Bản án số 15/2025/DS-PT ngày 16/01/2025 của TAND tỉnh Đồng Nai về tranh chấp hợp đồng đặt cọc

  • Thuộc tính
  • Nội dung
  • VB gốc
  • VB liên quan
  • Lược đồ
  • Đính chính
  • Án lệ
  • BA/QĐ cùng nội dung
  • Tải về
Tải văn bản
Báo lỗi
  • Gửi liên kết tới Email
  • Chia sẻ:
  • Chế độ xem: Sáng | Tối
  • Thay đổi cỡ chữ:
    17

Thuộc tính Bản án 15/2025/DS-PT

Tên Bản án: Bản án số 15/2025/DS-PT ngày 16/01/2025 của TAND tỉnh Đồng Nai về tranh chấp hợp đồng đặt cọc
Quan hệ pháp luật: Tranh chấp hợp đồng đặt cọc
Cấp xét xử: Phúc thẩm
Tòa án xét xử: TAND tỉnh Đồng Nai
Số hiệu: 15/2025/DS-PT
Loại văn bản: Bản án
Ngày ban hành: 16/01/2025
Lĩnh vực: Dân sự
Áp dụng án lệ:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Đính chính:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Thông tin về vụ/việc: Kết quả phúc thẩm tranh chấp HĐĐC giữa Hoàng Xuân T và Trần Đình C
Tóm tắt Bản án

Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!

Tải văn bản

1
TÒA ÁN NHÂN DÂN
TỈNH ĐỒNG NAI
Bản án số: 15/2025/DS-PT
Ngày: 16-01-2025
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập Tự do – Hạnh phúc
V/v tranh chấp hợp đồng đặt cọc
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH ĐỒNG NAI
- Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:
Thẩm phán – Chủ tọa phiên tòa: Ông Nguyễn Trung Hưng
Các Thẩm phán: Ông Ngô Thanh Sỹ
Ông Võ Văn Toàn
- Thư phiên tòa: Thị Ngọc Linh Thư Tòa án nhân dân tỉnh
Đồng Nai.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đồng Nai: Trần Thị Thu
Sương – Kiểm sát viên tham gia phiên tòa.
Ngày 16 tháng 01 năm 2025, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Đồng Nai xét
xử phúc thẩm công khai vụ án thụ lý số 195/2024/TLPT-DS ngày 30 tháng 7 năm
2024 về “Tranh chấp hợp đồng đặt cọc”.
Do bản án dân sự thẩm số 08/2024/DS-ST ngày 29 tháng 3 năm 2024
của Tòa án nhân dân huyện Trảng Bom, tỉnh Đồng Nai bị kháng cáo.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số 237/2024/QĐXXPT-DS
ngày 28 tháng 10 năm 2024, các Quyết định hoãn phiên tòa số 722/2024/QĐ-PT
ngày 14 tháng 11 năm 2024, số 764/2024/QĐ-PT ngày 03 tháng 12 năm 2024 và
số 810/2024/QĐ-PT ngày 24 tháng 12 năm 2024, giữa các đương sự:
1. Nguyên đơn: Ông Hoàng Xuân T, sinh năm 1982.
Địa chỉ: Tổ A, khu phố B, phường T, thành phố H, tỉnh Đồng Nai – có mặt.
2. Bị đơn:
2.1. Ông Hoàng Đình C, sinh năm 1960.
Địa chỉ: Thôn A, ấp B, xã C, huyện D, tỉnh Đồng Nai.
Người đại diện hợp pháp của ông Hoàng Đình C: Ông Nguyễn Hiếu V,
sinh năm 1958.
Địa chỉ: Pờng H, quận N, thành phố Cần Thơ (Theo văn bản ủy quyền
ngày 23/10/2024) có mặt.
2.2. Bà Trần Thị T, sinh năm 1978.
2
Địa chỉ: Thôn A, ấp B, xã C, huyện D, tỉnh Đồng Nai vắng mặt.
3. Người kháng cáo: Ông Hoàng Đình C - là bị đơn.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Theo nội dung án sơ thẩm:
* Theo đơn khởi kiện đề ngày 12/09/2023, trong quá trình giải quyết vụ án
và tại phiên tòa nguyên đơn ông Hoàng Xuân T trình bày:
Vào khoảng giữa tháng 01 năm 2019, thông qua sự giới thiệu của ông
Nguyễn Văn L vviệc ông Hoàng Đình C Trần Thị T bán một đất
thuộc thửa đất số A, tờ bản đồ số B, phường Trảng Dài, thành phố Biên Hòa, tỉnh
Đồng Nai với giá chuyển nhượng 650.000.000 đồng (Sáu trăm năm mươi triệu
đồng). Sau khi thương lượng, ông T vợ chồng ông C, T thống nhất g
chuyển nhượng diện tích đất nêu trên 620.000.000 đồng (Sáu trăm hai mươi
triệu đồng).
Chiều ngày 28/01/2019, ông T đã giao cho ông C, T số tiền 50.000.000
đồng (có ông Nguyễn Văn L làm chứng) thể hiện tại “Giấy nhận cọc” đề ngày
28/01/2019 giữa bên đặt cọc ông Hoàng Xuân T với bên nhận cọc ông
Hoàng Đình C, Trần Thị T. Vào chiều tối ngày 01/03/2019, ông T tiếp tục đặt
cọc cho ông C, T số tiền 500.000.000 đồng (Năm trăm triệu đồng). Tổng s
tiền ông T đã đặt cọc cho ông C, T 550.000.000 đồng (Năm trăm m
mươi triệu đồng).
Sau này, ông T tìm hiểu thì được biết ông C, T đã bán thửa đất sA, tờ
bản đồ số B, phường Trảng Dài, thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai cho nhiều
người khác nhau đang xảy ra tranh chấp. Ngày 24/09/2019, vợ chồng ông C,
T đã viết Giấy hẹn trả lại tiền trả lại đất” với nội dung: ông C, T thừa
nhận việc đã bán thửa đất số A, tờ bản đồ số B, phường Trảng Dài, thành phố
Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai cho người khác và việc ông C, bà T nhận cọc để tiếp tục
bán lại cho ông T thửa đất này sai trái; đồng thời yêu cầu hủy việc mua bán
giữa hai bên cam kết sẽ trả lại tiền cọc cho ông Hoàng Xuân T trong thời hạn
45 ngày nhưng đến nay ông C, T vẫn không trả lại tiền cọc cho ông T mặc
dù ông T đã nhiều lần gọi điện và đến nhà yêu cầu.
Nguyên đơn ông Hoàng Xuân T yêu cầu Tòa án giải quyết:
- Tuyên bố hợp đồng đặt cọc xác lập ngày 28/01/2019, ngày 01/3/2019
giữa bên đặt cọc ông Hoàng Xuân T với bên nhận đặt cọc ông Hoàng Đình
C, Trần Thị T đối với thửa đất số A, tờ bản đồ số B, phường Trảng Dài, thành
phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai thể hiện tại “Giấy nhận cọc” đề ngày 28/01/2019 và
“Giấy hẹn trả lại tiền và trả lại đất” ngày 24/09/2019 là vô hiệu.
- Buộc ông Hoàng Đình C, Trần Thị T nghĩa vụ liên đới trả lại cho
ông Hoàng Xuân T số tiền 550.000.000 đồng (Năm trăm năm mươi triệu đồng).
Ông Hoàng Xuân T không yêu cầu ông Hoàng Đình C, Trần Thị T phải bồi
thường tiền cọc.
3
- Tiếp tục duy trì biện pháp khẩn cấp tạm thời tại quyết định áp dụng biện
pháp khẩn cấp tạm thời số: 603/2023/QĐ-BPKCTT ngày 25/10/2023 của Tòa án
nhân dân huyện Trảng Bom, tỉnh Đồng Nai đến khi giải quyết xong vụ án.
* Tại biên bản lấy lời khai của đương sđề ngày 10/10/2023, bị đơn ông
Hoàng Đình C trình bày:
Ông Hoàng Đình C Trần Thị T nhận cọc của ông Hoàng Xuân T
02 lần với tổng số tiền 550.000.000 đồng (Năm trăm m mươi triệu đồng).
Mục đích đặt cọc để chuyển nhượng cho ông T thửa đất số A, tờ bản đồ số B tại
phường Trảng Dài, thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai. Thửa đất này nằm trong
diện tích khoảng 03 sào nguồn gốc trước đây ông Hoàng Đình C mua, hiện
chưa được tách thành thửa riêng cũng chưa được cấp giấy chứng nhận quyền
sử dụng đất.
Hợp đồng chuyển nhượng QSD đất giữa ông C, bà T với ông T không thực
hiện nữa nên giữa hai bên đã ký cam kết ngày 24/9/2019 với nội dung: ông C, bà
T trả lại cho ông T số tiền cọc 550 triệu đồng, ông T giao lại thửa đất nêu trên
cho vợ chồng ông C, bà T. Tuy nhiên đến nay ông C, bà T vẫn chưa trả lại số tiền
550 triệu đồng cho ông T.
Ông C thừa nhận ông viết giấy cam kết đề ngày 24/09/2019 với mục đích
việc mua bán giữa hai bên không thực hiện nữa, vợ chồng ông C, bà T trả lại toàn
bộ tiền cọc cho ông T, n ông T trả lại đất cho ông C, T. do ông C phải
viết giấy này vì ông T đưa giang hđến nhà gây sức ép để buộc ông C phải
viết giấy. Đồng thời ông T còn tố cáo ông C đến Công an tỉnh Đồng Nai về việc
ông C hành vi lừa đảo, sau đó Công an tỉnh Đồng Nai đã hướng dẫn ông T
khởi kiện vụ án dân sự tại Tòa án. Sau khi sự việc xảy ra, ông Hoàng Đình C đã
trình báo với ông Đỗ Văn H tổ trưởng thôn A, ấp B, xã C, huyện D, huyện
Trảng Bom, tỉnh Đồng Nai về vụ việc nêu trên.
Trước đây ông Hoàng Đình C đã bán thửa đất số A, tờ bản đồ số B, phường
Trảng Dài, thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai cho người khác. Tuy nhiên theo
yêu cầu của ông L bạn của ông T thì ông C đã đi chuộc lại thửa đất về để bán
lại cho ông T nhưng sau khi ông C chuộc lại đất xong xuôi thì ông T lại nói
không mua nữa. Ông C khẳng định thửa đất này của ông, không tranh chấp
với ai khác nên ông Hoàng Xuân T không mua nữa thì phải mất toàn bộ tiền cọc.
- Bị đơn Trần Thị T vắng mặt trong toàn bộ quá trình tố tụng không
có văn bản trình bày ý kiến.
Tại bản án dân sự sơ thẩm số 08/2024/DS-ST ngày 29/3/2024, Tòa án nhân
dân huyện Trảng Bom đã tuyên xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Hoàng
Xuân T về việc: “Tranh chấp hợp đồng đặt cọc” với bị đơn ông Hoàng Đình C, bà
Trần Thị T, theo đó:
- Tuyên bố hợp đồng đặt cọc xác lập ngày 28/01/2019, ngày 01/3/2019
giữa bên đặt cọc ông Hoàng Xuân T với bên nhận đặt cọc ông Hoàng Đình
C, Trần Thị T đối với thửa đất số A, tờ bản đsố B, phường Trảng Dài, thành
4
phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai thể hiện tại “Giấy nhận cọc” đề ngày 28/01/2019 và
“Giấy hẹn trả lại tiền và trả lại đất” ngày 24/09/2019 là vô hiệu.
- Buộc ông Hoàng Đình C, Trần Thị T nghĩa vụ liên đới trả lại cho
ông Hoàng Xuân T số tiền 550.000.000 đồng (Năm trăm năm mươi triệu đồng).
Phần nghĩa vụ liên đới của ông Hoàng Đình C, bà Trần Thị T bằng nhau.
- Tiếp tục duy trì biện pháp khẩn cấp tạm thời tại quyết định áp dụng biện
pháp khẩn cấp tạm thời số: 603/2023/QĐ-BPKCTT ngày 25/10/2023 của Tòa án
nhân dân huyện Trảng Bom, tỉnh Đồng Nai.
Ngoài ra, bản án còn tuyên về nghĩa vụ chậm trả, nghĩa vchịu án phí
quyền kháng cáo theo quy định.
Tại đơn kháng cáo đề ngày 14/4/2024, bị đơn ông Hoàng Đình C đề nghị
Tòa án cấp phúc thẩm xét xử không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Hoàng
Xuân T cho rằng bản án tuyên không đúng với bản chất của vụ việc, gây thiệt
hại đến quyền và lợi ích hợp pháp của gia đình ông C.
- Quan điểm của đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đồng Nai:
+ Về việc chấp hành pháp luật tố tụng: Người tiến hành tố tụng người
tham gia tố tụng thực hiện quyền và nghĩa vụ theo quy định.
+ Về kháng cáo: Hợp đồng đặt cọc giao kết giữa ông Hoàng Xuân T với
ông Hoàng Đình C và Trần Thị T vi phạm điều cấm của pháp luật. Cấp
thẩm chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn là có căn cứ, đề nghị Hội đồng
xét xử không chấp nhận kháng cáo, giữ nguyên bản án sơ thẩm.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ trong hồ vụ án đã được
xem xét tại phiên tòa kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận
định:
[1] Về tố tụng: Bị đơn ông Hoàng Đình C gửi đơn kháng cáo trong thời hạn
nên kháng cáo của ông C được xem xét theo thủ tục phúc thẩm. Tòa án triệu tập
xét xử hợp lệ lần thứ hai, bị đơn bà Trần Thị T vắng mặt không vì sự kiện bất khả
kháng hoặc trở ngại khách quan nên Tòa án tiến hành xét xử vụ án theo quy định
tại khoản 3 Điều 296 của Bộ luật Tố tụng dân sự.
[2] Về kháng cáo:
[2.1] Ngày 28/01/2019, giữa ông Hoàng Đình C Trần Thị T với ông
Hoàng Xuân T lập “Giấy nhận cọc” với nội dung: Người nhận cọc ông Hoàng
Đình C sang nhượng cho người đặt cọc là ông Hoàng Xuân T quyền sử dụng diện
tích đất 82m
2
thuộc thửa đất số A, tờ bản đồ số B, phường Trảng Dài, thành phố
Biên Hòa với giá 620.000.000 đồng. Ông T đã trả 50.000.000 đồng, còn thiếu
570.000.000 đồng, hẹn ngày 28/02/2019 trả đủ số tiền còn lại, bên mua không
mua mất tiền đặt cọc, bên bán không bán bồi thường gấp đôi số tiền đã đặt cọc.
“Giấy nhận cọc” chữ của ông T, ông C T. Hai bên không thực hiện
được việc chuyển nhượng theo thời hạn thỏa thuận nhưng đến ngày 01/3/2019,
5
ông T giao tiếp cho ông C T số tiền 500.000.000 đồng, được ông C thừa
nhận.
Ngày 24/9/2019, ông C viết “Giấy hẹn trả lại tiền trả lại đất”, với nội
dung: Các bên cùng ghi nhận và thống nhất ông C T ngày 28/01/2019 nhận
50.000.000 đồng, ngày 01/3/2019 nhận tiếp 500.000.000 đồng, tổng hai lần
550.000.000 đồng của ông T do ông C bà T bán cho T thửa đất số A, tờ bản đồ số
B, phường Trảng Dài. Nay ông C và bà T xác nhận thửa đất nêu trên trước đây đã
bán cho người khác, nay bán cho ông T là không đúng, hiện xảy ra tranh chấp. Vì
vậy ông C và bà T đồng ý có nghĩa vụ trả lại số tiền là 550.000.000 đồng cho ông
T trong hạn 45 ngày kể từ ngày 24/9/2019. Giấy hẹn chữ ký của ông T, ông C
và bà T và người làm chứng là ông Nguyễn Văn L.
[2.2] Trong quá trình giải quyết vụ án, ông C người đại diện cho rằng
ông C phải viết “Giấy hẹn trả lại tiền trả lại đất” là do ông T đưa giang hồ đến
nhà gây sức ép đbuộc phải viết nhưng không cung cấp được chứng cứ chứng
minh. Theo các tài liệu chứng cứ được Tòa án cấp sơ thẩm thu thập tại Văn phòng
đăng ký đất đai tỉnh Đồng Nai – Chi nhánh Biên Hòa và Ủy ban nhân dân phường
Trảng Dài, thành phố Biên Hòa thể hiện tại thời điểm nhận cọc để chuyển nhượng
thì thửa đất trên ông C, T chưa được cấp giấy chứng nhận quyền sdụng đất,
trước đó ông C đã chuyển nhượng cho người khác thửa đất hiện đang tranh
chấp về quyền sử dụng.
[2.3] Từ nhận định trên, Hội đồng xét xử thấy rằng cấp thẩm xác định
Hợp đồng đặt cọc giao kết giữa ông T với ông C, T không hợp pháp theo
quy định tại các Điều 117, 122, 123 và 131 của Bộ luật Dân sự; Điều 168 và Điều
188 của Luật Đất Đai, theo đó tuyên bố hợp đồng đặt cọc ký giữa các bên vô hiệu
buộc ông C, T liên đới trả lại ông T số tiền đã nhận căn cứ, đúng quy
định pháp luật nên không chấp nhận kháng cáo của ông C.
[3] Về biện pháp khẩn cấp tạm thời: Cấp thẩm áp dụng biện pháp khẩn
cấp tạm thời “Phong tỏa tài sản của người có nghĩa vụ” để đảm bảo thi hành án là
số tiền 268.917.480 đồng tại Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Biên Hòa để
thi hành Bản án dân sự phúc thẩm số 173/2022/DS-PT ngày 06/12/2022 của Tòa
án nhân dân tỉnh Đồng Nai cho ông Nguyễn Đình C theo Quyết định số
603/2023/QĐ-BPKCTT ngày 25/10/2023 của Tòa án nhân dân huyện Trảng Bom
là đúng quy định pháp luật nên tiếp tục duy trì.
[4] Về án phí:
[4.1] Án phí dân sự sơ thẩm: Ông C T phải chịu 26.300.000 đồng.
Hoàn trả ông T tiền tạm ứng án phí đã nộp.
[4.2] Án phí dân sự phúc thẩm: Ông C được miễn nộp do là người cao tuổi
và có đơn đề nghị miễn án phí phúc thẩm.
[5] Quan điểm của đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đồng Nai bản
phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên chấp nhận.
Vì các lẽ trên,
6
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ vào khoản 1 Điều 308 của Bộ luật Tố tụng dân sự.
Không chấp nhận kháng cáo của ông Hoành Đình C.
Giữ nguyên Bản án dân sự sơ thẩm số 08/2024/DS-ST ngày 29 tháng 3
năm 2024 của Tòa án nhân dân huyện Trảng Bom.
Áp dụng các Điều 117, 122, 123, 131, 132, 288, 357 468 của Bộ luật
Dân sự; Điều 168 Điều 188 của Luật Đất Đai; Nghị quyết số
326/2016/UBTVQH12, ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc
hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản sử dụng án phí lệ
phí Tòa án.
Tuyên xử:
1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn ông Hoàng Xuân T đối với
bị đơn ông Hoàng Đình C, bà Trần Thị T về “Tranh chấp hợp đồng đặt cọc”.
1.1. Tuyên bố hợp đồng đặt cọc xác lập ngày 28/01/2019, ngày 01/3/2019
giữa bên đặt cọc ông Hoàng Xuân T với bên nhận đặt cọc ông Hoàng Đình
C, Trần Thị T đối với thửa đất số A, tờ bản đsố B, phường Trảng Dài, thành
phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai thể hiện tại “Giấy nhận cọc” đề ngày 28/01/2019 và
“Giấy hẹn trả lại tiền và trả lại đất” ngày 24/09/2019 là vô hiệu.
1.2. Buộc ông Hoàng Đình C, bà Trần Thị T có nghĩa vụ liên đới trả lại cho
ông Hoàng Xuân T số tiền 550.000.000 đồng (Năm trăm năm mươi triệu đồng).
Phần nghĩa vụ liên đới của ông Hoàng Đình C, bà Trần Thị T bằng nhau.
1.3. Ktừ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án cho
đến khi thi hành án xong, bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số
tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại Điều 357, khoản 2 Điều
468 của Bộ luật Dân sự năm 2015.
2. Về án phí:
2.1. Án phí dân sự sơ thẩm: Ông Hoàng Đình C và bà Trần Thị T phải chịu
26.300.000 đồng (Hai mươi sáu triệu ba trăm nghìn đồng). Hoàn trả lại cho ông
Hoàng Xuân T tiền tạm ứng án phí đã nộp 13.300.000 đồng (Mười ba triệu ba
trăm nghìn đồng) theo Biên lai thu s0007434 ngày 28/9/2023 của Chi cục thi
hành án dân sự huyện Trảng Bom, tỉnh Đồng Nai.
2.2. Án phí dân sự phúc thẩm: Ông Hoàng Đình C được miễn nộp.
3. Tiếp tục duy trì biện pháp khẩn cấp tạm thời tại Quyết định số
603/2023/QĐ-BPKCTT ngày 25/10/2023 của Tòa án nhân dân huyện Trảng
Bom, về áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời “Phong tỏa tài sản của người
nghĩa vụ”.
4. Người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự quyền
thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc b
cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a 9 Luật thi hành án
7
dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi
hành án dân sự năm 2008 (sửa đổi, bổ sung năm 2014).
5. Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Nơi nhận:
- VKSND tỉnh Đồng Nai;
- TAND huyện Trảng Bom;
- Cục THADS tỉnh Đồng Nai;
- Chi cục THADS huyện Trảng Bom;
- Chi cục THADS TP. Biên Hòa.
- Các đương sự;
- Lưu hồ sơ vụ án.
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM
THẨM PHÁN – CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
(đã ký)
Nguyễn Trung Hưng
Tải về
Bản án số 15/2025/DS-PT Bản án số 15/2025/DS-PT

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án số 15/2025/DS-PT Bản án số 15/2025/DS-PT

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án/ Quyết định cùng đối tượng

Bản án cùng lĩnh vực

Bản án mới nhất