Bản án số 131/2025/DS-PT ngày 25/06/2025 của TAND tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu về tranh chấp quyền sử dụng đất

  • Thuộc tính
  • Nội dung
  • VB gốc
  • VB liên quan
  • Lược đồ
  • Đính chính
  • Án lệ
  • BA/QĐ cùng nội dung
  • Tải về
Tải văn bản
Báo lỗi
  • Gửi liên kết tới Email
  • Chia sẻ:
  • Chế độ xem: Sáng | Tối
  • Thay đổi cỡ chữ:
    17

Thuộc tính Bản án 131/2025/DS-PT

Tên Bản án: Bản án số 131/2025/DS-PT ngày 25/06/2025 của TAND tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu về tranh chấp quyền sử dụng đất
Quan hệ pháp luật: Tranh chấp quyền sử dụng đất
Cấp xét xử: Phúc thẩm
Tòa án xét xử: TAND tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu
Số hiệu: 131/2025/DS-PT
Loại văn bản: Bản án
Ngày ban hành: 25/06/2025
Lĩnh vực: Dân sự
Áp dụng án lệ:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Đính chính:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Thông tin về vụ/việc: Ông Nguyễn Văn T, bà Nguyễn Thị V khởi kiện ông Phạm Văn T1, bà Nguyễn Thị N về việc
Tóm tắt Bản án

Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!

Tải văn bản

TÒA ÁN NHÂN DÂN
TNH BÀ RA - VŨNG TÀU
Bn án s: 131/2025/DS-PT
Ngày 25 - 6 - 2025
V/v Tranh chấp
quyền sử dụng đất
và xác định phần sở hữu, quyền sử dụng
đất trong khối tài sản chung
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lp - T do - Hnh phúc
NHÂN DANH
C CNG HÒA XÃ HI CH NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN TNH BÀ RA - VŨNG TÀU
- Thành phn Hội đồng xét x phúc thm gm có:
Thm phán Ch ta phiên tòa: Ông Cao Xuân Long
Các Thm phán: Bà Đào Thị Hu
Ông Trnh Hoàng Anh
- Thư phiên tòa: H Th Tâm Thư Tòa án nhân dân tnh
Ra-Vũng Tàu.
- Đại din Vin kim sát nhân dân tnh Ra - Vũng Tàu: Bùi Th
Doan - Kim sát viên tham gia phiên tòa.
Trong các ngày 18, 25 tháng 6 năm 2025, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh
Bà Rịa - Vũng Tàu xét xử phúc thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số
23/2025/TLPT-DS ngày 12/02/2025 về việc “Tranh chấp
quyền sdụng đất
xác định phần sở hữu, quyền sử dụng đất trong khối tài sản chung”.
Do Bản án dân sự thẩm số 93/2024/DS-ST ngày 30/9/2024 của Tòa án
nhân dân huyện Long Điền bị kháng cáo.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số 102/2025/QĐ-PT ngày
18/04/2025 Quyết định hoãn phiên tòa số 116/2025/QĐ-PT ngày 16/5/2025
giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Ông Nguyễn Văn T, sinh năm 1955 (có mặt) và bà
Nguyễn Thị V, sinh năm 1958 (có mặt);
Địa chỉ: D, đường T, Phường E, thành phố V, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu.
Người đại diện theo ủy quyền của ông Nguyễn Văn T: Ông Nguyễn
Thành C, sinh năm 1958; địa chỉ: 1 đường C, Phường D, thành phố V, tỉnh
Rịa - Vũng Tàu (có mặt).
- Bị đơn: Ông Phạm Văn T1, sinh năm 1962 (có mặt) Nguyễn Thị
N, sinh năm 1967 (có mặt);
2
Địa chỉ: Tổ E, ấp H, xã P, huyện L, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu.
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
1. Ông Nguyễn Ngọc P, sinh năm 1970 (vắng mặt) Đặng Thị N1,
sinh năm 1975 (vắng mặt);
Địa chỉ: Tổ A, ấp L, xã P, huyện L, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu.
2. Ông Hoàng Văn T2, sinh năm 1966 (vắng mặt) Nguyễn Thị N2,
sinh năm 1971(vắng mặt);
Địa chỉ: Tổ A, ấp H, xã P, huyện L, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu.
3. Bà Hoàng Thị T3, sinh năm 1994 (vắng mặt);
Địa chỉ: Số B tổ I, ấp H, xã P, huyện L, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu.
4. Ông Nguyễn Thanh V1, sinh năm 1970 (vắng mặt);
Địa chỉ: Ấp P, xã P, huyện L, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu.
5. Ông Trần n S, sinh năm 1972 (vắng mặt) Cao Thị S1, sinh
năm 1975 (vắng mặt);
Địa chỉ: Tổ D, ấp H, xã P, huyện L, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu.
6. Ngân hàng TMCP Phát triển thành phố H
Địa chỉ: B đường N, phường B, Quận A, Thành phố Hồ Chí Minh.
Người đại diện theo pháp luật: Ông Phạm Quốc T4 - Chức vụ: Tổng
Giám đốc (vắng mặt)
Người đại diện theo y quyền: Ông Nguyễn Gia H - Chức vụ: Giám đốc
Chi nhánh V4 (vắng mặt)
Người đại diện theo ủy quyền lại: Ông Văn T5, sinh năm 1972 (vắng
mặt) Phạm Thị Như D, sinh năm 1989 (vắng mặt); địa chỉ liên lạc: SF
đường L, Phường G, thành phố V, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu.
- Người kháng cáo: ông Phạm Văn T1, là bị đơn trong vu án.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
1. Theo đơn khởi kiện, đơn khởi kiện bổ sung, quá trình tham gia tố tụng
tại phiên tòa, nguyên đơn ông Nguyễn Văn T, Nguyễn Thị V và người đại
diện theo ủy quyền của nguyên đơn cùng trình bày:
Năm 2016, ông T V nhận chuyển nhượng của ông Hoàng Văn T2
và bà Nguyễn Thị N2 thửa đất số 413, tờ bản đồ số 37, diện tích 118m
2
tại P,
huyện L thửa đất số 411, tờ bản đồ số 37 diện tích 84,5m
2
tại P, huyện L
cùng sử dụng chung với người khác (Đất đã được Ủy ban nhân dân huyện L cấp
giấy CNQSD đất ngày 24/6/2013 cho ông T2 và bà N2).
3
Ngày 28/3/2016 ông T V được Ủy ban nhân dân huyện L cấp giấy
CNQSD đất đối với 2 thửa đất trên. Riêng thửa số 411 cùng sử dụng chung với
vợ chồng ông T1 và bà N.
Tại thời điểm nhận chuyển nhượng đất trống, không công trình vật
kiến trúc gì. Lúc đó, chỉ thấy phía giáp đất ông T1 đã xây nhà cấp 4 hết đất
thuộc thửa số 412 và sang một phần thửa số 411.
Khi mua đất, bên bán ông T2 xuống chỉ vị trí, ranh đất chứ không đo
đạc. Chiều ngang mặt tiền hẻm bêtông dài 5,8m; chiều dài 26,5m; chiều ngang
phía sau dài 6m. Ông T V để đất trống, cho đến cuối tháng 7 năm 2020
ông Nguyễn Văn V2 đất phía sau làm đường đi qua đất của gia đình ông thì
ông mới làm thtục đo đạc lại đất thì phát hiện ông T1 N đang sử dụng
diện tích 19,9m
2
thuộc thửa số 413 theo Mảnh trích đo địa chính ngày 03/8/2020
của Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai huyện L.
Ngày 31/3/2021 ông T và bà V đã làm đơn khởi kiện, yêu cầu Tòa án giai
quyết: Buộc ông T1bà N phải tháo dỡ công trình, vật kiến trúc để trả lại diện
tích 19,9 m
2
thuộc thửa số 413, tbản đồ số 37 tại P, huyện L cho ông T
bà V.
Ngày 22/5/2023 ông T V đơn khởi kiện bổ sung yêu cầu Tòa án
giải quyết: Xác định phần sở hữu, quyền sử dụng của nguyên đơn đối với thửa
đất số 411, tờ bản đồ số 37 tại xã P, huyện L được sử dụng 1/2 diện tích thửa đất
tương đương 42,25m
2
. Do bị đơn xây nhà lấn sang phần diện tích 42,25m
2
nên
nguyên đơn yêu cầu bị đơn phải tháo dỡ tài sản để trlại diện tích lấn chiếm
thuộc một phần thửa số 411, tờ bản đồ số 37 tại P, huyện L. sở để xác
định phần sở hữu, quyền sử dụng đất sự thừa nhận của ông T1 tại biên bản
làm việc ngày 23/11/2021, cụ thể mỗi bên sử dụng 01 nửa.
Căn cứ Mảnh trích đo địa chính lập ngày 02/5/2024 của Chi nhánh Văn phòng
đăng ký đất đai huyện L đo đạc theo yêu cầu của Tòa án.
Nay, nguyên đơn xác định lại yêu cầu khởi kiện yêu cầu Tòa án giải
quyết những nội dung sau:
1. Buộc bị đơn phải tháo dỡ tài sản để trả lại diện tích 19,1 m
2
thuộc thửa
số 413, tờ bản đồ số 37 tại xã P, huyện L cho nguyên đơn theo Mảnh trích đo địa
chính ngày 02/5/2024 của Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai huyện L.
2. Xác định phần sở hữu, quyền sử dụng của nguyên đơn đối với ½ thửa
số 411, tờ bản đồ số 37, tại xã P, huyện L tương đương diện tích 42,25m
2
. Do bị
đơn xây nhà lấn sang diện tích 42,25m
2
của nguyên đơn diện tích 15,3m
2
đất nên
yêu cầu bị đơn phải tháo dỡ tài sản để trả lại diện tích 15,3m
2
thuộc thửa số 411,
tờ bản đồ số 37, tại P, huyện L cho nguyên đơn theo Mảnh trích đo địa chính
ngày 02/5/2024 của Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai huyện L.
2. Quá trình tham gia tố tụng tại phiên tòa, bị đơn ông Phạm Văn T1,
Nguyễn Thị N trình bày:
4
Khoảng tháng 4 năm 2009 vợ chồng ông T1 và ông Nguyễn Thanh V1
mua của ông Nguyễn Ngọc P Đặng Thị N1 diện tích đất chiều ngang
30m × dài 26m tại P, huyện L. Sau đó ông V1 chia cho vợ chồng ông diện
tích ngang 6m × dài 26 m, tổng diện tích 156m
2
(hiện nay thửa số 413
411). Trong đó, 60m
2
thổ cư, sau đó vợ chồng ông làm thtục lên thổ
thêm 28m
2
. Tổng cộng hơn 80m
2
đất thổ cư.
Khi mua bán, hai bên có lập giấy tay nhưng giấy tay đã thất lạc nên không
cung cấp được cho Tòa án. Lúc đó, ông V1 xuống đo chia đất cho vợ
chồng ông đúng như diện tích đã mua bán trước đây người trực tiếp làm
thủ tục tách thửa, sang tên cho vợ chồng ông. Cùng thời điểm năm 2009 sau khi
mua đất chia đất thì vchồng ông tiếp tục gọi cho ông P, ông V1, các hộ
xung quanh cùng cán bộ địa phương đến chứng thực đo đạc xác định lại ranh
đất, được vợ chồng ông P xác nhận. Khoảng cuối năm 2019, vợ chồng ông xây
xong nhà cấp 4 hết diện tích đất (ngang 6m × dài 26m) và sinh sống ổn định cho
đến nay, không ai tranh chấp. Việc xây nhà có xin phép khu phố.
Ngày 22/4/2010 vợ chồng ông được Ủy ban nhân dân huyện L cấp giấy
CNQSD đất đối với thửa số 412 diện tích 101,5 m
2
thửa số 411 diện tích
84,5m
2
cùng sử dụng chung với ông Trần Văn S và bà Cao Thị S1.
Vợ chồng ông xác định, việc mua bán đất giữa vợ chồng ông, ông V1
vợ chồng ông P đúng, không có tranh chấp gì.
Do vậy, vợ chồng ông đề nghị Tòa án bác đơn khởi kiện của ông T
V, không đồng ý tháo dỡ tài sản trả lại đất. Vợ chồng ông T người mua đất
sau, thiếu đất thì phải đi kiện người bán để đòi đất chứ vợ chồng ông không liên
quan gì đến việc mua bán đất của vợ chồng ông T. Không đồng ý xác định phần
sở hữu, sử dụng thửa số 411, tờ bản đồ số 37 tại xã P, huyện L, mỗi bên được sử
dụng 1/2 tương đương diện tích 42,25m
2
nếu cộng diện tích 101,5m
2
thuộc
thửa số 412 và 42,25m
2
thuộc thửa số 411 tkhông đủ diện tích 156m
2
như
giấy tờ mua bán trước đây, vợ chồng ông phải được sử dụng diện tích 54,5m
2
thuộc thửa số 411 thì mới đủ diện tích.
3. Quá ttrình tố tụng tại Tòa án, người quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông
Nguyễn Ngọc PĐặng Thị N1 trình bày:
Năm 2004 vợ chồng ông mua miếng đất của ông T8 (không htên)
làm thủ tục cấp sổ đỏ diện tích chiều ngang 30m, chiều dài khoảng 26-27m. Đất
tứ cận phía Nam giáp đường mòn rộng 1,5m, phía Bắc giáp đất ông V3, phía Đông
giáp đường, phía Tây giáp đất ông V2. Khoảng năm 2008 vợ chồng ông chuyển
nhượng lại cho ông T1, ông Nguyễn Thanh V1 Cao Thị S1. Sau này những
người này tự tách thửa nhờ vợ chồng ông ra Văn phòng công chứng giấy
tờ chứ vợ chồng ông không biết mỗi người được sử dụng bao nhiêu đất, vị trí, ranh
giới đất như thế nào. Do đó, đề nghị Tòa án giải quyết theo quy định pháp luật.
4. Quá trình tố tụng tại Tòa án, người quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông
Nguyễn Thanh V1 trình bày:
5
Ông đứng ra mua lại một mảnh đất của ông Nguyễn Ngọc P Đặng
Thị N1, ngang 30m×dài 26m. Sau đó ông nhờ Phòng Tài nguyên và Môi trường
huyện L đo đạc chia cho ông Phạm Văn T1 ngang 6m Cao Thị S1 ngang 6m.
Diện tích còn lại ông đã chuyển nhượng lại cho người khác. Hiện ông không còn
liên quan gì đến đất này nữa.
5. Quá trình tố tụng tại Tòa án, người quyền lợi, nghĩa vụ liên quan
ông Trần Văn S trình bày (vợ là bà Cao Thị S1 không có văn bản ý kiến):
Khoảng năm 2010 vợ chồng ông mua chung với ông Nguyễn Thanh
V1 mảnh đất của ông Nguyễn Ngọc P bà Đặng Thị N1, diện tích ngang 6m,
dài khoảng 30m tọa lạc tại P, huyện L. Việc mua bán đất làm hợp đồng
chuyển nhượng, công chứng hợp pháp. Ông V1 mời địa chính xuống đo
đạc, cắm mốc và làm thủ tục tách thửa chứ ông không trực tiếp đi. Tại thời điểm
mua là đất trống.
Ngày 22/4/2010, vchồng ông được Ủy ban nhân dân huyện L cấp giấy
CNQSD đất số BB 210438 đối với thửa số 413, tờ bản đồ số 37, diện tích 118
m
2
, trong đó có 40m
2
đất ở và 78m
2
đất trồng cây hàng năm.
Sau khi được cấp giấy chứng nhận thì vợ chồng ông không đo đạc lại nữa,
mới đo đạc tách thửa sang tên. Trên đất vợ chồng ông cũng không xây dựng
công trình, vật kiến trúc gì mà để đất trống.
Đến năm 2013, vợ chồng ông chuyển nhượng toàn bộ thửa đất nêu trên
cho ông Hoàng Văn T2 Nguyễn Thị N2. Sau đó ông T2 N2 chuyển
nhượng cho ai nữa thì ông không rõ.
Vợ chồng ông đã chuyển nhượng đất cho người khác, không ai thắc
mắc gì về việc mua bán đất trước đây, vợ chồng ông không còn liên quan gì đến
đất này nữa. Đề nghị Tòa án giải quyết vụ án theo quy định pháp luật, vợ chồng
ông không có yêu cầu gì trong vụ án này.
6. Quá trình tố tụng tại Tòa án, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan
ông Hoàng Văn T2Nguyễn Thị N2 trình bày:
Tháng 4/2013 vợ chồng ông mua của ông S S1 thửa số
411/84,5m
2
và 413/118m
2
, tờ bản đồ số 37 tại P, huyện L. Thửa số 411 vợ
chồng ông S vợ chồng ông T1 đồng sử dụng. Khi sang nhượng đất, ông S
chỉ ranh đất, mặt tiền giáp hẻm ng, chiều dài 26.5m, mặt giáp thửa số 411
dài 6m, riêng cạnh giáp thửa số 412 của ông T1 đã xây nhà sát ranh mốc, ông T1
nói cứ yên tâm nên vợ chồng ông không đo đạc lại. Việc sang nhượng đất được
Nhà nước công nhận sang tên cho vợ chồng ông.
Đến năm 2016, vợ chồng ông sang nhượng lại cho ông T V thửa số
411 và 413. Khi chuyển nhượng đất vchồng ông chỉ ranh mốc giáp tường
nhà ông T1 chiều ngang là 5,8m kéo dài ra phía ngoài chứ không đo đạc lại. Lúc
chuyển nhượng đất đất trống chỉ nhà ông T1 xây nhà, không thấy con
đường đất. Vợ chồng ông đã ủy quyền cho con i tên Hoàng Thị T3 hoàn tất
thủ tục sang nhượng đất cho ông T và bà V.
6
7. Quá trình tố tụng tại Tòa án, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà
Hoàng Thị T3 trình bày:
Bà là con ruột của ông T2 và bà N2. Ông T2 và bà N2 là chủ sử dụng thửa
413, tờ bản đồ số 37 diện tích 118m
2
tại xã P, huyện L. Năm 2015 ông T2 và bà
N2 ủy quyền cho sang nhượng lại thửa số 413 cho ông T V.
chuyển nhượng đất theo diện tích ghi trong giấy tờ đã cấp. Thửa số 413, chiều
ngang giáp đường dài 5,8m, chiều ngang sau dài 6m, bên cạnh giáp đường, 1
cạnh giáp đất ông T1.
8. Quá trình tố tụng tại Tòa án, người quyền lợi, nghĩa vụ liên quan
Ngân hàng TMCP Phát triển Thành phố H trình bày:
Hiện tại ông Phạm Văn T1 bà Nguyễn Thị N đang nghĩa vụ tại
Ngân hàng theo Hợp đồng tín dụng số 42251/21MN/HĐTD ngày 08/11/2021
Khế ước nhận nợ số 42251/21MN/HĐTD/KUNN01 ngày 09/11/2021.
Khoản vay trên được thế chấp bằng tài sản bảo đảm là thửa đất số 412, tờ
bản đồ số 37, tại xã P, huyện L theo Hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất số
20788/19MN/HĐBĐ ngày 12/07/2019 Hợp đồng sửa đổi, bổ sung hợp đồng
số 20788/19MN/HĐBĐ/PL01 ngày 08/11/2021. Khách ng đang thực hiện
đúng nghĩa vụ thanh toán với Ngân hàng chưa phát sinh vi phạm hợp đồng
tín dụng. Ngân hàng chưa yêu cầu độc lập trong vụ án tranh chấp quyền sử
dụng đất theo thông báo thụ lý vụ án số 40/2021/TLST-DS ngày 16/04/2021.
9. Tại Bản án dân sự thẩm số 93/2024/DS-ST ngày 30/9/2024 của Tòa
án nhân dân huyện Long Điền đã tuyên xử:
1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn ông Nguyễn Văn T
Nguyễn Thị V đối với bị đơn ông Phạm Văn T1 Nguyễn Thị N về việc
“Tranh chấp quyền sử dụng đất xác định phần sở hữu, quyền sử dụng đất
trong khối tài sản chung”.
1.1 Buộc ông Phạm Văn T1 Nguyễn Thị N phải thanh toán cho ông
Nguyễn Văn T Nguyễn Thị V gtrị quyền sử dụng diện tích 19,1m
2
đất
thuộc thửa đất số 413, tờ bản đồ số 37, tại P, huyện L, tỉnh Rịa - Vũng
Tàu với số tiền 105.050.00 (Một trăm lẻ năm triệu, không trăm năm mươi
ngàn đồng).
Ông Phạm Văn T1 Nguyễn Thị N được quyền sử dụng diện tích
19,1m
2
đất được hiệu bởi các điểm tọa độ (A3, B2, B3, A4, A3) thuộc thửa
đất số 413, tờ bản đsố 37, tại P, huyện L, tỉnh Rịa - Vũng Tàu theo
Mảnh trích đo địa chính lập ngày 02/5/2024 của Chi nhánh Văn phòng đăng
đất đai huyện L.
1.2 Xác định phần sở hữu, quyền sử dụng đất của ông Nguyễn Văn T
Nguyễn Thị V được phân chia là 1/2 thửa đất số 411, tờ bản đồ số 37 tại xã P,
huyện L, tỉnh Rịa - Vũng Tàu (tương đương 42,25m
2
đất gồm các phần diện
tích 15,3m
2
; 20,69 m
2
6,26m
2
)
theo Mảnh trích đo địa chính lập ngày
02/5/2024 của Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai huyện L.
7
Buộc ông Phạm Văn T1 và Nguyễn Thị N phải thanh toán cho ông
Nguyễn Văn T Nguyễn Thị V giá trị quyền sdụng diện tích 15,3m
2
nằm
trong diện tích 42,25m
2
thuộc thửa đất số 411, tờ bản đồ số 37 tại xã P, huyện L,
tỉnh Rịa - Vũng Tàu với số tiền 84.150.000đ (T6 mươi bốn triệu, một trăm
năm mươi ngàn đồng).
Ông Phạm Văn T1 bà Nguyễn Thị N được quyền sử dụng diện tích
15,3m
2
đất được hiệu bởi các điểm tọa độ (A1, A2, A3, A4, A5, A1) thuộc
thửa đất số 411, tờ bản đồ số 37 tại P, huyện L, tỉnh Rịa - Vũng Tàu theo
Mảnh trích đo địa chính lập ngày 02/5/2024 của Chi nhánh Văn phòng đăng
đất đai huyện L.
(Mảnh trích đo địa chính được đính kèm Bản án)
2. Các đương sự trách nhiệm liên hệ quan nhà nước thẩm quyền
để làm thủ tục chỉnh lý, đăng ký biến động đất đai theo quy định pháp luật.
Ngoài ra bản án sơ thẩm còn tuyên về án phí, chi phí tố tụng, nghĩa vụ thi
hành án và quyền kháng cáo của các bên đương sự theo quy định của pháp luật.
10. Nội dung kháng cáo:
Ngày 11/10/2024, Tòa án nhân dân huyện Long Điền nhận được đơn
kháng cáo của bị đơn ông Phạm Văn T1 có nội dung kháng cáo toàn bộ bản án
thẩm, yêu cầu Tòa án bác bỏ toàn bộ bản án dân sự thẩm s93/2024/DS-
ST ngày 30/9/2024 của Tòa án nhân dân huyện Long Điền.
11. Tại phiên tòa phúc thẩm:
Nguyên đơn vẫn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện, bị đơn giữ nguyên yêu cầu
kháng cáo. Các bên đương skhông thỏa thuận được việc giải quyết vụ án
không cung cấp tài liệu, chứng cứ mới.
12. Kiểm sát viên phát biểu ý kiến:
Về tố tụng: Quá trình thụ lý, giải quyết vụ án và tại phiên tòa, Thẩm phán,
thành viên Hội đồng xét xử những người tham gia tố tụng đã thực hiện đúng
quy định của Bộ luật tố tụng dân sự.
Về nội dung: Đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ Điều 304, Điều 259
BLTTDS năm 2015 tạm ngừng phiên tòa để thu thập thêm chứng cứ sau:
Tiến hành xem xét thẩm định lại đất tranh chấp để xác định ông Nguyễn
Văn T7 sử dụng một phần diện tích thửa 411 như ông Phạm Văn T1 trình
bày hay không; trường hợp xác định ông Nguyễn Văn T7 đang sử dụng một
phần thửa 411 thì cần lấy lời khai của ông Nguyễn Văn T7 xem tranh chấp
hay không.
Xác định thời điểm ông Nguyễn Thanh V1, ông Phạm Văn T1 Cao
Thị S1 nhận chuyển nhượng đất của ông Nguyễn Ngọc P, Đặng Thị N1
thời điểm vợ chồng ông Phạm Văn T1, bà Nguyễn Thị N xây nhà.
8
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án được thẩm
tra tại phiên tòa, căn cứ kết quả tranh tụng tại phiên tòa, ý kiến của kiểm t
viên. Hội đồng xét xử phúc thẩm nhận định:
[1] Về tố tụng:
[1.1] Đơn kháng cáo của bị đơn ông Phạm Văn T1 đảm bảo đúng thủ
tục, nội dung nộp trong thời hạn theo quy định tại các Điều 272, 273 của Bộ
luật tố tụng dân sự nên hợp lệ; Hội đồng xét xử phúc thẩm chấp nhận xem xét lại
Bản án dân sự thẩm số 93/2024/DS-ST ngày 30/9/2024 của Tòa án nhân dân
huyện Long Điền theo trình tự phúc thẩm.
[1.2] Xét sự vắng mặt của đương sự tại phiên tòa: Các đương sự vắng mặt
đã được Tòa án triệu tập hợp lệ tham gia phiên tòa, nhưng vắng mặt tại phiên tòa
lần thứ hai không sự kiện bất khả kháng hay trở ngại khách quan một số
đương sự đã đơn xin xét xử vắng mặt; căn cứ vào Điều 296 Bộ luật Tố tụng
dân sự, Tòa án vẫn tiến hành xét xử vụ án.
[2] Xét nội dung kháng cáo của ông Phạm Văn T1 thì thấy:
[2.1] Về nguồn gốc các thửa đất số 411, 412, 413:
Căn cứ vào hồ sơ sao lục do Chi nhánh Văn phòng Đăng ký đất đai huyện
L cung cấp thể hiện về nguồn gốc các thửa đất số 411, 412, 413 như sau:
Ngày 15/10/1998, ông Ngô Hữu T8 được Ủy ban nhân dân huyện L (nay
huyện L) cấp giấy CNQSD đất số N 230029 đối với thửa số 238/538,9m
2
thửa số 234/219,6m
2
tờ bản đồ số 37 tại P (nay P), huyện L. Ngày
30/6/2003 ông T8 chuyển nhượng toàn bộ 2 thửa đất trên cho Đặng Thị N1.
Ngày 24/10/2003, N1 được Ủy ban nhân dân huyện L cấp giấy CNQSD đất
số X 172930.
Ngày 15/01/2010 ông Nguyễn Ngọc P Đặng Thị N1 tách thửa và
chuyển nhượng cho ông T1 N diện tích 101,5m
2
được tách tthửa số 234
kèm theo đồ vị trí tỉ lệ 1/500 (nay thửa s412). ng ngày 15/01/2010,
ông Nguyễn Ngọc P Đặng Thị N1 chuyển nhượng cho ông T1 N
cùng sử dụng với ông Trần Văn S Cao Thị S1 diện tích 84,5m
2
được tách
ra từ thửa số 238 kèm theo đồ vị trí tỉ lệ 1/500 (nay thửa số 411). Ngày
22/01/2010, ông T1 N được Ủy ban nhân dân huyện L cấp giấy CNQSD
đất số BB 210441 cùng sdụng với ông Trần Văn S Cao Thị S1 đối với
thửa số 411/84,5m
2
. Ngày 22/01/2010, ông S S1 được Ủy ban nhân dân
huyện L cấp giấy CNQSD đất số BB 210440 cùng sử dụng đất với ông T1 và bà
N đối với thửa số 411/84,5m
2
. Ngày 22/4/2010 ông T1 N được Ủy ban
nhân dân huyện L cấp giấy CNQSD đất số BB 210439 đối với thửa s
412/101,5m
2
. Ngày 22/4/2010, ông S S1 được Ủy ban nhân dân huyện L
cấp giấy CNQSD đất số BB 210438 đối với thửa số 413/118m
2
.
Năm 2013, ông S S1 chuyển nhượng lại thửa số 411, 413 cho ông
Hoàng Văn T2 Nguyễn Thị N2. Ngày 24/6/2013 ông T2 N2 được
9
Ủy ban nhân dân huyện L cấp giấy CNQSD đất số BN 938522 đối với thửa số
413/118m
2
giấy CNQSD đất số BN 938523 đối với thửa số 411/84,5m
2
cùng
sử dụng với người khác.
Sau đó ông T2 N2 ủy quyền cho Hoàng Thị T3 chuyển nhượng
thửa số 411, 413 cho ông Nguyễn Văn T Nguyễn Thị V. Ngày 28/3/2016
ông T và V được Ủy ban nhân dân huyện L cấp giấy CNQSD đất số CC
910728 cùng sử dụng đất với ông T1 N đối với thửa số 411/84,5m
2
. Ngày
28/3/2016 ông T V được Ủy ban nhân dân huyện L cấp giấy CNQSD đất
số CC 910729 đối với thửa số 413/118m
2
.
[2.2] Xét ranh giới phần đất các bên thực hiện giao dịch chuyển
nhượng quyền sử dụng đất trên thực tế thì thấy:
Theo ông Nguyễn Ngọc P và bà Đặng Thị N1 thì vào năm 2003 gia đình
N1 nhận chuyển nhượng đất của ông Ngô Hữu T8 02 thửa đất liền kề nhau,
chiều ngang giáp đường 30m chiều sâu 26m 27m. Đến năm 2009,
thì chuyển nhượng lại 02 thửa đất này cho ông Nguyễn Thanh V1, ông Phạm
Văn T1 và bà Cao Thị S1.
Theo ông V1, ông T1 chồng S1 (ông S) thì vào năm 2009, các ông
V1, T1, S1 mua chung của N1, diện tích đất ngang 30m, sâu 26m-27m.
Khi mua xong thì ông V1 chia thửa đất ra thành 5 phần, mỗi phần diện tích
ngang 6m, dài 26m 27m. Trong năm 2009, ông V1 đã bàn giao 01 phần đất
cho ông T1 chiều ngang 6m, bàn giao cho bà S1 01 phần đất chiều
ngang 6m. Phần diện tích đất còn lại của ông V1. Trong năm 2009, ông T1
đã tiến hành xây dựng căn nhà trên đất để ở, khi ông T1 tiến hành xây dựng nhà
để thì ông V1, S1 cũng đã xác định đúng mốc giới, không ai tranh chấp
giao cho ông V1 làm các giấy tờ sang tên thửa đất.
Theo gia đình N1 thì N1 không phải người đi làm thủ tục tách
thửa, rồi mới bán cho ông V1, ông T1 S1, khi chuyển nhượng t
chuyển nhượng chung, không xác định phần đất của tng người, không biết ai
được hưởng diện tích bao nhiêu.
Như vậy, trên thực tế vào năm 2009, việc chuyển nhượng quyền sdụng
đất thuộc thửa số 238/538,9m
2
và thửa số 234/219,6m
2
, tờ bản đồ số 37, đã được
ông V1, ông T1 S1 xác lập ranh giới theo thỏa thuận. Theo đó, phần diện
tích đất của ông T1 được chia ngang 6m đã được ông T1 xây dựng nhà cấp 4
để ở hiện hữu. Khi tiến hành xây dựng nhà, giữa ông V1, ông T1 và bà S1 không
ai tranh chấp khiếu nại. Đồng thời, theo xác nhận ông Trần Văn S vợ
chồng ông Hoàng Văn T2, Nguyễn Thị N2 thì: năm 2013, ông S, S1 đã
chuyển nhượng phần đất của mình được chia năm 2009 cho ông T2, N2. Tại
thời điểm chuyển nhượng thì các bên xác định ranh giới đất tiếp giáp với căn
nhà của gia đình ông T1. Vợ chồng ông S và vợ chồng ông T2 không tranh
chấp khi nhận bàn giao đất.
Mặt khác, tại phiên tòa phúc thẩm, ông Nguyễn Văn T, Nguyễn Thị V
xác định: Năm 2016, vợ chồng ông T nhận chuyển nhượng đất của ông T2,
10
N2 chiều ngang mặt tiền tiếp giáp đường 5.85m, chiều ngang sau thửa đất
6m chiều dài 26m-27m. Khi nhận đất thì ông T2, N2 cũng đã bàn
giao đất cho ông T, bà V phần đất tiếp giáp với căn nhà của ông T1 đang ở.
Căn cứ vào Mảnh trích đo địa chính ngày 02/5/2024 của Chi nhánh Văn
phòng Đăng đất đai huyện L đã thực hiện việc lồng ghép diện tích đất được
cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho vợ chồng ông T1 với diện tích đất
thực tế của gia đình ông T1 đang sử dụng thì có 19,1m
2
nằm trong ranh giới của
thửa đất số 413, tờ bản đồ số 37 (đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng
đất cho ông T, V năm 2016) và 15,3m
2
nằm trong ranh giới thửa đất số 411,
tờ bản đồ số 37 (được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho vợ chồng ông
T, vợ chồng ông T1 đồng sử dụng). Trong khi đó, phần diện tích đất thực tế của
gia đình ông T kéo ranh từ căn nhà của ông T1 để chiều ngang 5.85m thì
phần diện tích 24.3m
2
đất giao thông. Đồng thời, một phần thửa đất số 411 tờ
bản đồ số 37 (đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho đồng sử dụng
là vợ chồng ông T, vợ chồng ông T1) nằm ngoài diện tích căn nhà của vợ chồng
ông T1 thể hiện giáp ranh với thửa đất 238 của nhà ông Nguyễn Văn T7.
Như vậy, ranh giới trên thực tế sử dụng đất của gia đình ông T1 đã không
trùng khớp với ranh giới thể hiện trên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất mà vợ
chồng ông T1 được cấp.
Trong quá trình giải quyết vụ án, Tòa án cấp sơ thẩm nhận định rằng: Ông
T1 không cung cấp được tài liệu, chứng cứ chứng minh việc chuyển nhượng đất
chiều ngang thửa đất 6m, chiều dài 26m-27m. Để từ đó căn cứ vào ranh
giới thể hiện trên Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đã cấp cho vợ chồng ông
T1, vợ chồng ông T để xác định ranh giới giữa các thửa đất chấp nhận yêu
cầu khởi kiện của nguyên đơn là chưa đủ căn cứ vững chắc.
[2.3] Để có cơ sở giải quyết vụ án, Tòa án phải xác minh:
Thứ nhất, làm thời điểm xây dựng n của gia đình ông T1, N,
xây dựng đúng phần diện tích đất chiều ngang 06m hay không? Ai người
trực tiếp làm thtục tách thửa sang tên thửa đất từ ông P, N1 sang cho ông
V1, ông T1, S1. Trường hợp xác định gia đình ông T1 xây dựng nhà để
trước thời điểm tách thửa đất để sang tên cho ông T1, S1 thì cần phải xác
định việc tách thửa đất có đúng với thực tế giao đất, sử dụng đất hay không; nếu
cần thiết phải hủy hoặc điều chỉnh lại ranh giới thửa đất trên giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất đã cấp. Bởi lẽ, căn cứ để xác định khi phân chia quyền sử
dụng đất giữa ông V1, ông T1 và bà S1 đã xác lập ranh giới các thửa đất theo sự
thỏa thuận của các bên được quy định tại Điều 175 Bộ luật Dân sự 2015 “Ranh
giới giữa các bất động sản liền kề được xác định theo thỏa thuận”.
Thứ hai, cần thu thập hồ địa chính qua các thời kỳ thể hiện thửa đất số
238 thửa đất số 234 tbản đồ số 37; xác minh sự hình thành con đường đất
tiếp giáp với thửa 413, tứ cận của con đường đất trước đây, tiến hành lồng ghép
so sánh đối với với tứ cận của con đường đất hiện hữu. Để từ đó làm sở
xác định việc Chi nhánh Văn phòng Đăng đất đai huyện L thể hiện diện tích
11
đất giao thông 24.3m
2
trên Mảnh trích đo địa chính ngày 02/5/2024 căn cứ
hay không có căn cứ pháp luật. Bởi lẽ, căn cứ vào sơ đồ ngày 24/6/2022 của Chi
nhánh Văn phòng Đăng đất đai huyện L thhiện thì diện tích đất thực tế
gia đình ông T1, ông T đang sử dụng đúng với diện tích đất mà vợ chồng ông T,
ông T1 đã nhận chuyển nhượng.
Thứ ba, tại phiên tòa phúc thẩm, ông T1 xác định: ông T7 đang sdụng
diện ch đất thuộc một phần của thửa đất 411 (đã được cấp giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất cho vợ chồng ông T1, ông T) giáp ranh với thửa 238 của gai
đình ông T7 giáp ranh với nhà của ông T1. Do đó cần phải đưa ông Nguyễn
Văn T7 tham gia vụ án với tư cách người quyền lợi, nghĩa vụ liên quan để
xem xét ông T7 có tranh chấp đối với phần diện tích thuộc thửa đất 411 này hay
không, đồng thời, xác định ranh giới đất giữa ông T7 ông T1 đã được xác
lập từ thời gian nào, đúng với lời trình bày của ông T1 ranh giới các phần
đất được chia đã được các bên thống nhất thỏa thuận từ năm 2009 hay không.
Thứ tư, theo xác nhận của ông T, V diện tích đất nhận chuyển nhượng
của ông T2, N2 chiều ngang mặt tiền tiếp giáp đường 5.85m, chiều
ngang sau thửa đất 6m chiều dài 26m-27m nên cần thể hiện diện tích
thực tế này trên Mảnh trích đo địa chính của quan đo đạc để làm căn cứ xem
xét yêu cầu của ông T, bà V.
Từ những phân tích trên, Hội đồng xét xử phúc thẩm nhận thấy: Việc thu
thập chng cứ và chứng minh chưa được thực hiện đầy đủ mà tại phiên tòa phúc
thẩm không thể thực hiện bổ sung được; nên chưa có căn cứ để Hội đồng xét xử
xem xét giải quyết yêu cầu của đương sự trong vụ án. Căn cứ vào khoản 3 Điều
308, Điều 310 Bộ luật Tố tụng dân sự, cần chấp nhận một phần kháng cáo của bị
đơn – ông Phạm Văn T1, hủy toàn bộ bản án sơ thẩm và chuyển hồ sơ vụ án cho
Tòa án cấp sơ thẩm giải quyết lại theo thủ tục sơ thẩm.
[3] Về chi phí tố tụng và án phí dân sự sơ thẩm: sẽ được giải quyết khi vụ
án được giải quyết lại.
[4] Về án phí dân s phúc thẩm: Bản án thẩm bị hủy nên ông Phạm
Văn T1 không phải chịu.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ vào khoản 3 Điều 308, Điều 310 Bộ luật Tố tụng Dân sự,
1. Hủy toàn bộ bản án dân sự thẩm số 93/2024/DS-ST ngày 30/9/2024
của Tòa án nhân dân huyện Long Điền (Nay huyện L) chuyển hồ cho
Tòa án nhân dân huyện Long Đất để xét xử lại vụ án theo thủ tục sơ thẩm.
2. Về chi phí tố tụng và án pdân sự thẩm: Sẽ được quyết định khi
giải quyết lại vụ án.
12
3. Án phí dân sự phúc thẩm: Ông Phạm Văn T1 không phải chịu án phí
dân sự phúc thẩm.
4. Bản án phúc thẩm hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án (ngày
25/6/2025).
Nơi nhận:
- VKSND tnh BR-VT;
- TAND huyn Long Đất;
- Chi cc THADS h. Long Đất;
- Các đương sự;
- Lưu.
TM. HỘI ĐỒNG XÉT X PHÚC THM
THM PHÁN CH TA PHIÊN TÒA
Cao Xuân Long
13
Tải về
Bản án số 131/2025/DS-PT Bản án số 131/2025/DS-PT

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án số 131/2025/DS-PT Bản án số 131/2025/DS-PT

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án/ Quyết định cùng đối tượng

Bản án cùng lĩnh vực

Bản án mới nhất