m; Phía Tây giáp móng nhà
thửa 66 có kích thước (4,67 + 0,34)m; phía Nam giáp thửa số 9 (nhà ông N) có kích
thước 10,99m; phía Bắc giáp thửa 65 có kích thước (2,32 + 5,64 + 2,70)m; trên diện
tích đất tranh chấp 54,45m
2
có những tài sản gồm: 01 phần mái tôn của nhà thờ nằm
trên thửa 66 có diện tích 12,16m
2
; 01 bể nước 2,4m
2
; 01 cây mai tứ quý, 01 cây
bưởi, 02 cây bơ, 01 sân bê tông, 01 trụ cổng, 01 tường gạch sau nhà của thửa 66 và
các tường gạch bao quanh các gốc cây trên. Ngoài ra trên hai phần đất tranh chấp
(12,7 + 54,45) m
2
không còn tài sản, công trình vật kiến trúc nào khác.
Tại phiên toà hôm nay các đương sự giữ nguyên quan điểm trình bày trên.
Đại diện Viện kiểm sát phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật của những
người tiến hành tố tụng và tham gia tố tụng đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ:
- Áp dụng các Điều 11, 26, 31, 220, 235, 236 Luật Đất đai năm 2024;
- Áp dụng các Điều 158; 164, 166; 175, 176; 221 Bộ luật Dân sự năm 2015;
- Áp dụng khoản 9 Điều 26; khoản 1 Điều 35; khoản 1 Điều 39, các Điều 147,
149, 157, 158, 165, 166, 227, 228, 266, 271, 273 Bộ luật Tố tụng dân sự.
- Áp dụng khoản 2 Điều 1 Luật 85/2025/QH15 ngày 01/7/2025 về việc Luật
sửa đổi, bổ sung một số điều Bộ luật Tố tụng dân sự, Luật tố tụng hành chính, Luật
Tư pháp người chưa thành niên, Luật phá sản và Luật hòa giải đối thoại tại Tòa án).
9
- Áp dụng Nghị Quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy
ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử
dụng án phí và lệ phí Tòa án.
1. Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.
- Buộc các đồng bị đơn là ông Phạm Văn C, bà Phạm Thị D, ông Phạm Văn
Đ, ông Phạm Văn S, ông Phạm Văn N, bà Phạm Thị S1 phải trả lại diện tích đất đã
lấn chiếm của ông Nguyễn Văn T, bà Trần Thị H gồm:
+ Diện tích đất tranh chấp tại vị trí 12,7m
2
(đất ONT) có tứ cận như sau: Phía
Bắc giáp thửa 65 kích thước 27,32m; phía Nam kích thước 27,33m; phía Tây giáp
đường có kích thước 0,59m; phía Đông có kích thước 0,34m;
+ Diện tích đất tranh chấp 54,45m
2
có tứ cận như sau: Phía Đông giáp thửa
65 kích thước 5,05m; Phía Tây giáp móng nhà thửa 66 có kích thước (4,67 + 0,34)m;
phía Nam giáp thửa số 9 (nhà ông N) có kích thước 10,99m; phía Bắc giáp thửa 65
có kích thước (2,32 + 5,64 + 2,70)m;
- Yêu cầu các đồng bị đơn là ông Phạm Văn C, bà Phạm Thị D, ông Phạm
Văn Đ, ông Phạm Văn S, ông Phạm Văn N, bà Phạm Thị S1 phải tháo dỡ các công
trình xây dựng, các tài sản trên diện tích đất lấn chiếm là trên diện tích đất tranh
chấp 12,7m
2
gồm: 02 cánh cổng sắt, cầu thang của nhà xây trên thửa 66; mặt bê tông
diện tích 12,7m
2
; trên diện tích đất tranh chấp 54,45m
2
có những tài sản gồm: 01
phần mái tôn của nhà thờ nằm trên thửa 66 có diện tích 12,16m
2
; 01 bể nước 2,4m
2
;
01 cây mai tứ quý, 01 cây bưởi, 02 cây bơ, 01 sân bê tông, 01 trụ cổng, 01 tường
gạch sau nhà của thửa 66 và các tường gạch bao quanh các gốc cây trên.
(Có sơ đồ kèm theo)
2. Ghi nhận sự tự thỏa thuận giữa vợ chồng ông Nguyễn Văn T, bà Trần Thị
H2 chuyển nhượng cho ông Phạm Văn C diện tích 16m
2
(đất ở) của thửa đất số 66,
PL 18 tại tổ dân phố T, phường D, tỉnh Ninh Bình có tứ cận: Phía Đông có kích
thước 0,25m; phía Tây có kích thước 0,59m; phía Bắc có kích thước (27,32 + 2,32
+ 5,64 + 2,70)m; phía Nam có kích thước (27,33 + 10,58)m để nhập vào thửa đất số
65, PL 18 tại tổ dân phố T, phường D, tỉnh Ninh Bình (Có sơ đồ kèm theo)
3. Bác các yêu cầu khác của đương sự không có căn cứ.
Ngoài ra đại diện Viện kiểm sát còn đề xuất về chi phí tố tụng, về án phí dân
sự của vụ án.
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên
tòa. Sau khi nghe đại diện Viện kiểm sát phát biểu quan điểm, sau khi thảo luận và
nghị án Hội đồng xét xử Tòa án nhân dân khu vực 6, tỉnh Ninh Bình.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Về thủ tục tố tụng:
Tại phiên tòa bị đơn bà Phạm Thị D, ông Phạm Văn Đ, ông Phạm Văn S, ông
Phạm Văn N, bà Phạm Thị S1 vắng mặt (đã có đơn xin vắng mặt). Người có quyền
10
lợi, nghĩa vụ liên quan ông Nguyễn Văn T2, bà Nguyễn Thị N1, chị Phạm Thị
Hương T3, bà Nguyễn Thị S2 vắng mặt (đã có đơn xin vắng mặt) riêng chị Phạm
Thu P vắng mặt lần thứ 2 không có lý do. Hội đồng xét xử căn cứ các điều 227; 228
Bộ luật Tố tụng dân sự xét xử vắng mặt các đương sự trên tại phiên tòa.
Về nội dung
[1] Xét yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn
Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ do nguyên đơn xuất trình là Giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất số vào
sổ cấp Giấy chứng nhận CS 03914 ngày 29/6/2022 do Sở Tài nguyên và Môi trường
tỉnh H cấp tại trang 4 ngày 05/01/2024; Biên bản giải quyết hoà giải tranh chấp đất
đai ngày 05/7/2024, Thông báo kết quả hòa giải tranh chấp đất đai ngày 05/9/2024
tại phường H; căn cứ vào các tài liệu do bị đơn cung cấp và các tài liệu chứng cứ do
Toà án thu thập, trong đó có toàn bộ hồ sơ cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất,
lịch sử biến động của các thửa đất có liên quan đến phần diện tích đất tranh chấp,
Trích lục bản đồ địa chính, đo đạc chỉnh lý thửa đất, phiếu xác nhận kết quả đo đạc
hiện trạng thửa đất; biên bản kiểm tra hiện trạng; kết quả đo đạc bằng máy của Chi
nhánh Văn phòng Đ, có căn cứ xác định:
Về nguồn gốc thửa đất số 65, 66, tờ bản đồ PL 18 thuộc tổ dân phố T, phường
H, thị xã D, tỉnh Hà Nam (nay là tổ dân phố T, phường D, tỉnh Ninh Bình) của ông
Nguyễn Văn T, bà Nguyễn Thị H3 có được do nhận chuyển nhượng quyền sử dụng
đất, còn của các đồng bị đơn ông Phạm Văn C, bà Phạm Thị D, ông Phạm Văn Đ,
ông Phạm Văn S, ông Phạm Văn N, bà Phạm Thị S1 có được là do nhận thừa kế, do
chuyển nhượng và đều được Nhà nước công nhận quyền sử dụng đất như giao đất
có thu tiền sử dụng đất và nguyên đơn, bị đơn đã được Sở Tài nguyên và Môi trường
tỉnh H, Ủy ban nhân dân huyện D cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Việc
cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho nguyên đơn, bị đơn đều có hồ sơ pháp
lý, được đăng ký tại cơ quan Nhà nước có thẩm quyền, đúng trình tự, quy định của
pháp luật. Từ đó đến nay nguyên đơn, bị đơn vẫn sử dụng ổn định, không có tranh
chấp hay khiếu nại gì về việc cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của cơ quan
Nhà nước có thẩm quyền. Trong hồ sơ cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thể
hiện đầy đủ các tài liệu, giấy tờ theo quy định, có trích lục thửa đất 65, 66 tại thời
điểm cấp, có ký giáp ranh giữa các hộ liền kề và được Nhà nước bảo hộ công nhận
mốc giới, ranh giới quyền sử dụng đất theo quy định tại Điều 170 Luật đất đai năm
2013 và Điều 175, Điều 176 Bộ luật Dân sự năm 2015.
Căn cứ vào các tài liệu chứng cứ thu thập được đã thể hiện trong quá trình sử
dụng thửa đất số 65, tờ bản đồ phụ lục 18 tại tổ dân phố T, phường H, thị xã D, tỉnh
Hà Nam (nay là tổ dân phố T, phường D, tỉnh Ninh Bình) phía bị đơn đã xây dựng
cổng sắt, đổ bê tông, hình thành lối đi sử dụng đất của thửa đất số 66 để đi vào phía
trong nhà thờ của thửa 65 và sử dụng diện tích đất phía sau nhà của thửa đất số 66.
Trong quá trình sử dụng đất, giữa nguyên đơn và bị đơn chưa có bất kỳ văn bản thoả
thuận nào về việc điều chỉnh hay chuyển nhượng mốc giới của người sử dụng đất
liền kề gửi cơ quan Nhà nước có thẩm quyền để đăng ký biến động về mốc giới nên
11
Nhà nước cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho nguyên đơn, bị đơn là đúng
pháp luật, các hộ sử dụng đất đã nhận Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và từ thời
điểm cấp đến nay và không có ý kiến, tranh chấp hay khiếu nại gì.
Căn cứ kết quả xem xét thẩm định tại chỗ, kết quả trích đo hiện trạng các thửa
đất tranh chấp số 65, 66, tờ bản đồ PL18, tổ dân phố T, phường H, thị xã D, tỉnh Hà
Nam (nay là tổ dân phố T, phường D, tỉnh Ninh Bình) theo Giấy chứng nhận quyền
sử dụng đất mang tên ông Nguyễn Văn T, bà Trần Thị H cấp đối với thửa số 66, tờ
bản đồ PL18; Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất mang tên ông Phạm Văn C, bà
Phạm Thị D, ông Phạm Văn Đ, ông Phạm Văn S, ông Phạm Văn N, bà Phạm Thị
S1 cấp đối với thửa đất số 65, tờ bản đồ PL18 và hiện trạng sử dụng của hai thửa
đất này đã xác định được: Việc các đồng bị đơn chủ sử dụng của thửa đất số 65 đã
hình thành lối mòn đi từ phía ngoài đường vào thửa đất số 65 phía trong khi sử dụng
đất của thửa số 66. Nay theo kết quả trích đo của cơ quan chuyên môn Chi nhánh
Văn phòng Đ đã xác định đồng bị đơn đã sử dụng lấn sang 02 vị trí là Diện tích đất
tranh chấp tại vị trí 12,7m
2
(đất ONT) có tứ cận như sau: Phía Bắc giáp thửa 65 kích
thước 27,32m; phía Nam kích thước 27,33m; phía Tây giáp đường có kích thước
0,59m; phía Đông có kích thước 0,34m; diện tích đất tranh chấp 54,45m
2
có tứ cận
như sau: Phía Đông giáp thửa 65 kích thước 5,05m; Phía Tây giáp móng nhà thửa
66 có kích thước (4,67 + 0,34)m; phía Nam giáp thửa số 9 (nhà ông N) có kích thước
10,99m; phía Bắc giáp thửa 65 có kích thước (2,32 + 5,64 + 2,70)m; các tài sản trên
diện tích đất lấn chiếm là trên diện tích đất tranh chấp 12,7m
2
gồm: 02 cánh cổng
sắt, cầu thang của nhà xây trên thửa 66, mặt bê tông diện tích 12,7m
2
; trên diện tích
đất tranh chấp 54,45m
2
có những tài sản gồm: 01 phần mái tôn của nhà thờ nằm trên
thửa 66 có diện tích 12,16m
2
; 01 bể nước 2,4m
2
; 01 cây mai tứ quý, 01 cây bưởi, 02
cây bơ, 01 sân bê tông, 01 trụ cổng, 01 tường gạch sau nhà của thửa 66 và các tường
gạch bao quanh các gốc cây trên. Vì vậy, việc ông Nguyễn Văn T, bà Trần Thị H
khởi kiện yêu cầu ông Phạm Văn C, bà Phạm Thị D, ông Phạm Văn Đ, ông Phạm
Văn S, ông Phạm Văn N, bà Phạm Thị S1 trả lại diện tích đất đã lấn chiếm và yêu
cầu tháo dỡ các tài sản trên diện tích đất lấn chiếm là có cơ sở, cần được chấp nhận.
[2] Về công sức về làm mặt bê tông trên diện tích đất tranh chấp 12,7m
2
bị
đơn Phạm Thị D và các bị đơn xác nhận thời điểm bà phạm Thị D xây dựng nhà
trên thửa đất chung thửa 65, PL 18 phía bên ngoài đã san phẳng lối mòn đó thì nay
bà D đã có trách nhiệm đổ bê tông chạt để anh em đi vào phía trong nhà thờ của
thửa 65, PL 18 nên bà D không yêu cầu giải quyết gì về công sức này nên không đặt
ra xem xét.
[3] Đối với yêu cầu bổ sung của của nguyên đơn ông Nguyễn Văn T, bà Trần
Thị H và bị đơn ông Phạm Văn C đã tự thống nhất thỏa thuận: Vợ chồng ông T, bà
H đồng ý chuyển nhượng cho ông Phạm Văn C diện tích đất thổ cư là 16m
2
(gồm
12,7m
2
vị trí ngõ tranh chấp và 3,3m
2
kéo dài từ ngõ xuống cận thửa đất số 66, PL
18 tại tổ dân phố T, phường D, tỉnh Ninh Bình để nhập vào thửa đất số 65, PL 18
có tứ cận: Phía Đông có kích thước 0,25m; phía Tây có kích thước 0,59m; phía Bắc
có kích thước (27,32 + 2,32 + 5,64 + 2,70)m; phía Nam có kích thước (27,33 +
10,58)m. Ông C đã thanh toán cho bổ sung yêu cầu khởi kiện này có trước thời điểm
phiên họp công khai chứng cứ và hòa giải của vụ án nên được chấp nhận. Hơn nữa,
12
thửa đất số 65, 66, PL 18 tại tại tổ dân phố T, phường D, tỉnh Ninh Bình đều là đất
thổ cư nên việc các đương sự tự thống nhất thỏa thuận với nhau về việc mua bán
chuyển nhượng là quyền của công dân, phù hợp quy định về việc tách thửa đất, hợp
thửa đất được quy định tại Điều 220 Luật đất đai năm 2024 nên Hội đồng xét xử cần
được ghi nhận.
[4] Bác các yêu cầu khác của các đương sự vì không có căn cứ.
[5] Về chi phí tố tụng: Chi phí xem xét thẩm định tại chỗ, đo đạc bằng máy,
định giá tài sản hết 7.296.000 đồng. Do yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn được Tòa
án chấp nhận nên toàn bộ lệ phí, chi phí tố tụng đồng bị đơn phải nộp chia theo phần
theo quy định. Nguyên đơn đã nộp tạm ứng lệ phí, chi phí tố tụng số tiền trên nên
đồng bị đơn phải trả lại cho nguyên đơn số tiền là 7.296.000 đồng, chia theo phần
mỗi người phải chịu 1.216.000 đồng. Ông C tự nguyện nộp toàn bộ số tiền trên thay
cho các đồng bị đơn nên cần ghi nhận.
[5] Về án phí: Yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn được chấp nhận nên đồng
bị đơn phải nộp án phí dân sự sơ thẩm không có giá ngạch chia theo phần. Ông C tự
nguyên xin nộp thay số tiền trên cho các đồng bị đơn nên cần ghi nhận.
[6] Về quyền kháng cáo: Các đương sự có quyền kháng cáo bản án theo quy
định của pháp luật.
[7] Quan điểm của đại diện Viện kiểm sát nhân dân khu vực 6 - Ninh Bình đề
nghị chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn là có căn cứ cần chấp nhận.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ:
- Áp dụng các Điều 11, 26, 31, 220, 235, 236 Luật Đất đai năm 2024;
- Áp dụng các Điều 158; 164, 166; 175, 176; 221 Bộ luật Dân sự năm 2015;
- Áp dụng khoản 9 Điều 26; khoản 1 Điều 35; khoản 1 Điều 39, các Điều 147,
149, 157, 158, 165, 166, 227, 228, 266, 271, 273 Bộ luật Tố tụng dân sự.
- Áp dụng khoản 2 Điều 1 Luật 85/2025/QH15 ngày 01/7/2025 về việc Luật
sửa đổi, bổ sung một số điều Bộ luật Tố tụng dân sự, Luật tố tụng hành chính, Luật
Tư pháp người chưa thành niên, Luật phá sản và Luật hòa giải đối thoại tại Tòa án).
- Áp dụng Nghị Quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy
ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử
dụng án phí và lệ phí Tòa án.
1. Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn ông Nguyễn Văn T,
bà Trần Thị H đối với đồng bị đơn ông Phạm Văn C, ông Phạm Văn Đ, ông Phạm
Văn S, ông Phạm Văn N, Phạm Thị D, Phạm Thị S1.
- Buộc các đồng bị đơn là ông Phạm Văn C, bà Phạm Thị D, ông Phạm Văn
Đ, ông Phạm Văn S, ông Phạm Văn N, bà Phạm Thị S1 phải trả lại diện tích đất đã
lấn chiếm của ông Nguyễn Văn T, bà Trần Thị H gồm:
+ Diện tích đất tranh chấp tại vị trí 12,7m
2
(đất ONT) có tứ cận như sau: Phía
Bắc giáp thửa 65 kích thước 27,32m; phía Nam kích thước 27,33m; phía Tây giáp
đường có kích thước 0,59m; phía Đông có kích thước 0,34m;
+ Diện tích đất tranh chấp 54,45m
2
có tứ cận như sau: Phía Đông giáp thửa
65 kích thước 5,05m; Phía Tây giáp móng nhà thửa 66 có kích thước (4,67 + 0,34)m;

13
phía Nam giáp thửa số 9 (nhà ông N) có kích thước 10,99m; phía Bắc giáp thửa 65
có kích thước (2,32 + 5,64 + 2,70)m;
(Có sơ đồ kèm theo)
- Buộc các đồng bị đơn là ông Phạm Văn C, bà Phạm Thị D, ông Phạm Văn
Đ, ông Phạm Văn S, ông Phạm Văn N, bà Phạm Thị S1 phải tháo dỡ các công trình
xây dựng, các tài sản trên diện tích đất lấn chiếm là trên diện tích đất tranh chấp
12,7m
2
gồm: 02 cánh cổng sắt, mặt bê tông mặt diện tích 12,7m
2
; trên diện tích đất
tranh chấp 54,45m
2
có những tài sản gồm: 01 phần mái tôn của nhà thờ nằm trên
thửa 66 có diện tích 12,16m
2
; 01 bể nước 2,4m
2
; 01 cây mai tứ quý, 01 cây bưởi, 02
cây bơ, 01 sân bê tông, 01 trụ cổng, 01 tường gạch sau nhà của thửa 66 và các tường
gạch bao quanh các gốc cây trên.
(Có sơ đồ kèm theo)
2. Ghi nhận sự tự thỏa thuận giữa vợ chồng ông Nguyễn Văn T, bà Trần Thị
H2 chuyển nhượng cho ông Phạm Văn C diện tích 16m
2
(đất ở) của thửa đất số 66,
PL 18 tại tổ dân phố T, phường D, tỉnh Ninh Bình có tứ cận: Phía Đông có kích
thước 0,25m; phía Tây có kích thước 0,59m; phía Bắc có kích thước (27,32 + 2,32
+ 5,64 + 2,70)m; phía Nam có kích thước (27,33 + 10,58)m để nhập vào thửa đất số
65, PL 18 tại tổ dân phố T, phường D, tỉnh Ninh Bình (Có sơ đồ kèm theo).
3. Bác các yêu cầu khác của đương sự.
4. Về chi phí tố tụng: Ông Phạm Văn C nộp số tiền 7.296.000 đồng để trả lại
cho vợ chồng ông Nguyễn Văn T và bà Trần Thị H.
5. Về án phí dân sự sơ thẩm: Ông Phạm Văn C phải nộp 300.000 đồng.
Án xử công khai sơ thẩm, đương sự có mặt được quyền kháng cáo trong thời
hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Đương sự vắng mặt được quyền kháng cáo trong
thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản sao bản án hoặc bản án được niêm yết.
Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án
dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền
thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị
cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6,7 và 9 Luật thi hành án dân sự,
thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân
sự.
Nơi nhận:
- TAND tỉnh Ninh Bình.
- VKSND khu vực 6 – Ninh Bình.
- Thi hành dân sự tỉnh Ninh Bình.;
- Các đương sự.
- Lưu Hồ sơ.
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ SƠ THẨM
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa
Nguyễn Thị Tươi
Tải về
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án/ Quyết định cùng đối tượng
1
Ban hành: 17/11/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
2
Ban hành: 29/10/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
3
Ban hành: 25/10/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
4
Ban hành: 21/10/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
5
Ban hành: 06/10/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
6
Ban hành: 02/10/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
7
Ban hành: 30/09/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
8
Ban hành: 30/09/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
9
Ban hành: 30/09/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
10
Ban hành: 30/09/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
11
Ban hành: 30/09/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
12
Ban hành: 30/09/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
13
Ban hành: 30/09/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
14
Ban hành: 30/09/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
15
Ban hành: 30/09/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
16
Ban hành: 30/09/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
17
Ban hành: 30/09/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
18
Ban hành: 29/09/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
19
Ban hành: 29/09/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
20
Ban hành: 29/09/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm