Bản án số 09/2023/HS-PT ngày 02/03/2023 của TAND tỉnh Bình Phước về tội mua bán trái phép chất ma túy
- Thuộc tính
- Nội dung
- VB gốc
- VB liên quan
- Lược đồ
- Đính chính
- Án lệ
- BA/QĐ cùng tội danh
- Tải về
-
Bản án số 09/2023/HS-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Thuộc tính Bản án 09/2023/HS-PT
Tên Bản án: | Bản án số 09/2023/HS-PT ngày 02/03/2023 của TAND tỉnh Bình Phước về tội mua bán trái phép chất ma túy |
---|---|
Tội danh: | 251.Tội mua bán trái phép chất ma túy (Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của BLHS năm 2015) |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Tòa án xét xử: | TAND tỉnh Bình Phước |
Số hiệu: | 09/2023/HS-PT |
Loại văn bản: | Bản án |
Ngày ban hành: | 02/03/2023 |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Áp dụng án lệ: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Đính chính: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Thông tin về vụ án: |
Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!
Tải văn bản
TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH BÌNH PHƯỚC
BẢN ÁN 09/2023/HS-PT NGÀY 02/03/2023 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Ngày 02 tháng 3 năm 2023, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Bình Phước tiến hành xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 03/2023/TLPT-HS ngày 05 tháng 01 năm 2023 đối với bị cáo Nguyễn Văn H do có kháng cáo của bị cáo đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 112/2022/HS-ST ngày 28 tháng 11 năm 2022 của Tòa án nhân dân thị xã C, tỉnh Bình Phước.
Bị cáo kháng cáo:
Nguyễn Văn H, sinh năm 1993 tại tỉnh Bình Dương; tên gọi khác: không; giới tính: Nam; nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: Tổ 10, ấp H, xã T, huyện H, tỉnh Bình Phước; chỗ ở trước khi bị bắt: Tổ 3, ấp 7, xã M, thị xã C, tỉnh Bình Phước; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; nghề nghiệp: Không; trình độ học vấn: 8/12; họ và tên cha: Nguyễn Văn T, sinh năm 1962 (đã chết), họ và tên mẹ: Hướng Thị D, sinh năm 1959; bị cáo sống chung như vợ chồng với Trần Thị Thủy T, sinh năm 1998; có 01 người con, sinh năm 2021; tiền án, tiền sự: Không; bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 23/6/2022 đến nay; bị cáo có mặt tại phiên tòa.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Nguyễn Văn H là người nghiện ma túy. Đầu năm 2021, H bắt đầu mua ma túy bán lại cho người nghiện tại khu vực xã T, huyện H và xã Q, xã M, thị xã C (trước đây là huyện C) nhằm thu lợi bất chính. Thông qua H (không rõ nhân thân, lai lịch) ở khu vực thành phố T, tỉnh Bình Dương, H biết H (không rõ nhân thân, lai lịch) ở khu vực Thành phố M, tỉnh Bình Dương có bán ma túy nên đã nhiều lần mua ma túy của H rồi đem về cất giữ tại nơi ở thuộc tổ 3, ấp 7, xã M để sử dụng và bán cho người nghiện ma túy.
Khi cần mua ma túy thì H điều khiển xe mô tô hiệu Jupiter, biển kiểm soát: 93P1 – 071.69 một mình đến khu vực thành phố M gặp H trả tiền và nhận ma túy, trung bình H mua khoảng 6.000.000 đồng/lần.
Khi người nghiện muốn mua ma túy của H thì gọi điện cho H theo số điện thoại: 0982.743.070 và nói số tiền mua, H hẹn địa điểm gặp để giao ma túy và nhận tiền, thông thường H kêu người nghiện đến nơi ở của H giao ma túy, nếu người nghiện không có xe thì H mang ma túy đến điểm hẹn. Với cách thức trên, H đã nhiều lần mua ma túy của H và phân chia nhỏ bán cho một số người nghiện.
Ngày 19/6/2022, H gặp H mua 01 gói ma túy đá với số tiền 6.000.000 đồng, mang về cất giữ tại nơi ở. Số ma túy này, H sử dụng và chia nhỏ bán lại cho số người nghiện trên cho đến ngày 22/6/2022 thì còn một phần nhỏ. Sợ hết ma túy sử dụng và bán cho người nghiện nên H hàn kín rồi cất vào xe ô tô đồ chơi bằng nhựa rồi tiếp tục gặp H mua thêm 01 gói ma túy với số tiền 6.000.000 đồng. Sau khi mua được ma túy, H đem về cất giữ tại giỏ xách treo trên tường phòng ngủ. Khoảng 16 giờ 30 phút, ngày 23/6/2022, Điểu B gọi điện thoại hỏi mua 200.000 đồng ma túy và Phạm Văn H gọi điện thoại mua 300.000 đồng ma túy. Lúc này, H lấy gói ma túy mới mua và dụng cụ phân chia thành 05 gói ma túy nhỏ gồm: 01 gói có kích thước (2,5 x 01)cm, tương ứng số tiền bán là 500.000 đồng, 02 gói có kích thước (03 x 0,7)cm, tương ứng số tiền bán là 300.000 đồng, 02 gói có kích thước (1,8 x 0,7)cm và (2,5 x 0,8)cm, tương ứng số tiền bán là 200.000 đồng bán cho B, H và người nghiện có nhu cầu; 05 gói ma túy này H bỏ vào hộp nhựa màu đen và cất vào túi quần, số ma túy còn lại, H hàn kín cất giấu vào giỏ xách treo lên tường phòng ngủ. Sau khi đã chuẩn bị 05 gói ma túy mang đi bán cho B, H và các người nghiện khác thì bị lực lượng Công an kiểm tra, phát hiện, bắt giữ và thu giữ 01 mô tô hiệu Yamaha Jupiter, biển kiểm soát: 93P1 – 071.69, 01 điện thoại di động Nokia 1280 và 110.000 đồng.
Thực hiện khám xét khẩn cấp nơi ở của H tại căn nhà xây cấp 4 thuộc tổ 3, ấp 7, xã M, Cơ quan điều tra phát hiện: trong túi xách tay màu trắng kích thước (14 x 23)cm treo trên tường của phòng ngủ có 01 gói nylon hàn kín, kích thước (7 x 4,3)cm, bên trong có chứa tinh thể màu trắng dạng rắn; tại góc phòng ngủ có một chiếc xe đồ chơi bằng nhựa ký hiệu “HGL – 01” trong hộp phía trước đầu xe có 01 gói nylon hàn kín, kích thước (4,5 x 3,5)cm, bên trong có chứa tinh thể màu trắng, dạng rắn, 2.150.000 đồng, kéo cắt, ống nhựa vát nhọn làm đồ xúc, lưỡi dao lam, túi nylon, bộ dụng cụ sử dụng trái phép chất ma túy.
gồm:
Quá trình điều tra, xác định được số người mua ma túy trái phép của H - Điểu B (B S’tiêng) mua khoảng 20 lần, mỗi lần với số tiền từ 200.000 đồng đến 300.000 đồng;
- Lê Minh H(Hmập) mua khoảng 05 đến 07 lần, mỗi lần với số tiền từ 200.000 đồng đến 300.000 đồng;
- Nguyễn Văn H mua khoảng 10 lần, mỗi lần với số tiền từ 200.000 đồng đến 300.000 đồng;
- Đỗ Ngọc V mua khoảng 10 lần, mỗi lần với số tiền từ 200.000 đồng đến 300.000 đồng;
- Phạm Thế H mua khoảng 10 lần, mỗi lần với số tiền từ 200.000 đồng đến 300.000 đồng;
- Phạm Văn H mua khoảng 10 lần, mỗi lần với số tiền từ 200.000 đồng đến 300.000 đồng và một số người nghiện khác chưa rõ nhân thân ở xã T;
- Ngô Văn Đ (T) mua khoảng hơn 10 lần, mỗi lần với số tiền từ 200.000 đồng đến 300.000 đồng;
- O (chưa rõ nhân thân) ở xã M mua khoảng hơn 10 lần, mỗi lần với số tiền từ 200.000 đồng đến 500.000 đồng;
- B (chưa rõ nhân thân) ở xã T, huyện H mua khoảng 10 lần, mỗi lần với số tiền từ 200.000 đồng đến 300.000 đồng.
Kết luận giám định số: 140/KL(MT)-KTHS ngày 01 tháng 7 năm 2022 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bình Phước xác định:
- Tinh thể màu trắng có trong 01 gói nylon kích thước 2,5cm x 01cm được niêm phong gửi giám định là ma túy, loại Methamphetamine, có khối lượng là:
0,3462 gam.
-Tinh thể màu trắng có trong 01 gói nylon kích thước 3cm x 0,7cm được niêm phong gửi giám định là ma túy, loại Methamphetamine, có khối lượng là:
0,2567 gam.
-Tinh thể màu trắng có trong 01 gói nylon kích thước 3cm x 0,7cm được niêm phong gửi giám định là ma túy, loại Methamphetamine, có khối lượng là:
0,2189 gam.
-Tinh thể màu trắng có trong 01 gói nylon kích thước 1,8cm x 0,7cm được niêm phong gửi giám định là ma túy, loại Methamphetamine, có khối lượng là:
0,1658 gam.
-Tinh thể màu trắng có trong 01 gói nylon kích thước 2,5cm x 0,7cm được niêm phong gửi giám định là ma túy, loại Methamphetamine, có khối lượng là:
0,1849 gam.
-Tinh thể màu trắng có trong 01 gói nylon kích thước 7cm x 4,3cm được niêm phong gửi giám định là ma túy, loại Methamphetamine, có khối lượng là:
10,5140 gam.
-Tinh thể màu trắng có trong 01 gói nylon kích thước 4,5cm x 3,5cm được niêm phong gửi giám định là ma túy, loại Methamphetamine, có khối lượng là:
5,4516 gam.
gam.
Tổng khối lượng ma túy, loại Methamphetamine thu giữ của H là 17,1381 Bản án hình sự sơ thẩm số 112/2022/HS-ST ngày 28 tháng 11 năm 2022 của Tòa án nhân dân thị xã C, tỉnh Bình Phước quyết định:
Căn cứ điểm b, i, khoản 2, Điều 251; điểm s khoản 1 Điều 51, các điều 38, 50 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.
1. Tuyên bố bị cáo Nguyễn Văn H phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”.
2. Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn H 12 (mười hai) năm tù, thời hạn tính từ ngày bị cáo bị tạm giữ, tạm giam ngày 23/6/2022.
Ngoài ra, Tòa án cấp sơ thẩm còn tuyên xử lý vật chứng, về án phí và quyền kháng cáo theo quy định pháp luật.
Ngày 02/12/2022 bị cáo Nguyễn Văn H có đơn kháng cáo xin được giảm nhẹ hình phạt.
Tại phiên tòa phúc thẩm:
Bị cáo Nguyễn Văn H vẫn giữ nguyên yêu cầu kháng cáo.
Quan điểm của đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bình Phước tại phiên tòa phúc thẩm: Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm a khoản 1 Điều 355, Điều 356 Bộ luật Tố tụng hình sự không chấp nhận kháng cáo của bị cáo; Giữ nguyên Bản án hình sự sơ thẩm số 112/2022/HS-ST ngày 28 tháng 11 năm 2022 của Tòa án nhân dân thị xã C về phần hình phạt đối với bị cáo Nguyễn Văn H.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Trên cơ sở nội dung vụ án, các chứng cứ, tài liệu trong hồ sơ vụ án và kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử phúc thẩm nhận định:
[1] Đơn kháng cáo của các bị cáo Nguyễn Văn H được làm trong thời hạn luật định, có nội dung và hình thức phù hợp với quy định tại các Điều 331, 332, 333 của Bộ luật Tố tụng hình sự nên được xem xét theo trình tự phúc thẩm.
[2] Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo Nguyễn Văn H chỉ thừa nhận có bán ma túy cho một số đối tượng từ 05 đến 06 lần chứ không phải 97 lần như Bản án sơ thẩm đã xác định và cho rằng mức án như Tòa án cấp sơ thầm xử phạt bị cáo là quá nặng. Xét lời khai của bị cáo tại phiên tòa phúc thẩm là không phù hợp, bởi lẽ căn cứ các tài liệu có trong hồ sơ vụ án, bản tự khai, biên bản lấy lời khai bị cáo (bút lục 51 – 63); biên bản lấy lời khai các đối tượng mua ma túy của bị cáo (bút lục 75 – 85), biên bản bắt người phạm tội, biên bản khám xét, kết luận giám định, vật chứng thu giữ, có đủ căn cứ xác định hành vi phạm tội của bị cáo như Bản án sơ thẩm đã nêu là đúng, cụ thể:
Để có tiền mua ma túy sử dụng, H đã mua ma túy bán lại cho các con nghiện khác để thu lợi bất chính. Từ ngày 19/6/2022 đến ngày 23/6/2022, H đã 02 lần mua ma túy, loại Methamphetamine, riêng tổng khối lượng chất ma túy thu giữ được ngày 23/6/2022 là 17,1381 gam để sử dụng và bán lại cho các con nghiện. H đã bán khoảng 97 lần cho 09 đối tượng nghiện ma túy ở xã T, huyện H; xã M, xã Q, thị xã C với số tiền mỗi lần từ 200.000 đồng đến 500.000 đồng.
Do đó, Tòa án cấp sơ thẩm tuyên bố bị cáo H phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy” quy định tại các điểm b, i khoản 2 Điều 251 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017 là có căn cứ, đúng người, đúng tội. Lời khai của bị cáo tại phiên tòa phúc thẩm là không có căn cứ để chấp nhận.
[3] Xét kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt của bị cáo thấy rằng:
Bị cáo phạm tội nhiều lần, riêng khối lượng thu giữ khi bắt quả tang và khám xét đã là 17,1381 gam, bị cáo có hai tình tiết định khung tăng nặng, nên sau khi xem xét đầy đủ tính chất, mức độ hành vi phạm tội, các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nhân thân của bị cáo, Tòa án cấp sơ thẩm xử phạt bị cáo 12 năm tù là phù hợp và đã xem xét đầy đủ các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo. Kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt của bị cáo là không có căn cứ chấp nhận.
[4] Quan điểm của đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa phúc thẩm là có căn cứ, phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên được chấp nhận.
[5] Các quyết định khác của Bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
[6] Án phí hình sự phúc thẩm: Bị cáo Nguyễn Văn H phải chịu theo quy định pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ vào điểm a khoản 1 Điều 355 và Điều 356 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015;
Không chấp nhận kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt của bị cáo Nguyễn Văn H.
Giữ nguyên Bản án hình sự sơ thẩm số 112/2022/HS-ST ngày 28 tháng 11 năm 2022 của Tòa án nhân dân thị xã C, tỉnh Bình Phước.
Căn cứ điểm b, i, khoản 2, Điều 251; điểm s khoản 1 Điều 51, các điều 38, 50 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.
Tuyên bố bị cáo Nguyễn Văn H phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”.
Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn H 12 (mười hai) năm tù, thời hạn tù tính từ ngày bị cáo bị tạm giữ, tạm giam ngày 23/6/2022.
Án phí hình sự phúc thẩm: Bị cáo Nguyễn Văn H phải chịu 200.000 đồng.
Các quyết định khác của Bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án./.
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!