Bản án số 08/2025/DS-ST ngày 27/03/2025 của TAND huyện Yên Lạc, tỉnh Vĩnh Phúc về tranh chấp hợp đồng vay tài sản

  • Thuộc tính
  • Nội dung
  • VB gốc
  • VB liên quan
  • Lược đồ
  • Đính chính
  • Án lệ
  • BA/QĐ cùng nội dung
  • Tải về
Tải văn bản
Báo lỗi
  • Gửi liên kết tới Email
  • Chia sẻ:
  • Chế độ xem: Sáng | Tối
  • Thay đổi cỡ chữ:
    17

Thuộc tính Bản án 08/2025/DS-ST

Tên Bản án: Bản án số 08/2025/DS-ST ngày 27/03/2025 của TAND huyện Yên Lạc, tỉnh Vĩnh Phúc về tranh chấp hợp đồng vay tài sản
Quan hệ pháp luật: Tranh chấp hợp đồng vay tài sản
Cấp xét xử: Sơ thẩm
Tòa án xét xử: TAND huyện Yên Lạc (TAND tỉnh Vĩnh Phúc)
Số hiệu: 08/2025/DS-ST
Loại văn bản: Bản án
Ngày ban hành: 27/03/2025
Lĩnh vực: Dân sự
Áp dụng án lệ:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Đính chính:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Thông tin về vụ/việc: Tranh chấp hợp đồng vay tài sản giữa bà Kim Thị S với ông Nguyễn Định Q
Tóm tắt Bản án

Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!

Tải văn bản

1
TÒA ÁN NHÂN DÂN
HUYỆN Y
TỈNH VĨNH PHÚC
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
Bản án số: 08/2025/DS-ST
Ngày 27 - 3 - 2025
V/v tranh chấp hợp đồng vay tài sản
NHÂN DANH
NƢỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN Y, TỈNH VĨNH PHÚC
- Thành phần Hội đồng xét xử sơ thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên toà: Ông Nguyễn Song Lưu
Các Hội thẩm nhân dân: Bà Trần Thị Thanh Tâm và ông Nguyễn Duy Thuần
- Thƣ ký phn tòa: Bà Đặng Thị Thúy, T T án nn dân huyn Y
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Y tham gia phiên tòa: Trần
Thị Yến, Kiểm sát viên.
Ngày 27 tháng 3 năm 2025, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Y, tỉnh Vĩnh
Phúc xét xthẩm công khai vụ án dân sự thụ số: 94/2024/TLST-DS ngày 12
tháng 11 năm 2025, về việc tranh chấp hợp đồng vay tài sản, theo Quyết định đưa vụ
án ra xét xử số: 08/2025/TLST-DS ngày 07 tháng 3 năm 2025, giữa các đương sự:
1. Nguyên đơn: Bà Kim Thị S, sinh năm 1964; địa chỉ: số nhà 79, thôn Gi 1, xã
T, huyện Y, tỉnh Vĩnh Phúc, có mặt.
2. Bị đơn: Ông Nguyễn Đình Q, sinh năm 1969; địa chỉ: số nhà 04, khu 4, thôn
N, xã T, huyện Y, tỉnh Vĩnh Phúc, có mặt.
3. Người có Q lợi và nghĩa vụ L1 quan:
3.1. Bà Nguyễn Thị T1, sinh năm 1972; địa chỉ: số nhà 04, khu 4, thôn N, xã T,
huyện Y, tỉnh Vĩnh Phúc, có mặt.
3.2. Ông Tạ Văn Tr, sinh năm 1962; địa chỉ: số nhà 79, thôn Gi 1, T, huyện
Y, tỉnh Vĩnh Phúc, có mặt.
4. Người làm chứng: Chị Tạ Thị L1, sinh năm 1991; địa chỉ: ngõ 1, đường
Phan Bội Châu, phường L, thành phố V, tỉnh Vĩnh Phúc, có mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Theo đơn khởi kiện đề ngày 06 tháng 11 năm 2024 trong quá trình tố tụng
tại Tòa án, nguyên đơn bà Kim Thị S trình bày:
Vào ngày 26/01/2017, ông Nguyễn Đình Q đến hỏi vay tiền để làm ăn phát
triển kinh tế. đồng ý cho ông Q vay 60.000.000đ (sáu mươi triệu đồng), lãi suất
1%/tháng kể tngày vay, thỏa thuận mỗi tháng từ tháng 02/2017 sẽ trả 10.000.000đ
(mười triệu đồng) tiền gốc cùng lãi suất kèm theo. Tức đến tháng 7/2017 ông Q sẽ trả
xong toàn bộ gốc và lãi.
Khi vay không cầm cố, thế chấp tài sản nhưng nhờ chị Tạ Thị L1 là con
gái viết giấy vay nđể ông Q nhận đồng thời ông Q viết vào mc số tiền vay
bằng số bằng chữ. Nguồn gốc số tiền cho ông Q vay do vợ chồng tích cóp
2
mà có. Sau khi cho ông Q vay tiền, thông báo cho ông Tr chồng bà T1
là vợ ông Q biết.
Đến tháng 7/2017, vợ chồng ông Q chỉ trả tiền lãi, còn tiền gốc không trả được
đồng nào. Vợ chồng nhiều lần đến yêu cầu trả nợ thì vợ chồng ông Q đều khất nợ
chỉ thỉnh thoảng trả lãi. Từ tháng 5.2024 đến nay, vợ chồng ông Q không trả lãi
chưa trả một đồng tiền gốc nào. Tính đến ngày 09/7/2024, vợ chồng ông Q còn nợ vợ
chồng 60.000.000đ (sáu mươi triệu đồng) 29.000.000đ (hai ơi chín triệu
đồng) tiền lãi. Tổng cộng 89.000.000đ (tám mươi chín triệu đồng). Nay yêu cầu
Tòa án giải quyết buộc vợ chồng ông Q trả vchồng bà 89.000.000đ (tám ơi chín
triệu đồng) cùng lãi phát sinh 1%/tháng của số tiền gốc kể từ ngày 10/7/2024 cho đến
khi thanh toán xong.
Tại phiên tòa S chỉ yêu ông Q, T1 thanh toán khoản tiền gốc
60.000.000đ, không yêu cầu trả khoản tiền lãi 29.000.000đ và lãi phát sinh.
Bị đơn, ông Nguyễn Đình Q trình bày: Vào đầu năm 2014, S cho ông vay
40.000.000đ (bốn mươi triệu đồng) để làm ăn kinh tế. Hai bên không thỏa thuận thời
hạn trả, không thế chấp hoặc cầm cố tài sản gì, không người chứng kiến, chỉ thỏa
thuận lãi 3%/tháng kể từ ngày vay. Ông trả lãi cho S đến khoảng tháng 4/2014 do
làm ăn thua lỗ không trả được lãi nữa, ông đến gặp bà S đề nghị không trả lãi nữa
chỉ trả dần gốc. S đồng ý nên từ ngày 23/12/2014 đến ngày 29/02/2024 vợ chồng
ông nhiều lần trả gốc cho S. Mỗi lần trả tiền, ông S không lập biên bản trả
nợ, không người chứng kiến nhưng T1 tự viết vào sổ của gia đình ông để tiện theo
dõi việc trả nợ. Việc ghi sổ theo dõi vợ chồng ông tự làm, không nói cho S hoặc
bất cứ ai biết. Đến ngày 29.02.2024 vợ chồng ông đã trả đủ cho S số tiền gốc
40.000.000đ (bốn mươi triệu đồng). Ngoài số tiền trên, ông không vay, nợ S bất
cứ khoản tiền hoặc tài sản khác. Nay S khởi kiện yêu cầu vợ chồng thanh toán
số tiền nợ 60.000.000đ (sáu mươi triệu đồng) 29.000.000đ (hai mươi chín triệu
đồng) tiền lãi. Tổng cộng 89.000.000đ (tám mươi chín triệu đồng), cùng lãi phát sinh
1%/tháng của số tiền gốc kể từ ngày 10/7/2024 cho đến khi thanh toán xong, ông
không đồng ý, đề nghị Tòa án không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà S.
Tại phiên tòa, ông Q xác định từ năm 2014 ông nhiều lần vay rồi trả tiền S.
Ngày 26/01/2017, ông tiếp tục vay bà S 60.000.000đ, lãi suất 1%/tháng, mỗi tháng kể
từ tháng 02/2017 sẽ trả 10.000.000đ tiền gốc cùng lãi suất. Khi vay nhờ chị L1
con gái S viết giấy vay nợ để ông ghi vào mục số tiền vay bằng sbằng chữ
(60.000.000đ - sáu mươi triệu đồng) rồi ông ký, ghi họ tên của ông vào mục bên vay
tiền (Q - Nguyễn Đình Q). S ghi htên vào mục bên cho vay tiền (S - Kim
Thị S). Do làm ăn thua lỗ nên ông đề nghị S để vợ chồng ông trả dần gốc, không
phải trả lãi, S đồng ý. Khi thỏa thuận việc không trả lãi tgiữa ông với S chỉ
thỏa thuận bằng lời nói, không lập thành văn bản, không người chứng kiến nên ông
không có tài liệu chứng cứ gì chứng minh. Từ đó, vợ chồng ông đã trả vợ chồng bà S
nhiều lần tiền gốc, mỗi lần trả, T1 tự ghi vào sổ riêng của gia đình ông. Tính cho
đến hết tháng 02/2024 vợ chồng ông đã trả S tổng cộng 43.000.000đ. Nay ông chỉ
chấp nhận trả S số tiền còn nợ 17.000.000đồng không lãi suất, thời hạn trả vào
ngày 31/12/2025.
3
Người có Q lợi và nghĩa vụ L1 quan:
Bà Nguyễn Thị T1 trình bày: vông Q. xác nhận lời trình bày của
ông Q đúng. Ông vay tiền để làm ăn phát triển kinh tế. Do S đã đồng ý
không tính lãi mà chỉ trả tiền gốc, tính đến hết tháng 02/2024 vợ chồng bà đã trả S
được 43.000.000đ nên chỉ chấp nhận trả tiếp số tiền gốc còn lại 17.000.000đ
không lãi suất, thời hạn trả vào ngày 31/12/2025.
Ông Tạ Văn Tr trình bày: Ông chồng bà S, ông nhất trí với bà S về thời gian
vay, số tiền vay. Tính cho đến nay, vợ chồng ông Q chưa trả cho vcho vợ chồng
ông đồng tiền gốc nào. Ông đề nghị Tòa án giải quyết theo quan điểm của bà S.
Người làm chứng chị Tạ Thị L1 trình bày: Chị con gái S. Ngày
26/01/2017, chị chứng kiến việc S cho ông Q vay 60.000.000đ. Ông Q S
nhờ chị viết 01 giấy vay nợ để ông Q tự viết vào mục stiền vay (60.000.000đ - sáu
mươi triệu đồng) rồi ký, viết họ tên ông Q vào mục bên vay tiền. Còn S vào
mục bên cho vay tiền. Chị xác định chị không tiền cho ông Q vay nên từ chối
tham gia tố tụng với tư cách người có Q lợi và nghĩa vụ L1 quan.
Kiểm sát viên phát biểu ý kiến: Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa
đã tuân theo đúng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự; các đương sự đã thực hiện
đúng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự. Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng Điều
280, Điều 463, Điều 466 Bộ luật dân sự; Điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự; Nghị quyết
số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc
Hội: Chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn, buộc vợ chồng ông Nguyễn Đình Q phải trả
Kim Thị S khoản nợ 60.000.000đ (sáu mươi triệu đồng). Ông Q phải nộp án p
dân sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phn tòa,
căn cvào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng t xử nhận định:
[1]. Về tố tụng: Kim Thị S khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết buộc vợ
chồng ông Nguyễn Đình Q, Nguyễn Thị T1 trả stiền 60.000.000đ (sáu mươi
triệu đồng) tiền gốc 29.000.000đ (hai mươi chín triệu đồng) tiền lãi, tổng cộng
89.000.000đ; ông Q, T1 cư t tại huyện Y, tỉnh Vĩnh Phúc. Do vậy, xác định đây
tranh chấp hợp đồng vay tài sản quy định tại khoản 3 Điều 26 Bộ luật tố tụng dân
sự, vụ án thuộc thẩm Q giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Y, tỉnh Vĩnh Phúc theo
quy định tại điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự.
[2]. Về nội dung: Các đương sự người làm chứng thống nhất xác định, vào
ngày 26/01/2017, bà Kim Thị S cho vợ chồng ông Nguyễn Đình Q, Nguyễn Thị
T1 vay 60.000.000đ (sáu ơi triệu đồng) để làm ăn phát triển kinh tế. Khi vay
không thế chấp, cầm cố tài sản gì nhưng nhờ chị Tạ Thị L1 viết 01 giấy vay nợ để
ông Q tự viết vào mục số tiền vay (60.000.000đ - sáu ơi triệu đồng) rồi ký, viết họ
tên ông Q vào mục bên vay tiền. Còn bà S ký vào mục bên cho vay tiền. Hai bên thỏa
thuận lãi suất là 1%/tháng, thời hạn vay mỗi tháng kể từ tháng 02/2017 sẽ trả
10.000.000đ tiền gốc cùng lãi suất kèm theo.
Theo bà S, đến thời hạn nhưng vợ chồng ông Q, bà T1 không trả nợ. Vợ chồng
ông nhiều lần yêu cầu thì vợ chồng ông Q đều khất nợ. Ttháng 02/2017 đến
4
ngày 17/4/2024 vợ chồng ông Q thỉnh thoảng trả lãi, tổng cộng trả lãi được
24.000.000đ. Từ ngày 18/4/2024 đến nay vợ chồng ông Q không trả lãi nữa, còn gốc
không trả được đồng nào. Vợ chồng bà nhiều lần yêu cầu nhưng vợ chồng ông Q trốn
tránh không trả. Do vậy bà S yêu cầu ông Q, bà T1 phải trả vợ chồng bà 60.000.000đ
tiền gốc và 29.000.000đ tiền lãi, tổng cộng 89.000.000đ (theo bà S thì lãi suất
1%/tháng của số tiền gốc 60.000.000đ tính t ngày vay 26/02/2017 đến ngày
09/7/2024 = 53.000.000đ, đã trả được 24.000.000đ, còn 29.000.000đ). Tại phiên tòa
S, ông Tr chỉ yêu cầu vợ chồng ông Q trả lại khoản tiền gốc 60.000.000đ, không
yêu cầu khoản tiền lãi 29.000.000đ và lãi phát sinh.
Ông Q, T1 xác định do ông làm ăn thua lỗ nên ông được vợ chồng bà
S chấp nhận cho ông không trả lãi mà chỉ phải trả dần tiền gốc, tính cho đến hết
tháng 02/2024, ông đã trả vợ chồng S được 43.000.000đ. Nay ông chỉ đồng
ý trả vợ chồng bà S khoản tiền còn nợ là 17.000.0000đ không lãi suất, thời hạn trả nợ
vào ngày 31/12/2025.
Căn cứ vào các i liệu trong hvụ án, lời khai của đương sự trong quá
trình giải quyết vụ án cũng như tại phiên tòa, đủ sở khẳng định, giữa S
ông Q xác lập giao dịch dân sự hợp đồng vay i sản nên phát sinh Q nghĩa vụ.
Bên cho vay (bà S) đã giao đủ số tiền 60.000.000đ, bên vay ng Q) đã vi phạm
nghĩa vụ trả nợ, từ tháng 5/2024 cho đến ngày xét xử, vợ chồng ông Q không trả tiền
lãi trong suất quá trình vay nợ, vợ chồng ông Q chưa trả được đồng tiền gốc nào.
Quá trình giải quyết vụ án tại phiên tòa, ông Q, T1 xác định vợ chồng ông
được vợ chồng S chấp nhận không phải trả lãi mà chỉ trả dần tiền gốc. Ông Q giao
nộp cho Tòa án 01 giấy do T1 tự viết thể hiện thời gian, số tiền vợ chồng ông Q
trả nợ nhưng không chữ ký, xác nhận của người được trả tiền, không thể hiện số
tiền trả là tiền (tiền lãi, tiền gốc hoặc trả tiền do mua bán, giao dịch dân sự khác).
Tổng cộng số tiền tính từ ngày 23/12/2014 đến ngày 19/02/2024 (ngày trả cuối ng
được T1 ghi trên giấy) là 43.000.000đ (bốn mươi ba triệu đồng). Ngoài 01 giấy
nêu trên, ông Q, T1 không đưa ra được chứng cứ tài liệu khác chứng minh cho
yêu cầu của mình là có căn cứ. Mặt khác trong các lần bà T1 ghi trả nợ có 02 lần: Lần
1 ngày 23/12/2014 trả 10.000.000đ (mười triệu đồng). Lần 2 ngày 05/11/2016 trả
2.000.000đ (hai triệu đồng), hai khoản này trước thời gian ông Q vay S số tiền
60.000.000đ (ngày 26/01/2017). S, ông Tr xác định đối với khoản vay
60.000.000đ ngày 26/02/2017 thì ông Q, T1 mới trả 24.000.000đ tiền lãi, ông
chưa lần nào thỏa thuận hoặc đồng ý việc chỉ trả dần gốc như ông Q, bà T1 trình bày
nên ý kiến của ông Q, bà T1 không được chấp nhận.
Tại Điều 280 Bộ luật dân sự quy định về thực hiện nghĩa vụ trả tiền:
“1. Nghĩa vụ trả tiền phải được thực hiện đầy đủ, đúng thời hạn, đúng địa
điểm và phương thức đã thoả thuận.
2. Nghĩa vụ trả tiền bao gồm cả tiền lãi trên nợ gốc, trừ Tr hợp thoả thuận
khác”.
Do vậy, yêu cầu khởi kiện của S buộc vợ chồng ông Q, T1 trả
60.000.000đ (sáu mươi triệu đồng) không lãi suất là có căn cứ cần chấp nhận.
5
Đối với với khoản tiền lãi, do S không yêu cầu nên Hội đồng xét xử không
xem xét giải quyết.
[3]. Về án phí: Do yêu cầu của nguyên đơn được chấp nhận hơn nữa Kim
Thị S thuộc Tr hợp người cao tuổi và có đơn đề nghị miễn nộp án phí nên bà S không
phải nộp tiền án phí. Ông Nguyễn Đình Q phải nộp án dân sự thẩm gngạch
theo quy định của pháp luật.
[4]. Về ý kiến của Viện kiểm sát tại phiên tòa về việc giải quyết vụ án là có căn
cứ, cần xem xét khi quyết định.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ các Điều 280, Điều 463, Điều 466 Bộ luật dân sự; Điều 147 Bộ luật t
tụng dân sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của
Ủy ban Thường vụ Quốc Hội, xử:
1. Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà Kim Thị S.
Buộc ông Nguyễn Đình Q, bà Nguyễn Thị T1 phải trả Kim Thị S stiền
60.000.000đ (sáu mươi triệu đồng) không lãi suất.
2. Ông Nguyễn Đình Q, Nguyễn Thị T1 phải nộp 3.000.000đ (ba triệu
đồng) án phí dân sự sơ thẩm.
3. Đương sự có mặt tại phiên tòa có Q kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày
k từ ngày tuyên án.
4. Kể tngày người được thi hành án đơn yêu cầu thi hành án nếu người
phải thi hành án không thi hành khoản tiền còn nợ thì còn phải trả tiền lãi theo quy
định tại Điều 357, Điều 468 Bộ luật dân sự tương ứng với số tiền thời gian chậm
thi hành án.
Theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án
dân sự, người phải thi hành án dân sự có Q thỏa thuận thi hành án, Q yêu cầu thi hành
án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại Điều 6,
Điều 7, Điều 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo
quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.
Nơi nhận:
- TAND tỉnh Vĩnh Phúc;
- VKSND huyện Y;
- Chi cục THADS huyện Y;
- Các đương sự;
- u VP-HSVA.
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ SƠ THẨM
THẨM PHÁN – CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
Nguyễn Song Lƣu
Tải về
Bản án số 08/2025/DS-ST Bản án số 08/2025/DS-ST

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án số 08/2025/DS-ST Bản án số 08/2025/DS-ST

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án/ Quyết định cùng đối tượng

Bản án cùng lĩnh vực

Bản án mới nhất