Bản án số 116/2025/DS-PT ngày 04/06/2025 của TAND tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu về tranh chấp quyền sử dụng đất

  • Thuộc tính
  • Nội dung
  • VB gốc
  • VB liên quan
  • Lược đồ
  • Đính chính
  • Án lệ
  • BA/QĐ cùng nội dung
  • Tải về
Tải văn bản
Báo lỗi
  • Gửi liên kết tới Email
  • Chia sẻ:
  • Chế độ xem: Sáng | Tối
  • Thay đổi cỡ chữ:
    17

Thuộc tính Bản án 116/2025/DS-PT

Tên Bản án: Bản án số 116/2025/DS-PT ngày 04/06/2025 của TAND tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu về tranh chấp quyền sử dụng đất
Quan hệ pháp luật: Tranh chấp quyền sử dụng đất
Cấp xét xử: Phúc thẩm
Tòa án xét xử: TAND tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu
Số hiệu: 116/2025/DS-PT
Loại văn bản: Bản án
Ngày ban hành: 04/06/2025
Lĩnh vực: Dân sự
Áp dụng án lệ:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Đính chính:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Thông tin về vụ/việc: Ông Bùi Quang N khởi kiện bà Nguyễn Thị T, ông Huỳnh Văn C về việc
Tóm tắt Bản án

Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!

Tải văn bản

TÒA ÁN NHÂN DÂN
TNH BÀ RA - VŨNG TÀU
Bn án s: 116/2025/DS-PT
Ngày 04 - 6 - 2025
V/v Tranh chp quyn s dụng đất
CNG HÒA XÃ HI CH NGHĨA VIỆT NAM
Độc lp - T do - Hnh phúc
NHÂN DANH
C CNG HÒA XÃ HI CH NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN TNH BÀ RA - VŨNG TÀU
- Thành phn Hội đồng xét x phúc thm gm có:
Thm phán - Ch ta phiên tòa: Ông Cao Xuân Long
Các Thm phán: Ông Trịnh Hoàng Anh
Bà Bùi Thị Thương
- Thư ký phiên tòa: H Th Tâm - Thư Tòa án nhân dân tnh Bà Ra -
Vũng Tàu.
- Đại din Vin Kim sát nhân dân tnh Bà Ra - Vũng Tàu: Bà Lê Th Vn
- Kim sát viên tham gia phiên tòa.
Trong các ngày 28 tháng 5 ngày 04 tháng 6 năm 2025, tại trụ sở Tòa án
nhân dân tỉnh Rịa - Vũng Tàu, xét xử phúc thẩm công khai vụ án dân sự thụ
số 205/2024/TLPT-DS ngày 18 tháng 10 năm 2024 về việc “Tranh chấp quyền sử
dụng đất”.
Do Bản án dân sự sơ thẩm số 27/2024/DS-ST ngày 23 tháng 5 năm 2024 của
Tòa án nhân dân thị Phú Mỹ (nay thành phố P), tỉnh Rịa - Vũng Tàu bị
kháng cáo.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số 326/2024/QĐ-PT ngày
15/11/2024, Quyết định hoãn phiên tòa số 313/2024/QĐ-PT ngày 10/12/2024, Quyết
định tạm ngừng phiên tòa số 02/2025/QĐPT-DS ngày 09/01/2025, Thông báo m
lại phiên tòa số 63/2025/TB-TA ngày 18/3/2025, Quyết định tạm ngừng phiên tòa
số 17/2025/QĐPT-DS ngày 08/4/2025 Quyết định hoãn phiên tòa số
101/2025/QĐ-PT ngày 06/5/2025 giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Ông Bùi Quang N, sinh năm 1976 (có mặt);
Địa chỉ: khu phố E, phường H, thành phố P, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu.
- Bị đơn: Nguyễn Thị T, sinh năm 1954 (có mặt) ông Huỳnh Văn C,
sinh năm 1950 (vắng mặt).
Địa chỉ: khu phố T, phường H, thành phố P, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu.
2
Người đại diện theo ủy quyền của ông Huỳnh Văn C:Nguyễn Thị T, sinh
năm 1954; Địa chỉ: Khu phố T, phường H, thành phố P, tỉnh Rịa - Vũng Tàu (có
mặt).
Người đại diện theo ủy quyền của ông Huỳnh Văn C Nguyễn Thị T:
Ông Đức T1, sinh năm 1996; Địa chỉ: 2, khu phố E, T, thành phố B, tỉnh Đồng
Nai. (vắng mt)
Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp: Ông Đinh Công T2, sinh năm 1981
Luật sư thuộc Văn phòng L, Đoàn Luật sư tỉnh Đ; Địa chỉ: 2, khu phố E, T, thành
phố B, tỉnh Đồng Nai. (có mặt)
- Người quyền lợi và nghĩa vụ liên quan: Huỳnh Thị Kim H, sinh năm
1977; Địa chỉ: Khu phố E, phường H, thành phố P, tỉnh Rịa - Vũng Tàu (vắng
mặt).
- Người làm chứng:
1. Nguyễn Thị Ngọc N1, sinh năm 1994; Địa chỉ: Khu phố T, phường H,
thành phố P, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu (vắng mặt).
2. Ông Lê Kim Đ, sinh năm 1955; Địa chỉ: Khu phố E, phường H, thành phố
P, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu (vắng mặt).
- Người kháng cáo: Nguyễn Thị T và ông Huỳnh Văn C, là bị đơn trong
vụ án.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
1. Theo đơn khởi kiện, đơn khởi kiện bổ sung, quá trình tố tụng tại phiên
tòa nguyên đơn ông Bùi Quang N trình bày:
Ông và bà Huỳnh Thị Kim H chủ sử dụng của thửa đất số 27, tờ bản đồ số
13 (thửa 31, tờ bản đồ số 33) diện tích 1.934,1m
2
tolạc tại khu phố T, phường
H, thị P, tỉnh Rịa - Vũng Tàu. Đất được công nhận quyền sử dụng đất theo
Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất (GCN QSDĐ) số BG 560523, được Ủy ban
nhân dân (UBND) huyện T (nay là UBND thành phố P) cấp ngày 28/9/2011 cho bà
Lê Thị Thu V, điều chỉnh biến động sang tên ông Bùi Quang N, bà Huỳnh Thị Kim
H ngày 20/5/2021.
Vị trí thửa đất như sau: Phía Đông giáp đường vào cổng sau trường tiểu học
N2; Phía Tây một phần giáp đất của gia đình ông N, một phần giáp thửa 864; Phía
Nam giáp thửa 44 của ông Huỳnh Văn C; Phía Bắc giáp đường nhựa.
Nguồn gốc thửa đất: Vào năm 2021 ông N, bà H nhận chuyển nhượng lại của
ông Nguyễn Hữu T3, bà Nguyễn Thị Ngọc N1.
Quá trình sử dụng đất, đến khoảng giữa năm 2022 ông N phát hiện trong
khuôn viên của thửa 27 ông Huỳnh n C, Nguyễn ThT đã tự ý xây dựng 01
căn nhà tạm với diện tích khoảng 50m
2
để làm quán buôn bán hàng. Ông N đã nhiều
lần yêu cầu ông C, bà T di dời nhà tạm để trả lại đất cho ông N nhưng không có kết
quả.
3
Quá trình Toà án giải quyết tranh chấp, theo sự chỉ ranh của ông C, T thì
ông C, bà T đã sử dụng đất lấn chiếm thửa đất số 27 của ông với diện tích 328,7m
2
được thể hiện tại các điểm (5-6-7-8-9-10-11-12-5) trên đồ vị trí ngày 25/01/2024
của Trung tâm Kỹ thuật Tài nguyên Môi trường tỉnh B. Tại vị trí đất tranh chấp
trên ông C, bà T đã xây dựng 01 căn nhà tạm, kè đá chẻ trong khuôn viên diện tích
đất lấn chiếm.
Nay ông có yêu cầu khởi kiện như sau:
- Yêu cầu ông Huỳnh Văn C, bà Nguyễn Thị T trả lại diện tích đất lấn chiếm
là 328,7m
2
thuộc thửa đất số 27, tờ bản đồ số 13 toạ lạc tại phường H, thị xã P, tỉnh
Rịa - Vũng Tàu thể hiện tại các điểm (5-6-7-8-9-10-11-12-5) trên đồ vị trí
ngày 25/01/2024 của Trung tâm Kỹ thuật Tài nguyên và Môi trường tỉnh B.
- Yêu cầu ông Huỳnh Văn C, Nguyễn Thị T trả tháo dỡ toàn bcông trình,
vật kiến trúc xây dựng trên diện tích đất lấn chiếm là 328,7m
2
thuộc thửa đất số 27,
tờ bản đồ số 13 toạ lạc tại phường H, thị P, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu thể hiện tại
các điểm (5-6-7-8-9-10-11-12-5) trên đvị trí ngày 25/01/2024 của Trung tâm
Kỹ thuật Tài nguyên và Môi trường tỉnh B để trả lại hiện trạng đất trống cho ông.
2. Quá trình tố tụng tại phiên toà bị đơn Nguyễn Thị T đồng thời
người đại diện hợp pháp của bị đơn ông Huỳnh Văn C trình bày:
Năm 1990, Nguyễn Thị T ông Huỳnh Văn C chuyển nhượng cho ông
Lê Kim Đ diện tích 4.000m
2
toạ lạc tại ấp T, xã H, huyện C, tỉnh Đồng Nai (nay là
khu phố T, phường H, thị xã P, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu), đất sát bên trường tiểu học
H3 (nay trường tiểu học N2). Do thời điểm này đất của bà chưa được nhà nước
cấp GCN QSDĐ nên đất không số thửa, số tờ bản đồ, chuyển nhượng cho ông
Đ bằng giấy tay.
Năm 1992 phát hiện ông Đ sử dụng diện tích đất nhiều hơn diện tích
4.000m
2
mà đã chuyển nhượng cho ông Đ nên hai bên đã phát sinh tranh chấp.
Ông Đ đã khởi kiện vợ chồng bà tại Toà án nhân dân huyện Tân Thành (nay là Toà
án nhân dân thành phố Phú Mỹ), sau đó hồ sơ chuyển đến Toà án nhân dân tỉnh Bà
Rịa Vũng Tàu (Do thời gian đã lâu nên không nhớ cụ thể nội dung giải quyết
tranh chấp của Toà án các cấp). Năm 1998 tại Toà án nhân dân tỉnh Bà Rịa Vũng
Tàu đã biên bản ghi nhận sự hoà giải của ông Đ như sau: Ông Đ bỏ ra 01
mét đường đi, diện tích đất ông C rộng thêm 01 métông Đ thanh toán cho ông C
số tiền 10.000.000 đồng, tuy nhiên từ đó đến nay ông Đ vẫn chưa thanh toán cho gia
đình bà số tiền trên.
Đối với thửa 54, tbản đồ số 33 có ranh mốc địa chính ràng từ trước
đến nay gia đình đã sử dụng ổn định, không hề lấn chiếm đất của ai cũng không
có tranh chấp đất với ai.
Đối với vị trí đất tranh chấp ông N xác định thuộc thửa 27, tờ bản đồ số 13
của ông N là không có căn cứvị trí đất trên diện tích đất trước đây vợ chồng
tranh chấp với ông Đ đã được Toà án nhân dân tỉnh Rịa Vũng Tàu giải quyết
tranh chấp năm 1998.
4
Tại vị trí đất này vchồng đang dựng nhà tôn diện tích khoảng 50m
2
để
bán bánh kẹo, trà sữa cho học sinh (vì nằm ngay cổng sau của trường tiểu học N2),
bà đã bán bánh kẹo, trà sữa cho học sinh từ khi m đường cho đến nay là khoảng 03
năm.
Nay đối với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn thì bị đơn không đồng ý. T
xác định diện tích đất tranh chấp 328,7m
2
là thuộc một phần đất của thửa đất số 54,
tờ bản đồ s33 Nhà nước đã công nhận QSDĐ hợp pháp cho ông Huỳnh Văn C.
3. Quá trình tố tụng, người quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Huỳnh Thị
Kim H trình bày:
Bà là vợ của ông Bùi Quang N. Bà và ông N chủ sử dụng của diện tích đất
1.934,1m
2
thuộc thửa đất số 27, tờ bản đồ số 13 (thửa cũ là 31, tờ bản đồ số 33) toạ
lạc tại khu phố T, phường H, thị xã P, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu theo GCN QSDĐ số
BG 560523, do UBND huyện T (nay UBND thị P) cấp vào ngày 28/9/2011.
Thửa đất trên do vợ chồng bà nhận chuyển nhượng của ông Nguyễn Hữu T3 và bà
Nguyễn Thị Ngọc N1 vào ngày 20/5/2021.
Khi vợ chồng bà nhận chuyển nhượng của ông T3, bà N1 thì trên thửa đất số
27, tờ bản đồ số 13 không có công trình xây dựng, vật kiến trúc trên đất, không
cây trồng nào giá trị trên đất. Sau khi nhận chuyển nhượng cho đến nay vợ
chồng bà vẫn đang để đất trống, không xây dựng công trình gì trên đất.
Khoảng tháng 7/2022 vợ chồng đến thăm đất thì phát hiện có người đã xây
dựng nhà tạm trên một phần đất của gia đình (cụ thể phần cuối đất gần cổng
sau của trường tiểu học N2) để làm quán bán hàng cho học sinh. Qua tìm hiểu thì
được biết người xây dựng lấn chiếm trên đất của gia đình bà là gia đình bà Nguyễn
Thị T, ông Huỳnh Văn C. Lúc này ông N có đến yêu cầu T, ông C di dời quán đ
trả lại đất nhưng ông C, bà T không đồng ý và cho rằng phần ông C, bà T đang xây
dựng để buôn bán là đất của ông C, bà T.
thống nhất hoàn toàn với ý kiến yêu cầu khởi kiện của ông N. không
bổ sung gì thêm.
4. Người làm chứng trình bày:
4.1. Tại biên bản lấy lời khai ngày 22/6/2023, người làm chứng Nguyễn
Thị Ngọc N1 trình bày:
là vợ của ông Nguyễn Hữu T3. Năm 2021 bà ông T3 chuyển nhượng
cho ông N, bà H thửa đất số 27, tờ bản đồ số 13 (thửa cũ là 31, tờ bản đồ số 33) toạ
lạc tại phường H, thị xã P, tỉnh Bà Ra - Vũng Tàu.
Trước tại thời điểm chuyển nhượng thửa đất trên cho ông N, bà H thì đất
không tranh chấp với ai, hiện trạng sử dụng đất đất trống, trên đất chỉ một
số cây điều, không có công trình vật kiến trúc gì xây dựng trên đất.
Đối với tranh chấp giữa ông N, H với ông C, T mới phát sinh sau thời
điểm vợ chồng chuyển nhượng đất cho ông N, H. Thời điểm vợ chồng đang
sử dụng đất thì không phát sinh tranh chấp với ông C, T vquyền sử dụng đất.
5
Nay lý do vì sao ông C, bà T đến đất của ông N, bà H xây dựng nhà tạm và có tranh
chấp với ông N, bà H thì bà không nắm rõ.
4.2. Tại biên bản lấy lời khai ngày 24/11/2023, người làm chứng ông Lê Kim
Đ trình bày:
Ông xác định vào khoảng năm 1992 có nhận chuyển nhượng của ông C, bà T
khoảng 4 sào đất, mua bằng giấy tay vì thời điểm đó Nhà nước chưa làm thủ tục cấp
GCN QSDĐ, sau khi nhận chuyển nhượng, ông trực tiếp sử dụng đến khoảng năm
1996 thì ông C, bà T tranh chấp với ông cho rằng ông chưa thanh toán đủ tiền nên
ông đã khởi kiện ra Toà án nhân dân huyện Tân Thành. Toà án nhân dân các cấp có
thẩm quyền đã giải quyết tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất
giữa ông vchồng ông C, T. Kết quả Toà án nhân dân tỉnh Bà Rịa Vũng Tàu
đã quyết định đình chỉ giải quyết vụ án diện tích đất tranh chấp chưa được Nhà
nước cấp GCN QSDĐ nên thuộc thẩm quyền giải quyết của UBND không phải thẩm
quyền của Toà án.
Quá trình giải quyết tại UBND các cấp đến ngày 27/6/2005 đã quyết
định cuối cùng, theo nội dung Quyết định số 2040/QĐ UBND ngày 27/6/2005 của
UBND tỉnh B về việc giải quyết đơn tranh chấp đất của bà Nguyễn Thị T, ngụ tại tổ
A ấp T, H, huyện T, tỉnh Rịa - Vũng Tàu với nội dung “Không thừa nhận diện
tích 4.000m
2
đất toạ lạc tại ấp T, H, huyện T, tỉnh Rịa - Vũng Tàu thuộc quyền
sử dụng hợp pháp của hộ Nguyễn Thị T, ông Huỳnh Văn C trú tại tổ A ấp T, xã
H, huyện T.”
Sau đó ông đã làm thủ tục đăng cấp GCN QSDĐ tại quan thẩm quyền
và được công nhận QSDĐ hợp pháp vào năm 2006 đối với thửa đất số 31, tờ bản đồ
số 33, diện tích 6.797m
2
theo GCN QSDĐ số 695287 do UBND huyện T cấp
ngày 17/4/2006 cho hộ ông Kim Đ, đất nguồn gốc một phần do ông nhận
chuyển nhượng từ ông C, bà T 4.000m
2
phần còn lại do ông khai phá.
Đến ngày 20/10/2006 do gia đình ông không còn nhu cầu sử dụng nên đã
chuyển nhượng thửa đất trên cho em gái Thị Thu V. Sau đó V chuyển
nhượng tiếp cho người khác hiện nay ông được biết phần đất ông chuyển nhượng
cho bà V trước đây đứng tên vợ chồng ông Bùi Quang N, bà Huỳnh Thị Kim H.
Việc bà T, ông C lấn chiếm đất của ông N, bà H và cho rằng diện tích đất bà
T, ông C lấn chiếm đất có nguồn gốc bà T, ông C chuyển nhượng cho ông trước
đây hai bên chưa giải quyết xong tranh chấp là không đúng. Ông xác định UBND
tỉnh B đã giải quyết dứt điểm tranh chấp QSDĐ giữa ông T, ông C vào năm
2005, năm 2006 ông khai đăng đã được Nhà nước công nhận QSDĐ hợp
pháp.
Từ thời điểm UBND tỉnh B ban hành Quyết định số 2040/QĐ – UBND ngày
27/6/2005 đến khi ông chuyển nhượng đất cho V và đến thời điểm hiện nay thì
giữa ông và bà T, ông C hoàn toàn không có tranh chấp nào khác liên quan đến diện
tích 4.000m
2
.
5. Tại Bản án dân sự thẩm số 27/2024/DS-ST ngày 23 tháng 5 năm 2024
của Tòa án nhân dân thị xã Phú Mỹ, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu tuyên xử:
6
Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Bùi Quang N đối với ông Huỳnh Văn
C, bà Nguyễn Thị T về “Tranh chấp quyền sử dụng đất”:
- Buộc ông Huỳnh Văn C, bà Nguyễn Thị Tâm G trả lại diện tích đất 328,7m
2
thuộc thửa 27, tờ bản đồ số 13 tọa lạc tại phường H, thị P, tỉnh Rịa - Vũng Tàu
cho ông Bùi Quang N, bà Huỳnh Thị Kim H sử dụng.
(Vị trí đất được thể hiện tại các điểm (5-6-7-8-9-10-11-12-5)
trên sơ đồ vị trí
tỷ lệ 1/500 do Trung tâm Kỹ thuật Tài nguyên và Môi trường tỉnh B phát hành ngày
25/01/2024 đính kèm bản án).
- Buộc ông Huỳnh Văn C, Nguyễn Thị T tháo dỡ các công trình vật kiến
trúc, cây trồng đã xây dựng gồm: 01 mái che tôn nền láng vữa xi măng có diện tích
48,2m
2
(ký hiệu là điểm S trên đồ vị trí), móng đá chẻ chiều dài 11,95m; di
dời 10 bụi chuối, 02 cây xà cừ do ông C, bà T xây dựng và trồng trên thửa đất số 27,
tờ bản đồ số 13 tọa lạc tại phường H, thị xã P, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu.
Ngoài ra, Bản án thẩm n quyết định về chi phí tố tụng, án phí và quyền
kháng cáo và nghĩa vụ thi hành án.
6. Nội dung kháng cáo:
Ngày 28 tháng 5 năm 2024, bị đơn bà Nguyễn Thị T và ông Huỳnh Văn C
đơn kháng cáo toàn bộ bản án sơ thẩm, yêu cầu cấp phúc thẩm sửa Bản án sơ thẩm
theo hướng bác toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.
7. Tại phiên tòa phúc thẩm:
Nguyên đơn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện; bị đơn yêu cầu Tòa án cấp phúc
thẩm hủy Bản án sơ thẩm trả hồ sơ cho Tòa án cấp thẩm xét xử lại theo thủ tục
sơ thẩm.
Các đương sự không thỏa thuận được với nhau về việc giải quyết vụ án.
8. Kiểm sát viên phát biểu ý kiến:
Về tố tụng: Qtrình thụ lý, giải quyết vụ án tại phiên tòa, Thẩm phán,
thành viên Hội đồng xét xvà những người tham gia tố tụng đã thực hiện đúng quy
định của Bộ luật tố tụng dân sự.
Về nội dung: Đề nghị Hội đồng xét xử phúc thẩm căn cứ khoản 1 Điều 308
Bộ luật Tố tụng dân sđể tuyên xử: Không chấp nhận yêu cầu kháng cáo của
Nguyễn Thị T, ông Huỳnh Văn C giữ nguyên Bản án dân sự thẩm số
27/2024/DS-ST ngày 23/5/2024 của Tòa án nhân dân thị Phú Mỹ (nay thành
phố P), tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án, được thẩm tra tại phiên
tòa, căn cứ kết quả tranh tụng tại phiên tòa, ý kiến của kiểm sát viên. Hội đồng xét
xử phúc thẩm nhận định:
[1] Về tố tụng:
7
[1.1] Đơn kháng cáo của Nguyễn Thị T ông Huỳnh Văn C đảm bảo đúng
thủ tục, nội dung nộp trong thời hạn theo quy định tại các Điều 272, 273 của Bộ
luật Tố tụng dân sự nên hợp lệ; Hội đồng xét xử phúc thẩm chấp nhận xem xét lại
Bản án sơ thẩm theo trình tự phúc thẩm.
[1.2] Xét sự vắng mặt của đương sự tại phiên tòa: Các đương sự vắng mặt đã
được Tòa án triệu tập hợp lệ tham gia phiên tòa, nhưng vắng mặt tại phiên tòa lần
thứ hai không vì sự kiện bất khả kháng hay trở ngại khách quan, hoặc đã có đơn xin
xét xử vắng mặt hoặc người đại diện hợp pháp tham gia phiên tòa, căn cứ vào
Điều 296 Bộ luật Tố tụng dân sự, Tòa án vẫn tiến hành xét xử vụ án.
[2] Xét yêu cầu kháng cáo của bà Nguyễn Thị T ông Huỳnh Văn C thì thấy:
[2.1] Xác định diện tích đất tranh chấp:
Căn cứ vào yêu cầu khởi kiện của ông Bùi Quang N đồ vị trí ngày
25/01/2024 của Trung tâm Kỹ thuật Tài nguyên và Môi trường tỉnh B, Hội đồng xét
xử xác định diện tích đất tranh chấp 328,7m
2
, tọa độ các điểm (5-6-7-8-9-10-
11-12-5)
thuộc thửa đất số 27, tờ bản đồ số 13, tọa lạc tại phường H, thị xã P (nay
thành phố P), tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu.
[2.2] Xét nguồn gốc quá trình biến động thửa đất số 27, tờ bản đồ số 13
(thửa 31, tbản đồ 33) toạ lạc tại phường H, thành phố P, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu
thì thấy:
Căn cứ vào GCN QSDĐ số 695287 của UBND huyện T cấp cho hộ ông
Kim Đ ngày 18/4/2006 thì căn cứ để xác định: Hộ ông Kim Đ chủ sử
dụng hợp pháp diện tích đất 6.797m
2
thuộc thửa đất số 31, tờ bản đồ số 33, tọa lạc
tại ấp T, xã H, huyện T. Tại Biên bản kiểm tra đo đạc ngày 20/02/2006, để bổ sung
vào hồ xin cấp giấy đối với GCN QSDĐ số 695287 cấp ngày 17/4/2006 thì
thửa đất số 31, tờ bản đồ số 33 có tứ cận tiếp giáp như sau: “Phía đông giáp Nguyễn
Thị X, phía tây giáp Đỗ Thị H1, phía nam giáp Huỳnh Văn C, phía bắc giáp đường
nông thôn”, kèm đồ tiếp giáp: đường đất, thửa đất số 446, trường học, thửa đất
số 54 và thửa đất số 30. Biên bản kiểm tra đo đạc này đã được các hộ dân giáp ranh
nêu trên ký tên xác nhận, trong đó có tên ông Huỳnh Văn C.
Đến ngày 20/4/2006, ông Đ vợ Phan Thị Kim T4 chuyển nhượng toàn
bộ diện tích đất trên cho Thị Thu V, ngày 24/4/2006 UBND huyện T cấp GCN
QSDĐ số AĐ 695354, công nhận cho bà Lê Thị Thu V quyền sử dụng hợp pháp đối
với thửa đất trên.
Ngày 06/12/2011, Nhà nước thu hồi diện tích đất 51,8m
2
thuộc thửa đất trên
để xây dựng công trình Đường Q khu dân cư xã H, huyện T. Ngày 23/02/2012 bà V
thực hiện thủ tục tách thửa, cụ thể tách từ thửa 31 thêm thành 08 thửa mới với tổng
diện tích 3.874m
2
. Như vậy, sau khi trừ diện tích đất thu hồi và diện tích đất của 08
thửa đã tách, thì diện tích còn lại của thửa 31, tờ bản đồ 33 là 2.871,2m
2
.
Ngày 28/5/2018, V chuyển nhượng toàn bộ diện tích đất còn lại của thửa
31 là 2.871,2m
2
cho ông Nguyễn Hữu T3, bà Nguyễn Thị Ngọc N1; ông T3, bà N1
được Chi nhánh Văn phòng đăng đất đai thị P thực hiện chỉnh biến động
8
sang tên ngày 02/7/2018; đồng thời điều chỉnh thửa 31, tờ bản đồ 33 thành thửa 27,
tờ bản đồ 13.
Ngày 28/5/2020, Nhà nước thu hồi diện tích đất 994m
2
đất nông nghiệp thuộc
thửa 27, tờ bản đồ 13 để làm công trình đường sau trường tiểu học N2, phường H,
thị P. Diện tích còn lại của thửa 27 1.877,2m
2
đất trồng cây lâu năm. Ngày
24/3/2021, Chi nhánh Văn phòng đăng đất đai thị P đã thực hiện điều chỉnh
biến động, xác định do Nhà nước thu hồi đất làm đường nên thửa 27 chia thành 02
thửa là 27 và 342, tờ bản đồ 13. Diện tích thửa 27 sau khi đo đạc lại là 1934,1m
2
đất
trồng cây lâu năm, thửa 342 diện tích 8,4m
2
đất trồng cây lâu năm. Ngày 08/8/2020
và ngày 10/4/2021, ông T3, bà N1 chuyển nhượng 02 thửa đất là thửa số 27 và thửa
số 342, tờ bản đồ số 13 cho ông Bùi Quang N, Huỳnh Thị Kim H; đến ngày
20/5/2021, Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai thị P đã thực hiện chỉnh lý biến
động sang tên ông N, bà H.
Căn cứ lời khai của bà Nguyễn Thị Ngọc N1, ông Lê Kim Đ xác định từ thời
điểm UBND huyện T QSDĐ hợp pháp cho ông Đ vào năm 2006 đến thời điểm năm
2021 thì thửa đất số 27 không tranh chấp về quyền sử dụng đất. Như vậy, quá
trình biến động đất đai của thửa đất số 27 qua các thời kỳ không ghi nhận tranh chấp
giữa các hộ giáp ranh của thửa đất số 27 về quyền sử dụng đất, ranh giới đất.
Do đó, căn cứ để Hội đồng xét xử phúc thẩm xác định thửa đất số 27, tờ
bản đồ số 13, tọa lạc tại phường H, thành phố P thuộc quyền sử dụng hợp pháp của
ông Bùi Quang N, bà Huỳnh Thị Kim H.
[2.3] Xét nguồn gốc quá trình biến động thửa đất số 54, tờ bản đồ số 33
(sau này là một phần của thửa đất 864, tờ bản đồ số 33) tọa lạc tại phường H, thành
phố P, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu:
Căn cứ vào GCN QSDĐ số 112088 của UBND huyện T cấp cho hộ ông
Huỳnh Văn C ngày 03/10/2005 thì căn cứ để xác định: Hộ ông Huỳnh Văn C
chủ sử dụng hợp pháp diện tích 11.536m
2
đất thuộc thửa đất số 54, tờ bản đồ số 33,
tọa lạc tại ấp T, xã H, huyện T. Tại Biên bản kiểm tra đo đạc ngày 02/6/2005, để b
sung vào hồ xin cấp giấy đối với GCN QSDĐ số AD 112088 cấp ngày 03/10/2005
thì thửa đất số 54, tờ bản đồ số 33 có tứ cận tiếp giáp như sau: “Phía đông giáp
Kim Đ, phía tây giáp đường mòn, phía nam giáp Trần Văn M, phía bắc giáp Châu
Thị X1, kèm sơ đồ tiếp giáp: đường đất, thửa đất số 29, thửa đất số 30, thửa đất số
31, trường tiểu học N2, thửa đất số 273 và thửa đất số 84. Biên bản kiểm tra đo đạc
này đã được UBND H, cán bộ địa chính, trưởng BSX ấp T chủ đất ông
Huỳnh Văn C ký xác nhận.
Năm 2005, ông C tách thửa đất số 54 thêm thành 01 thửa mới (864) có diện
tích 738m
2
. Năm 2013, ông C tách thửa đất số 54 thêm thành 05 thửa: thửa 1232
diện tích 759m
2
, thửa 1233 có diện tích 777m
2
, thửa 1234 có diện tích 777m
2
, thửa
1235 diện tích 777m
2
, thửa 1236 diện tích 777m
2
, diện tích còn lại của thửa
54 là 6.931m
2
. Tại biên bản vviệc xác minh hiện trạng sử dụng đất của ông Huỳnh
Văn C đề ngày 23/02/2022 do bị đơn cung cấp, xác định từ thời điểm cấp giấy ban
đầu đến thời điểm hiện nay thửa đất số 54 ranh giới ràng, sử dụng ổn định,
9
không thay đổi so với ranh giới tại thời điểm có giấy tờ về QSDĐ. Diện tích còn lại
tại GCN QSDĐ số AD 112088 cấp ngày 03/10/2005 đứng tên ông Huỳnh Văn C
6.931m
2
, tương ứng với bản đồ địa chính năm 2015 thửa đất số 44, tờ bản đồ số
12 diện tích 7.107,1m
2
, chênh lệch tăng 186,1m
2
nguyên nhân tăng do sai s
giữa hai lần đo đạc.
Căn cứ vào đồ vị trí thửa đất 864, tờ bản đồ 33, tọa lạc tại H, huyện T
ngày 13/02/2007 đo vtheo yêu cầu của bên chuyển nhượng ông Huỳnh Văn C và
bên nhận chuyển nhượng Huỳnh Văn T5 thì có cơ sở để xác định: Thửa đất 864, tờ
bản đồ 33, tọa lạc tại H diện tích 738m
2
, cạnh tiếp giáp với thửa 31 dài 15m,
cạnh tiếp giáp với thửa 54 dài 40m, cạnh tiếp giáp thửa 54 dài 24m và cạnh giáp
trường học dài 37m. Ngày 13/02/2007, ông T5 được Văn phòng đăng ký quyền sử
dụng đất chỉnh biến động sang tên trên GCN QSDĐ số AH 301848 do UBND
huyện T cấp cho ông Huỳnh Văn C và vợ là bà Nguyễn Thị T ngày 29/12/2006.
Như vậy, có căn cứ để xác định ông Huỳnh Văn T5 là chủ sử dụng hợp pháp
thửa đất số 864, tờ bản đồ số 33 tại xã H, huyện T (nay là phường H, thành phố P).
[2.4] Xác định chủ sử dụng hợp pháp phần diện tích đất tranh chấp 328,7m
2
,
tọa độ các điểm (5-6-7-8-9-10-11-12-5)
thuộc thửa 27, tờ bản đồ số 13, tọa lạc tại
phường H, thành phố P, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu thì thấy:
Căn cứ vào Sơ đồ vị trí ngày 25/01/2024 của Trung tâm Kỹ thuật Tài nguyên
Môi trường tỉnh B thể hiện: Phần đất tranh chấp có diện tích 328,7m
2
,
tọa độ
nối các điểm (5-6-7-8-9-10-11-12-5) nằm trong ranh bản đồ địa chính ranh cấp
GCN QSDĐ của thửa đất số 27, tờ bản đồ số 13; không nằm trong ranh cấp GCN
QSDĐ của thửa đất số 864, tờ bản đồ số 33. Đồng thời, tại Công văn số
204/TTKT.ĐĐBĐ1 Trung tâm kỹ thuật Tài nguyên Môi trường tỉnh B xác định
“thửa đất số 864, tờ bản đồ số 33 tọa lạc tại ấp T, phường H không nằm trong ranh
giới đo vẽ theo hiện trạng do các đương sự chỉ ranh” thể hiện tại Sơ đồ vị trí ngày
25/01/2024 của Trung tâm Kỹ thuật Tài nguyên và Môi trường tỉnh B. Vì vậy, T
ông C cho rằng: diện tích đất tranh chấp nằm trong GCN QSDĐ của thửa đất 864
đã được cấp cho ông Huỳnh Văn T5 vào năm 2007 là không có cơ sở.
Đồng thời, xét việc T, ông C cho rằng, diện tích đất tranh chấp 328m
2
phần đất mà Tòa án nhân dân tnh Bà Rịa Vũng Tàu đã giải quyết tranh chấp giữa
vợ chồng bà T và ông Lê Kim Đ theo nội dung biên bản ngày 23/6/1998 thì thấy:
Biên bản ngày 23/6/1998 của Tòa án nhân dân tỉnh Bà Ra ng Tàu chỉ là
lời trình bày của ông Đ và vợ chồng bà T, ông C không có giá trị về mặt pháp lý để
thi hành. Đồng thời, Bản án giám đốc thẩm số 04/GĐT – DS ngày 18/8/1999 của Ủy
ban Thẩm phán Toà án nhân dân tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu đã nhận định diện tích đất
tranh chấp giữa ông Đ và ông C chưa được cơ quan thẩm quyền cấp GCN QSDĐ
nên theo quy định của pháp luật thì tranh chấp nói trên không thuộc thẩm quyền giải
quyết của Toà án, Toà án cấp thẩm thụ lý giải quyết là không đúng thẩm quyền.
Do đó cấp giám đốc thẩm đã quyết định “Huỷ toàn bộ bản án số 19/DSST ngày 24-
11-1997 của TAND huyện Tân Thành đã hiệu lực pháp luật đình chỉ giải quyết
vụ án “Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất” giữa: Nguyên đơn ông Kim
10
Đ bị đơn ông Huỳnh Văn C. Do đó, không có căn cứ cho rằng diện tích đất tranh
chấp 328m
2
đã được Tòa án nhân dân tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu giải quyết năm 1998.
Mặt khác, sau khi Tòa án xác định không thuộc thẩm quyền giải quyết của
Tòa án thì tranh chấp giữa các bên đã được UBND huyện T (nay UBND thành
phố P) giải quyết theo thẩm quyền. Tại Quyết định số 2040/QĐ-UBND ngày
27/6/2005 của UBND tỉnh B về việc giải quyết đơn tranh chấp đất của Nguyễn
Thị T đã Quyết định “Không thừa nhận diện tích 4.000m
2
đất toạ lạc tại ấp T, xã H,
huyện T thuộc quyền sử dụng hợp pháp của hộ Nguyễn Thị T, ông Huỳnh n
C”. Năm 2006 ông Lê Kim Đ đã làm thtục đăng kê khai được UBND huyện
T QSDĐ hợp pháp theo đúng quy định của pháp luật. Từ thời điểm ông Đ được cấp
giấy lần đầu cho đến nay thì phía ông C, bà T không tranh chấp với ông Đ cũng n
các chủ sử dụng đất sau này của thửa đất số 31 về quyền sử dụng đất. Như vậy tranh
chấp giữa ông C, T với ông Đ đối với diện tích 4.000m
2
như T trình bày đã
được giải quyết tại Quyết định số 2040/QĐ-UBND ngày 27/6/2005 của UBND tỉnh
B.
Từ những phân tích trên, Hội đồng xét xử phúc thẩm xác định: Diện tích
328,7m
2
thuộc thửa đất số 27, tờ bản đồ số 13 thuộc quyền sdụng hợp pháp của
ông Bùi Quang N, bà Huỳnh Thị Kim H. Tòa án cấp sơ thẩm đã chấp nhận yêu cầu
khởi kiện của ông N về việc yêu cầu ông C, bà T trả lại diện tích 328,7m
2
thuộc thửa
đất số 27, tờ bản đồ số 13 là có căn cứ, đúng quy định của pháp luật.
[2.5] Xác định hành vi xây dựng công trình kiến trúc trên phần diện tích đất
tranh chấp thì thấy:
Phần diện tích 328,7m
2
thuộc thửa đất số 27, tờ bản đồ số 13 thuộc quyền sử
dụng hợp pháp của ông N, bà H nhưng vào năm 2022 ông C, bà T đã tự ý xây dựng
các công trình, vật kiến trúc, trồng cây không được sự cho phép của chủ sử dụng
đất hợp pháp là ông N, H. Tại phiên tòa phúc thẩm, T và Huỳnh Thị Kim
T6 (con gái của T) cho rằng T6 người xây dựng nhà tạm để làm quán bán
kẹo và trà sữa cho học sinh, xét thấy: Trong quá trình giải quyết vụ án, tại biên bản
hòa giải ngày 13/3/2024 T xác nhận nội dung“Phần diện tích đất tôi đang xây
dựng nhà tạm để bán hàng sau lưng trường tiểu học N2 là thuộc quyền sử dụng của
tôi ông Huỳnh Văn C, các con tôi Huỳnh Thị Kim H, Huỳnh Thị Kim T6,
Huỳnh Thị Kiều T7Huỳnh Văn T5, họ chỉ phụ giúp tôi buôn bán”; tại biên bản
hoà giải ngày 16/10/2023 bà T xác nhận nội dung “Phần diện tích đất tôi đang
xây dựng nhà tạm đbán hàng sau lưng trường tiểu học N2 thuộc quyền sử dụng
của tôi”; tại biên bản hòa giải ngày 05/7/2023 T xác nhận nội dung “Tại vị tđất
này (vị trí đất tranh chấp) tôi đang dựng nhà tôn diện tích khoảng 50m
2
để bán bánh
kẹo, trà sữa cho học sinh”. Ngoài ra, T T6 không cung cấp được tài liệu,
chứng cứ chứng minh công trình có trên đất là do bà T6 trực tiếp xây dựng. Do đó,
không có cơ sở để xác định bà Huỳnh Thị Kim T6 là người đã có hành vi xây dựng
các công trình kiến trúc trên đất. Như vậy, T, ông C dựng nhà và xây dựng các
công trình kiến trúc, trồng cây trên đất không thuộc quyền sử dụng hợp pháp của
mình, không được sự đồng ý của chủ sử dụng đất là ông N, H, không giấy
phép xây dựng. Do đó, Tòa án cấp sơ thẩm xác định T, ông C hành vi lấn
11
chiếm đất đai (xây dựng công trình kiến trúc và trồng cây trên phần đất không thuộc
quyền sử dụng hợp pháp của mình) buộc ông C, T phải tháo dtoàn bộ các
công trình, vật kiến trúc, di dời các cây trồng gồm 10 bụi chuối và 02 cây xà cừ tại
vị trí đất diện tích 328,7m
2
thuộc thửa đất số 27, tờ bản đồ số 13 để trlại hiện
trạng đất trống cho ông N, bà H là có căn cứ.
Từ những phân tích và nhận định trên, Hội đồng xét xử phúc thẩm không
căn cứ để chấp nhận yêu cầu kháng cáo của bà Nguyễn Thị T, ông Huỳnh Văn C.
[3] Về chi phí thu thập chứng cứ, xem xét thẩm định tại chỗ, đo đạc, định giá
tài sản là 28.000.000 đồng. Do yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn ông N được Toà
án chấp nhận nên bị đơn ông C, T phải chịu toàn bộ số tiền trên. Quá trình tố tụng
ông N đã nộp tạm ứng số tiền trên nên cần buộc ông C, bà T thanh toán lại cho ông
N số tiền 28.000.000 đồng.
[4] Về án phí dân sự thẩm: Do yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn được Toà
án chấp nhận nên bị đơn ông C, bà T phải nộp 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) án
phí dân sự sơ thẩm. Tuy nhiên, do ông C, T đơn xin miễn án phí người
cao tuổi; nên Hội đồng xét xử quyết định miễn án phí dân sự sơ thẩm cho ông C, bà
T.
[5] Về án phí dân sự phúc thẩm: Do yêu cầu kháng cáo không được chấp nhận
nên người kháng cáo ông C, T phải nộp 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) án phí
dân sự phúc thẩm. Tuy nhiên, do ông C, bà T có đơn xin miễn án phí vì là người cao
tuổi; nên Hội đồng xét xử quyết định miễn án phí dân sự phúc thẩm cho ông C, bà
T.
Vì các lẽ trên:
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ khoản 1 Điều 308 Bộ luật Tố tụng dân sự;
Không chấp nhận yêu cầu kháng cáo của Nguyễn Thị T, ông Huỳnh Văn
C;
Giữ nguyên Bản án dân sự thẩm số 27/2024/DS-ST ngày 23/5/2024 của
Tòa án nhân dân thị xã Phú Mỹ, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu; cụ thể:
Áp dụng: Điều 38, 157, 165, 169, 296 Bộ luật Tố tụng dân sự; Điều 12, 166,
170, 202, 203 Luật Đất đai năm 2013; Điều 12, 26, 27, 29 Nghị quyết
326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định
về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;
Tuyên xử:
1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Bùi Quang N đối với ông Huỳnh Văn
C, bà Nguyễn Thị T về “Tranh chấp quyền sử dụng đất”;
1.1. Buộc ông Huỳnh Văn C, Nguyễn Thị Tâm G trả lại diện ch đất
328,7m
2
, có tọa độ được nối bởi các điểm (5-6-7-8-9-10-11-12-5)
thuộc thửa đất số
27, tờ bản đồ số 13, tọa lạc tại phường H, thị xã P (nay là thành phố P), tỉnh Bà Rịa
- Vũng Tàu cho ông i Quang N, bà Huỳnh Thị Kim H sử dụng. Vị trí đất được
12
thể hiện tại trên đồ vị trí tỷ lệ 1/500 do Trung tâm Kỹ thuật Tài nguyên Môi
trường tỉnh B phát hành ngày 25/01/2024.
1.2. Buộc ông Huỳnh Văn C, Nguyễn Thị T tháo dỡ các công trình, vật
kiến trúc, cây trồng gồm: 01 mái che tôn nền láng vữa xi măng có diện tích 48,2m
2
(ký hiệu là điểm S trên Sơ đồ vị trí), móng đá chẻ có chiều dài 11,95m và di dời 10
bụi chuối, 02 câycừ do ông C, T y dựng và trồng trên diện tích đất 328,7m
2
,
tọa độ được nối bởi các điểm (5-6-7-8-9-10-11-12-5) thuộc thửa đất số 27, tờ bản
đồ số 13, tọa lạc tại phường H, thị P (nay là thành phố P), tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu
thể hiện trên đồ vị trí tỷ lệ 1/500 do Trung tâm Kỹ thuật Tài nguyên Môi
trường tỉnh B phát hành ngày 25/01/2024.
2. Về chi phí tố tụng: Buộc ông Huỳnh Văn C, Nguyễn Thị T phi có nghĩa
v thanh toán lại cho ông Bùi Quang N số tiền 28.000.000đ (Hai mươi tám triệu
đồng).
3. Về án phí dân sự sơ thẩm:
Miễn toàn bộ án phí dân sự sơ thẩm cho ông Huỳnh Văn C, bà Nguyễn Thị T.
H2 lại cho ông Bùi Quang N số tiền 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) tạm ứng
án phí đã nộp theo Biên lai thu số 0006828 ngày 10 tháng 3 năm 2023 của Chi cục
Thi hành án dân sự thị xã Phú Mỹ (nay là thành phố P), tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu.
4. Về án phí dân sự phúc thẩm: Miễn toàn bộ án phí dân sự phúc thẩm cho
ông Huỳnh Văn C, bà Nguyễn Thị T.
5. Bản án phúc thẩm hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án (ngày
04/6/2025).
6. Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật
Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự
quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án
hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b 9 Luật thi
hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật
thi hành án dân sự.
(Kèm theo Bản án đồ vị trí tỷ lệ 1/500 do Trung tâm Kỹ thuật Tài nguyên
và Môi trường tỉnh B phát hành ngày 25/01/2024).
Nơi nhận: TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM
- VKSND tỉnh BR-VT; THẨM PHÁN - CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
- TAND TP. Phú Mỹ;
- VKSND TP. Phú Mỹ;
- Chi cục THADS TP. Phú Mỹ;
- Các đương sự;
- Lưu Hồ sơ, VP.
Cao Xuân Long
13
HI ĐNG XÉT X
CÁC THM PHÁN
Trnh Hoàng Anh Bùi Th Thương
THM PHÁN CH TA PHIÊN TÒA
Cao Xuân Long
14
Tải về
Bản án số 116/2025/DS-PT Bản án số 116/2025/DS-PT

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án số 116/2025/DS-PT Bản án số 116/2025/DS-PT

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án/ Quyết định cùng đối tượng

Bản án cùng lĩnh vực

Bản án mới nhất