Bản án số 08.2024/2024/DS-PT ngày 16/08/2024 của TAND tỉnh Điện Biên về tranh chấp quyền sử dụng đất

  • Thuộc tính
  • Nội dung
  • VB gốc
  • VB liên quan
  • Lược đồ
  • Đính chính
  • Án lệ
  • BA/QĐ cùng nội dung
  • Tải về
Tải văn bản
Báo lỗi
  • Gửi liên kết tới Email
  • Chia sẻ:
  • Chế độ xem: Sáng | Tối
  • Thay đổi cỡ chữ:
    17

Thuộc tính Bản án 08.2024/2024/DS-PT

Tên Bản án: Bản án số 08.2024/2024/DS-PT ngày 16/08/2024 của TAND tỉnh Điện Biên về tranh chấp quyền sử dụng đất
Quan hệ pháp luật: Tranh chấp quyền sử dụng đất
Cấp xét xử: Phúc thẩm
Tòa án xét xử: TAND tỉnh Điện Biên
Số hiệu: 08.2024/2024/DS-PT
Loại văn bản: Bản án
Ngày ban hành: 16/08/2024
Lĩnh vực: Dân sự
Áp dụng án lệ:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Đính chính:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Thông tin về vụ/việc: Tranh chấp quyền sử dụng đất giữa ông Sùng Chừ T, bà Lầu Thị L và ông Vừ A M, bà Lý Thị T1
Tóm tắt Bản án

Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!

Tải văn bản

TÒA ÁN NHÂN DÂN
TỈNH ĐIỆN BIÊN
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
Bản án số: 08/2024/DS-PT
Ngày: 16-8-2024
V/v Tranh chấp quyền sử dụng
đất
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH ĐIỆN BIÊN
- Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa: Bà Phạm Thị Thu Hằng.
Các Thẩm phán: Bà Hoàng Thị Hòa.
Bà Vũ Thị Thanh Thủy.
- Thư ký phiên tòa: Ngô Thị Hạnh - Thư ký Tòa án nhân dân tỉnh Điện
Biên.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Điện Biên tham gia phiên tòa:
Ông Nguyễn Khánh Vân - Kiểm sát viên.
Ngày 16 tháng 8 năm 2024, tại trụ sTòa án nhân dân tỉnh Điện Biên xét
xử phúc thẩm công khai vụ án thụ số: 12/2024/TLPT-DS ngày 28 tháng 03
năm 2024 về “Tranh chấp quyền sử dụng đất”.
Do Bản án dân sự sơ thẩm số: 02/2024/DS-ST ngày 22/02/2024 của Tòa án
nhân dân huyện M, tỉnh Điện Biên bị kháng cáo.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 10/2024/QĐ-PT ngày 28 tháng 5
năm 2024; các Quyết định hoãn phiên tòa phúc thẩm số 22/2024/QĐ-PT ngày
28 tháng 6 năm 2024, số 26/2024/QĐ-PT ngày 26 tháng 7 m 2024 giữa các
đương sự:
1. Nguyên đơn: Ông Sùng Chừ T, sinh năm 1966 Lầu Thị L, sinh
năm 1967; cùng trú tại địa chỉ: Bản H, xã H, huyện M, tỉnh Điện Biên.
Người đại diện theo ủy quyền của ông Sùng Chừ T Lầu Thị L: Ông
Giàng A S, sinh năm 1989, địa chỉ: Bản H, xã T, huyện T, tỉnh Điện Biên (Theo
Hợp đồng ủy quyền số 1896 ngày 22/7/2024).
2. Bị đơn: Ông Vừ A M (Vừ Vảng M), sinh năm 1962 Thị T1,
sinh năm 1964; cùng trú tại địa chỉ: Bản H, xã H, huyện M, tỉnh Điện Biên.
Người đại diện theo ủy quyền của Thị T1: Ông Vừ A S1, sinh năm:
2001; địa chỉ: Bản H, xã H, huyện M, tỉnh Điện Biên (Theo Giấyy quyền ngày
31/8/2023).
2
3. Người quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Ông Vừ A S2 (tên gọi khác:
Vừ Giống S2), sinh năm 1975 và bà Sùng Thị D, sinh năm 1977; cùng trú tại địa
chỉ: Bản H, xã H, huyện M, tỉnh Điện Biên.
Người đại diện theo y quyền của Sùng Thị D: Ông Vừ A S2, sinh năm
1975, địa chỉ: Bản H, xã H, huyện M, tỉnh Điện Biên (Theo Giấy ủy quyền ngày
22/3/2023).
4. Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị đơn người
quyền lợi, nghĩa vụ liên quan yêu cầu độc lập: Ông Bùi Đình M1, Luật
Văn phòng L2, thuộc Đoàn Luật tỉnh Đ. Địa chỉ: Số nhà B, tdân phố E,
phường H, thành phố Đ, tỉnh Điện Biên.
5. Người làm chứng do Bị đơn yêu cầu: Ông Thào Vả D1, sinh năm
1947, địa chỉ: Bản H, xã H, huyện M, tỉnh Điện Biên.
6. Người phiên dịch: Ông Sùng A X; địa chỉ: Tổ A, phường T, thành phố
Đ, tỉnh Điện Biên; Tạm trú tại: Bản P, phường N, thành phố Đ, tỉnh Điện Biên.
7. Người kháng cáo: Nguyên đơn ông Sùng Chừ T, Lầu Thị L; Bị đơn
ông Vừ A M, Thị T1; Người quyền lợi, nghĩa vụ liên quan yêu cầu
độc lập ông Vừ A S2 (Vừ Giống S2), bà Sùng Thị D.
(Tại phiên tòa phúc thẩm: ông T, ông S, ông M, ông S1, ông S2, ông M1,
ông D1, ông X có mặt).
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Theo đơn khởi kiện các văn bản trình bày ý kiến của nguyên đơn
trong quá trình giải quyết vụ án, quá trình tranh tụng tại phiên tòa sơ thẩm,
ông Sùng Chừ T trình bày:
Gia đình ông T có 01 khu đất tại Trong D thuộc bản H, xã H, huyện M, tỉnh
Điện Biên quản sử dụng từ năm 1997. Nguồn gốc đất năm 1997 bố ông
Sùng Phái S3 (nay đã chết), anh trai ông Sùng Giống T nay bản H, xã M,
em trai ông Sùng A V nay bản H, H ông Khoàng Văn P là những
người trực tiếp khai hoang. Năm 1998 do ông P chuyển nơi đến bản P, xã H
nên đã cho ông T sử dụng diện tích khai hoang của ông P. Năm 2002, ông T2
viết giấy chuyển nhượng cho ông T phần đất khai hoang của ông T2. Năm 2003
ông S3 ông V cũng chuyển diện tích khai hoang cho ông T (diện tích đất của
ông T2, ông S3 ông V chuyển giao cho ông T không liên quan đến diện tích
đang tranh chấp). Trong tổng diện tích khoảng 05 ha, theo biên bản xem xét
thẩm định ngày 14/3/2023 xác định diện tích đất tranh chấp 2,4 ha chính
phần đất ông P cho ông T năm 1998. Nguyên nhân của việc tranh chấp là:
Trong số diện tích đất trên gia đình ông T canh tác 01 phần, còn lại thì làm bãi
chăn thả trâu, bò, ngựa. Đến năm 2005, ông Vừ Vảng M2 (Vừ A M) đã tý đi
phát 03 đám nương trong bãi chăn thả trâu của gia đình ông T. Sau đó gia
đình ông M xin gia đình ông T cho gia đình ông M làm 01 đến 02 vụ thì sẽ
trả lại đất. Hết thời hạn mượn đất nhưng ông M cố tình không trả cho gia đình
ông T. m 2006 thì ông M đã bỏ lại gia đình ông T canh tác diện tích đó
3
bình thường. Đến năm 2013 ông M gọi anh em của ông M ra đào thông hào
ngăn cách giữa mảnh đất hiện nay ông M đang tranh chấp với gia đình ông
T, nhưng không gieo trồng gì, khi đó gia đình ông T biết nhưng không nói
nói gia đình ông M cũng không nghe. Năm 2016, ông M quay lại phát phần
diện tích đó để làm nương, gia đình ông T đã ngăn chặn nhưng ông M không
dừng lại mà vẫn cố tình gieo lúa. Gia đình ông T vẫn thả trâu tại khu đất
xung quanh nên trong năm 2017 - 2018, trâu của gia đình ông T đã ăn ít lúa
của gia đình ông M ông M đã gửi đơn tới UBND xã để giải quyết nhưng sau
đó không biết do ông M đã tự rút đơn. Năm 2019 gia đình ông M không
gieo trồng trên mảnh đất đó. Năm 2020 gia đình ông M tiếp tục cải tạo một
phần đất thành ruộng nước nhưng cũng không gieo lúa, đến năm 2021 ông M lại
đến phát đám nương trên. Đến tháng 4 năm 2022 gia đình ông T đã gửi đơn lên
UBND xã đề nghị giải quyết, UBND đã hòa giải nhưng không thành nên ông
T đã khởi kiện đnghị Tòa án giải quyết: Buộc gia đình ông Vừ V1 Mua trả
lại số diện tích 2,4 ha
đất tại khu vực T thuộc bản H, H, huyện M, tỉnh Điện
Biên cho gia đình ông T (theo Biên bản xem xét thẩm định ngày 14/3/2023).
Ông T khẳng định trong diện tích 2,4 ha đang tranh chấp không đất của gia
đình ông Vừ A S2 gia đình ông S2 không đất tại khu vực Trong Nhù.
Năm 2005 lúc gia đình ông gia đình ông M xảy ra tranh chấp thì ông S2
tham gia hòa giải với tư cách là đại diện dòng họ bên ông M.
Trong quá trình giải quyết vụ án, qtrình tranh tụng tại phiên tòa, bị
đơn ông Vừ A M, bà Lý Thị T1 và anh Vừ A S1 trình bày:
Nguồn gốc đất tranh chấp gia đình ông M, bà T1 khai hoang từ năm
2004. Lúc đó chưa ai khai hoang, hiện trạng đất khi đó nhiều cây to, rậm
rạp, gia đình ông M canh tác trồng lúa từ năm 2004 đến hết năm 2009. Đến năm
2010, do đất bạc màu nên không trồng lúa nữa làm bãi thả trâu của gia đình
cho đến năm 2016. Gia đình ông M dựng lán nương để từ năm 2004, đến
năm 2013 gia đình ông M đào thông hào ngăn cách phía trên lán nương để ngăn
không cho trâu ra ngoài. Năm 2017 gia đình ông M Thào tiếp tục phát lại
toàn bộ khu đất xung quanh nhà để trồng lúa, lúc mới gieo lúa ông T thả trâu, bò
vào nương gia đình ông M, hai bên gia đình mới xảy ra tranh chấp đến nay. Diện
tích tranh chấp theo ông M, T1 cho rằng 446m
2
nhưng khi xem xét thẩm
định lại 0,8 ha, còn phần diện ch 1,2 ha từ trước đến nay gia đình ông
canh tác không có tranh chấp, các thửa đất có diện tích 0,8 ha và 1,2 ha có các tứ
cận tiếp giáp theo biên bản xem xét thẩm định tại chỗ ngày 14/3/2023.
Nay ông Sùng Chừ T yêu cầu gia đình ông M T1 trả lại 2,4 ha diện tích
đất (theo biên bản xem xét thẩm định tại chỗ ngày 14/3/2023)
tại khu vực T cho
gia đình ông T thì gia đình ông M xác định: diện tích đất tranh chấp gồm thửa có
diện tích 0,8 ha và thửa diện tích 1,2 ha do gia đình ông M tkhai hoang
quản lý và sử dụng từ năm 2004; còn thửa có diện tích 0,4 ha là của gia đình ông
Vừ A S2.
Trong qtrình giải quyết vụ án, quá trình tranh tụng tại phiên tòa
tại giai đoạn phúc thẩm, người quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông Vừ A S2
4
(Vừ Giống S2), bà Thào Thị D2 trình bày:
Ngày 14/3/2023, Tòa án đã tiến hành xem xét thẩm định tại chỗ đối với
diện tích đất đang tranh chấp giữa gia đình ông T gia đình ông M tông
S2 mới biết, trong diện tích 2,4 ha (theo biên bản xem xét thẩm định tại chỗ) thì
thửa đất có diện tích 0,4 ha là đất của gia đình ông. Nguồn gốc đất là do gia đình
ông S2 khai hoang từ năm 2004, gieo lúa đến năm 2009, sau đó bỏ hoang, năm
2013 gia đình ông S2 đào hào, rào thả trâu từ năm 2010 đến năm 2016, đến năm
2017 gia đình ông phát gieo lúa, năm 2018 ông S2 cho cháu Vừ A T3, bản H,
H, huyện M mượn làm một năm, đến năm 2019 thì bỏ hoang cho đến bây
giờ. Ông S2 khẳng định thửa đất có diện tích 0,4 ha trong 2,4 ha mà ông T đang
tranh chấp là của gia đình ông S2 nên ông không đồng ý với ý kiến diện tích 0,4
ha là đất của gia đình ông T.
Sau khi Tòa án thụ vụ giải quyết vụ án, ngày 14/3/2023 Hội đồng
xem xét thẩm định tại chỗ đã tiến xem xét, thẩm định đối với đất tranh chấp,
trong quá trình xem xét thẩm định phát sinh thêm người quyền lợi, nghĩa
vụ liên quan có yêu cầu độc lập là gia đình ông Vừ A S2.
Theo lời khai và yêu cầu của các đương sự, Hội đồng xem xét thẩm định đã
tiến hành đo các cạnh xác định toàn bộ diện tích tranh chấp 2,4 ha bao
gồm 03 thửa là: 0,4ha, 1,2ha và 0,8ha.
Ngày 15/3/2023, ông Vừ A S2 (Vừ Giống S2) đơn yêu cầu Tòa án giải
quyết với nội dung: Ông S2 không đồng ý việc gia đình ông T cho rằng toàn bộ
diện tích tranh chấp 2,4 ha như biên bản xem xét thẩm định tại chỗ đất của
gia đình ông T vì ông cho rằng thửa đất 0,4 ha là đất của gia đình ông S2. Vì vậy
ông S2 đề nghị Tòa án giải quyết cho gia đình ông S2 được quản lý, sử dụng
diện tích đất 0,4 ha được xác định trong biên bản xem xét thẩm định tại chỗ.
Tại Bản án dân sự thẩm số 02/2024/DS-ST ngày 22/02/2024 của Tòa
án nhân dân huyện M, tỉnh Điện Biên đã quyết định:
Căn cứ khoản 9 Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm c khoản 1 Điều 39,
147, 156, 157, 167, 201, 202, 229 của Bộ luật tố tụng dân sự; Điều 197 Bộ luật
dân sự; Điều 4, Điều 14, Điều 27, Điều 39, Điều 49, Điều 129, Điều 131, Điều
166, Điều 170, Điều 179, khoản 2 Điều 203, Điều 210 Luật đất đai; điểm đ
khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy
định về án phí, lệ phí Tòa án:
Tuyên xử:
1. Chấp nhận một phần bác một phần nội dung trong khởi kiện của ông
Sùng Chừ T Lầu Thị L về việc buộc gia đình ông Vừ Vảng M2
Thị T1 phải trả diện tích đất 2,4 ha tranh chấp tại khu vực T thuộc bản H, xã H,
huyện M, tỉnh Điện Biên, cụ thể như sau:
Gia đình ông Sùng Chừ T, Lầu Thị L được quản lý, sử dụng tổng diện
tích đất 1,2 ha, gồm thửa đất có diện tích 0,8 ha và thửa đất có diện tích 0,4 ha.
- Thửa có diện tích 0,8 ha, có các tiếp giáp:
5
Phía Nam giáp khe suối chiều dài cạnh 54,1m (49m + 5,1m), phía Bắc
giáp thửa diện tích 0,4 ha, phía Đông giáp thửa diện tích 1,2 ha (đất ông
M2 được quản sử dụng) chiều dài cạnh (115m), phía Tây giáp đất của gia
đình ông T có chiều dài cạnh 182m (136,0m + 46,0m).
- Thửa có diện tích 0,4 ha, có các tiếp giáp:
Phía Tây giáp đất ông T có chiều dài cạnh 106m (69,0m + 15,0m + 22,0m),
phía Đông giáp đất ông M2, phía Nam giáp thửa 1,2 ha (đất ông M2 được quản
lý sử dụng) có chiều dài cạnh (100m), phía Bắc giáp đất ông T có chiều dài cạnh
113m (69,0m + 44,0m).
2. Gia đình ông Vừ Vảng M2 Thị T1 được quản sử dụng thửa
đất có diện tích 1,2 ha, có các tiếp giáp:
Phía Tây giáp đất ông T, phía Đông giáp suối N chiều dài cạnh 257 m
(50m + 21m + 35m + 34m + 38m + 79m), phía Nam giáp khe suối, phía Bắc
giáp thửa 0,4 ha (đất của gia đình ông T được quản sdụng) chiều dài
cạnh là 100m.
(Các thửa đất có sơ đồ kèm theo).
Nguyên đơn, bị đơn được quyền đến quan thẩm quyền làm các thủ
tục theo quy định pháp luật để được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất
canh tác đúng mục đích đã được Ủy ban nhân dân tỉnh Điện Biên quy hoạch sử
dụng đất của huyện.
3. Bác yêu cầu của ông Vừ A S2 (Vừ Giống S2) và Sùng Thị D là người
có quyền lợi nghĩa vụ liên có yêu cầu độc lập.
Ngoài ra, bản án còn tuyên về quyền yêu cầu thi hành án, chi phí xem xét
thẩm định tại chỗ, án phí quyền kháng cáo bản án của các đương sự theo quy
định của pháp luật.
Ngày 05/3/2024, nguyên đơn ông Sùng Chừ T viết đơn kháng cáo đề nghị
Tòa án cấp phúc thẩm Hủy Bản án dân sự thẩm s 02/2024/DS-ST ngày
22/02/2024 của Tòa án nhân dân huyện M, tỉnh Điện Biên.
Ngày 07/3/2024 bị đơn ông Vừ A M, Thị T1 viết đơn kháng cáo đề
nghị Tòa án cấp phúc thẩm công nhận cho ông được quyền quản sử
dụng thửa đất diện tích 0,8 ha (đang tranh chấp) thuộc khu vực T, bản H,
H, huyện M, tỉnh Điện Biên.
Ngày 07/3/2024 ông Vừ A S2 và Sùng Thị D viết đơn kháng o đề
nghị Tòa án cấp phúc thẩm công nhận cho ông được quyền quản sử
dụng thửa đất diện tích 0,4 ha (có tranh chấp) thuộc khu vực T, bản H, H,
huyện M, tỉnh Điện Biên.
* Tại phiên tòa phúc thẩm:
Ông Giàng A S người đại diện cho nguyên đơn ông Sùng Chừ T, bà Lầu
Thị L thay đổi nội dung kháng cáo: Đề nghị Hội đồng xét xử phúc thẩm sửa một
phần Bản án thẩm, chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn,
6
giao thửa đất diện tích 1,2 ha cho gia đình ông T quản lý, sử dụng. Bị đơn
ông Vừ A M anh Vừ A S1 đề nghị giao thửa đất diện tích 0,8 ha cho gia
đình ông M quản lý, sử dụng. Ông Vừ A S2 (Vừ Giống S2) và bà Sùng Thị D đề
nghị giao thửa đất có diện tích 0,4 ha cho gia đình ông S2 quản lý, sử dụng. Các
bên đương sự không thỏa thuận được với nhau về việc giải quyết vụ án.
Trong phần hỏi tại phiên tòa phúc thẩm, ông S2 khai: diện tích 0,4ha do gia
đình ông S2 khai hoang năm 2004 cách xa đất nương của ông T khoảng 500m
vị trí tứ cận: Phía Đông giáp sông N, phía Tây giáp đất nương của ông M,
phía Bắc giáp đất nương của ông T, phía Nam cũng giáp đất nương của ông T
(là diện tích ông M, ông S2 đã mượn canh tác năm 2005 - 2006). Từ năm 2009 -
2016, gia đình ông S2 để đất hoang, không canh tác trên diện tích đất 0,4ha.
Năm 2013, ông S2 tham gia đào thông hào cùng gia đình ông M để làm ranh
giới đất với gia đình ông M nhưng lại không đào thông hào để làm ranh giới đất
của gia đình ông S2 với gia đình ông T. Năm 2016, gia đình ông S2 phát lại
nương canh tác 01 vụ một shộ dân biết nhưng ông S2 không đưa được
tài liệu chứng minh và không kể được tên người biết về sự việc đó.
Ông M và anh S1 khai: Gia đình ông M chuyển về bản H sinh sống từ năm
1990, tuy nhiên không lên khu vực T phát nương ông M biết đó khu vực
các hộ dân chăn thả gia súc. Năm 2004 thì gia đình ông M lên phát nương
dựng lán trên nương. m 2005-2006, ông M mượn đất nương của gia đình
ông T nhưng khu đất bên kia suối, cách đất nương nhà ông M khai hoang
khoảng 200m đến 300m. Gia đình ông M khai hoang từ 2004 đến năm 2009 thì
hoàn thành diện tích 2 ha nương (hiện đang có tranh chấp). Diện tích nương nhà
ông M khai hoang vị trí tiếp giáp: Phía Đông giáp sông N, phía Tây giáp đất
nương của ông S2, phía Bắc giáp đất nương của ông T mỏm núi Trong
Nhù, phía Nam giáp sông N; Diện tích nương nhà ông M cách đất nương nhà
ông T khoảng 50m đến 100m. Sau khi phát nương xong thì gia đình ông M bỏ
hoang, không canh tác trên đất từ năm 2009 đến năm 2013. Từ 2004 - 2013,
ranh giới đất nhà ông M với nhà ông T được xác định bằng bờ đất và các bụi tre
mọc tự nhiên. Sau đó gia đình ông M đào thông hào để ngăn trâu vào trong
đất và tiếp tục bỏ hoang đất đến hết năm 2016. Năm 2017, 2018 gia đình ông M
cải tạo một phần đất nương khai hoang để làm ruộng nước và ao thì xảy ra tranh
chấp với gia đình ông T. Đến năm 2019, gia đình ông T đào thông hào chia tách
diện tích 2ha đất nương nhà ông M thành 02 thửa đất (1,2 ha 0,8 ha). Gia
đình ông M đã được cấp Giấy chứng nhận quyền sdụng đối với các thửa đất
khác nhưng lại chưa khai, đăng quyền sử dụng đối với 2 ha đất nương tại
khu vực T.
Người đại diện cho Nguyên đơn trình bày: Toàn bộ 2,4ha đất đang tranh
chấp đất của ông P cho ông T, năm 1998 vị ttiếp giáp: Phía Đông giáp
đường mòn (là phía sông N), phía Tây giáp đất nương của ông S3, ông V,
phía Bắc giáp đất nương của ông T2, phía Nam giáp suối và đất của ông Sáy T4.
Đất của gia đình ông T ngăn cách với đất gia đình ông M khai hoang bằng con
đường mòn. Năm 2001, gia đình ông T trồng lúa trên phần đất được ông P
cho. m 2005-2006 cho gia đình ông S2 ợn một phần đất nương canh tác
7
chính là đất 0,4 ha đang có tranh chấp; Lúc đó trên đất có 03 cây mạnh thồ lộ
đường kính khoảng 60cm. Các cây này đã bị ông M, ông S2 chặt nhưng vẫn còn
gốc cây khô. Còn đất nương cho gia đình ông M mượn phần đất liền kề với
0,4 ha. Việc xác định 2,4 ha đang tranh chấp thuộc quyền quản lý, sử dụng của
gia đình ông T được ông P, ông V, ông T2 làm chứng và xác nhận.
Người làm chứng là ông Thào Vả D1 khai không biết rõ vị trí, diện tích đất
của ông S, ông V, ông T2, ông P, ông S2, ông M khai hoang tại T đã nhiều
năm gia đình ông D1 không canh tác và không qua lại khu vực đó.
* Ý kiến của người bảo vệ quyền lợi ích hợp pháp của bị đơn
người quyền lợi, nghĩa vụ liên quan yêu cầu độc lập ông Bùi Đình
M1 trình bày:
Diện tích đất 2,4 ha đất tranh chấp là do gia đình ông M, ông S2 khai hoang
từ năm 2004. Năm 2013 ông M ông S2 đã đào hào để làm ranh giới đất. Xác
định 2 ha đất được gia đình ông M sử dụng canh tác ổn định, không tranh
chấp. Đến năm 2019 ông T đào 115 mét hào để phân chia ranh giới, như vậy gia
đình ông T đã công nhận quyền sử dụng 1,2ha đất cho gia đình ông M chỉ
còn tranh chấp với ông M 0,8ha. Thực tế, giữa thửa đất 0,4ha thửa đất 1,2ha
cũng hào do anh em ông M, ông S2 đào nhưng Tòa án cấp thẩm không
công nhận quyền sử dụng đất cho gia đình ông S2 là không có căn cứ… Đề nghị
Hội đồng xét xử phúc thẩm sửa án thẩm, công nhận 0,8ha đất cho gia đình
ông M và công nhận 0,4ha đất cho gia đình ông S2.
* Ý kiến của vị đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Điện Biên về việc
tuân theo pháp luật và việc giải quyết vụ án:
- Việc thụ vụ án theo thủ tục phúc thẩm được thực hiện theo đúng quy
định tại Điều 285 BLTTDS; thời hạn chuẩn bị xét xử phúc thẩm theo đúng quy
định tại Điều 286 BLTTDS. Việc chấp hành pháp luật tố tụng của Thẩm phán,
Hội đồng xét xử, Thư ký và người tham gia tố tụng đã chấp hành đúng và đầy đủ
theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự.
- Về nội dung vụ án: Căn cứ các tài liệu chứng cứ trong hồ sơ, đủ sở
xác định diện tích đất tranh chấp của nguyên đơn được ông Khoàng Văn P cho
thật; Việc bị đơn cho rằng toàn bộ diện tích đất 0,8 ha +1,2 ha của gia
đình bị đơn khai hoang là không có căn cứ. Tuy nhiên, ông P không thể xác định
được chính xác diện tích đất mà ông cho nguyên đơn là bao nhiêu, ranh giới đến
đâu, nên không đủ sở đcho rằng toàn bdiện tích 2,4 ha là đất ông P cho
nguyên đơn. Mặt khác, trong tổng diện tích đất đang tranh chấp thì 1,2 ha
đất bị đơn sdụng ổn định lâu dài, được ngăn cách với thửa 0,8 ha bởi đường
thông hào do chính gia đình nguyên đơn đào năm 2018; Trên diện tích đất đó,
gia đình bị đơn đã làm lán ở, đào ao, làm ruộng từ các năm 2004, 2009, 2018
cho đến nay, phía nguyên đơn cũng không ý kiến phản đối; Điều đó thể hiện
nguyên đơn thừa nhận việc bị đơn được quản sử dụng diện tích 1,2 ha nói
trên.
Người quyền lợi nghĩa vụ liên quan yêu cầu độc lập ông Vừ A S2
8
cho rằng diện tích 0,4 ha đất của gia đình mình khai hoang năm 2004, trồng
lúa từ năm 2004 đến năm 2009 thì bỏ hoang, năm 2013 gia đình ông đào thông
hào ngăn cách giữa đất nhà mình với nhà ông T, năm 2017 ông S2 đi phát trồng
lúa rồi năm 2018 cho Vừ A T3 mượn đất để canh tác, đến năm 2019 thì không
canh tác nữa. Tuy nhiên, tại thời điểm xem xét thẩm định tại chỗ trên phần diện
tích 0,4 ha có nhiều cây bụi mọc tự nhiên có đường kính từ 3 đến 5cm, xét về độ
tuổi của cây không phù hợp với thời gian ông S2 bỏ hoang. Mặt khác năm 2005
ông S2 cũng là người trực tiếp hòa giải tranh chấp diện tích đất đó giữa gia đình
ông T và ông M, thời điểm đó ông S2 không có ý kiến tranh chấp đất với ông T.
Như vậy, xét về nguồn gốc đất cũng như thực tế quá trình sdụng đất t
nội dung kháng cáo của nguyên đơn, của bị đơn kháng cáo của người
quyền lợi nghĩa vụ liên quan yêu cầu độc lập không căn cứ để chấp
nhận.
Đề nghị Hội đồng xét xử phúc thẩm căn cứ khoản 1 Điều 308 BLTTDS giữ
nguyên Bản án dân sự thẩm số 02/2024/DS-ST ngày 22/02/2024 của Tòa án
nhân dân huyện M, tỉnh Điện Biên. Căn cứ khoản 1 Điều 147 BLTTDS; điểm đ
khoản 1 Điều 12 Nghị quyết 326 của Ủy ban Thường vụ quốc hội, miễn toàn bộ
án phí dân sự phúc thẩm cho các đương sự.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Căn cứ vào tài liệu, chứng cứ đã được kiểm tra, xem xét tại phiên tòa, ý
kiến của Kiểm sát viên, các quy định của pháp luật, Hội đồng xét xphúc thẩm
thấy rằng:
[1] Về tố tụng:
Căn cứ nội dung đơn khởi kiện, các tài liệu chứng cứ kèm theo Tòa án cấp
thẩm xác định quan hệ pháp luật có tranh chấp là “Tranh chấp quyền sử dụng
đất” thuộc thẩm giải quyết của Tòa án nhân dân cấp huyện theo khoản 9 Điều
26, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm c khoản 1 Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự để
thụ lý và giải quyết là đúng thẩm quyền.
Sau khi xét xử thẩm, Nguyên đơn ông Sùng Chừ T, Thào Thị L1; Bị
đơn ông Vừ A M, bà Lý Thị T1; Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông Vừ
A S2 (Vừ Giống S2), bà Sùng Thị D đều gửi đơn kháng cáo đối với Bản án dân
sự thẩm số 02/2024/DS-ST ngày 22/02/2024 của Tòa án nhân dân huyện M,
tỉnh Điện Biên. Việc kháng cáo được thực hiện trong thời hạn luật định, nội
dung kháng cáo quyền kháng cáo phù hợp với quy định của pháp luật,
nguyên đơn, bị đơn, người quyền lợi, nghĩa vụ liên quan được miễn nộp tiền
tạm ứng án phí phúc thẩm, như vậy việc kháng cáo của các đương sự hợp lệ,
đúng theo quy định tại các Điều 271, 272, 273 276 của Bộ luật Tố tụng dân
sự. Do đó, Hội đồng xét xử phúc thẩm xem xét đơn kháng cáo của nguyên đơn,
bị đơn, người quyền lợi, nghĩa vliên quan yêu cầu độc lập theo trình tự
phúc thẩm.
[2] Về nội dung: Xét nội dung kháng cáo của nguyên đơn ông Sùng
Chừ T, Lầu Thị L; bị đơn ông Vừ A M, Thị T1; người quyền
9
lợi, nghĩa vụ liên quan ông Vừ A S2, bà Sùng Thị D thấy rằng:
[2.1] Tại phiên tòa phúc thẩm, ông S2 khai, phía Nam của diện tích đất 0,4
ha do gia đình ông S2 khai hoang tiếp giáp với đất nương của gia đình ông T đã
cho ông S2, ông M mượn canh tác các năm 2005 - 2006, đồng nghĩa với việc
thừa nhận diện tích đất 1,2ha và 0,8ha là đất của gia đình ông T.
Lời khai của ông S2 phù hợp với lời khai của ông T, ông P, phù hợp với
việc mô tả mốc giới và Biên bản xem xét thẩm định tại chỗ, các tài liệu có trong
hồ vụ án. Do vậy, lời khai của ông M, bà T1 cho rằng toàn bộ diện tích đất
0,8ha +1,2ha là do gia đình bị đơn khai hoang là không có căn cứ.
Qua lời khai của các đương sự thấy rằng, trong 2ha tranh chấp giữa nguyên
đơn với bị đơn 1,2ha đất gia đình ông M thường xuyên canh tác sử dụng,
trên diện tích đất đó, gia đình ông M đã làm lán nương, đào ao, cải tạo đất thành
ruộng nước gia đình ông T biết nhưng không đề nghị thôn, bản hoặc các cơ quan
thẩm quyền giải quyết. Đến năm 2019, gia đình ông T đã tự đào thông hào
làm ranh giới với đất của gia đình ông M; Điều đó thể hiện gia đình ông T đã
thừa nhận để gia đình ông M được quản và sử dụng diện tích 1,2ha đất nêu
trên, còn diện tích 0,8ha gia đình ông T không đồng ý cho gia đình ông M tiếp
tục sử dụng.
[2.2] Trong quá trình giải quyết vụ án cấp thẩm, ông M, T1 luôn
khẳng định diện tích đất 2 ha tiếp giáp với đất của gia đình ông T (không
cạnh nào giáp đất của gia đình ông S2). Đến phiên tòa phúc thẩm mới thay đổi
lời khai xác định phía Tây giáp đất nương của ông S2 khai hoang, tuy nhiên so
với đồ đo vkhi xem xét thẩm định tại chỗ thì lời khai của ông M tại phiên
tòa cũng không phù hợp về vị trí cạnh tiếp giáp. Còn lời khai của ông S2 thể
hiện xung quanh thửa 0,4ha đều là đất của gia đình ông T.
Xét thấy, năm 2005 ông S2 tham gia hòa giải tranh chấp diện tích đất đai
giữa gia đình ông T gia đình ông M nhưng không ý kiến tranh chấp diện
tích 0,4ha đất nương với ông T. Gia đình ông S2 chỉ canh tác thời gian ngắn, sau
đó gia đình ông T sử dụng làm bãi chăn thả gia súc nhưng ông S2 không phản
đối. Ông S2 khai đào thông hào ngăn cách với đất của ông M anh trai nhưng
lại không đào thông hào làm ranh giới với phần đất liền kề của ông T điều
lý, ít gặp trong đời sống... Căn cứ vào lời khai của ông T2, ông P Biên bản
xem xét thẩm định tại chỗ mô tả trên phần diện tích 0,4 ha có nhiều cây bụi mọc
tự nhiên đường kính từ 3 đến 5cm, như vậy đtuổi của cây không phù hợp
với lời khai của ông S2, bà D về nguồn gốc đất và quá trình sử dụng đất.
[2.3] ông Thào Vả D1 khai không biết vị trí, diện tích đất của ông S,
ông V, ông T2, ông P, ông S2, ông M khai hoang tại khu vực T nên Văn bản ghi
ý kiến của ông D1 do Bị đơn nộp không phải tài liệu, chứng cứ để giải quyết
tranh chấp.
[2.4] Từ những phân tích nêu trên, Hội đồng xét xphúc thẩm thấy rằng
Bản án dân sự sơ thẩm số 02/2024/DS-ST ngày 22/02/2024 của Tòa án nhân dân
huyện M giải quyết tranh chấp phù hợp với quy định của pháp luật. Do đó,
10
nội dung kháng cáo của ông Sùng Chừ T, bà Lầu Thị L; ông Vừ A M, bà Lý Thị
T1; ông Vừ A S2, bà Sùng Thị D không có căn cứ để chấp nhận.
[3] Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không kháng cáo, kháng
nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
[4] Về án phí dân sự phúc thẩm: Căn cứ quy định tại khoản 1 Điều 148 Bộ
luật Tố tụng dân sự; điểm đ khoản 1 Điều 12; khoản 1 Điều 29 Nghị quyết số
326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ quốc hội khóa
14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản sử dụng án phí, lệ phí
Tòa án.
Nguyên đơn ông Sùng Chừ T, Lầu Thị L; Bị đơn ông Vừ A M
Thị T1; Người quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông Vừ A S2 Sùng Thị D
được miễn án phí dân sự phúc thẩm.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ khoản 1 Điều 308; khoản 1 Điều 148 Bộ luật Tố tụng dân sự;
Căn cứ khoản 9 Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm c khoản 1 Điều 39,
147, 156, 157, 167, 201, 202, 229 của Bộ luật tố tụng dân sự; Điều 197 Bộ luật
Dân sự; Điều 4, Điều 14, Điều 27, Điều 39, Điều 49, Điều 129, Điều 131, Điều
166, Điều 170, Điều 179, khoản 2 Điều 203, Điều 210 Luật Đất đai;
Căn cứ điểm đ khoản 1 Điều 12; khoản 1 Điều 29 Nghị quyết
326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy
định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án;
Tuyên xử:
1. Không chấp nhận yêu cầu kháng cáo của nguyên đơn ông Sùng Chừ T,
Lầu Thị L; Bị đơn ông Vừ A M (tên gọi khác: Vừ Vảng M) và bà Thị T1;
Người quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông Vừ A S2 (tên gọi khác: Vừ Giống
S2) và bà Sùng Thị D.
Giữ nguyên Bản án dân sự thẩm số 02/2024/DS-ST ngày 22/02/2024
của Tòa án nhân dân huyện M, tỉnh Điện Biên. Cụ thể:
1.1. Chấp nhận một phần nội dung khởi kiện của nguyên đơn ông Sùng
Chừ T, bà Lầu Thị L:
- Gia đình ông ng Chừ T, Lầu Thị L được quyền quản lý, sử dụng
tổng diện tích đất 1,2 ha, gồm thửa đất diện tích 0,8 ha thửa đất diện
tích 0,4 ha.
+ Thửa diện tích 0,8 ha, vị trí tiếp giáp: Phía Nam giáp khe suối
chiều dài cạnh 54,1m (49m + 5,1m), phía Bắc giáp thửa có diện tích 0,4 ha, phía
Đông giáp thửa diện tích 1,2 ha (đất ông M được quản sử dụng) chiều
dài cạnh (115m), phía Tây giáp đất của gia đình ông T chiều dài cạnh 182m
(136,0m + 46,0m).
11
+ Thửa diện tích 0,4 ha, vị trí tiếp giáp: Phía Tây giáp đất ông T
chiều dài cạnh 106m (69,0m + 15,0m + 22,0m), phía Đông giáp đất ông M, phía
Nam giáp thửa 1,2 ha (đất ông M được quản sử dụng) chiều dài cạnh
(100m), phía Bắc giáp đất ông T có chiều dài cạnh 113m (69,0m + 44,0m).
- Buộc ông Vừ A M Thị T1; ông Vừ A S2 Sùng Thị D thu
hoạch các cây trồng ngắn ngày; khai thác, di chuyển các cây lâu năm trồng trên
các diện tích đất nêu trên để trả lại đất cho ông Sùng Chừ T, bà Lầu Thị L.
1.2. Không chấp nhận một phần nội dung khởi kiện của nguyên đơn ông
Sùng Chừ T, Lầu Thị L đối với ông Vừ A M bà Thị T1 về yêu cầu trả
lại thửa đất diện tích 1,2 ha vị trí tiếp giáp: Phía Tây giáp đất ông T, phía
Đông giáp suối N chiều dài cạnh 257 m (50m + 21m + 35m + 34m + 38m +
79m), phía Nam giáp khe suối, phía Bắc giáp thửa 0,4 ha (đất của gia đình ông T
được quản lý sử dụng) có chiều dài cạnh là 100m.
(Theo sơ đồ đính kèm theo Bản án).
1.3. Không chấp nhận nội dung yêu cầu độc lập của ông Vừ A S2 (Vừ
Giống S2) Sùng Thị D về việc công nhận cho ông Vừ A S2 (Vừ Giống
S2) và bà Sùng Thị D được quản lý, sử dụng diện tích đất 0,4 ha có tranh chấp.
2. Về án phí dân sự thẩm: Miễn toàn bộ án phí dân sthẩm cho các
đương sự.
3. Về chi phí tố tụng: Về chi phí xem xét thẩm định tại chỗ chi phí trả
cho những người làm chứng, tổng cộng 6.000.000 đồng (sáu triệu đồng). mỗi
bên tự nguyện chịu một nửa. Ông Sùng Chừ T, Lầu Thị L đã nộp đủ
3.000.000 đồng (ba triệu đồng); ông Vừ Vảng M2 Lý Thị T1 đã nộp đủ
3.000.000 đồng (ba triệu đồng).
4. Về án phí dân sự phúc thẩm: Miễn án phí dân sự phúc thẩm cho Nguyên
đơn ông Sùng Chừ T, Lầu Thị L; Bị đơn ông Vừ A M Thị T1;
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông Vừ A S2 và bà ng Thị D.
5. Bản án phúc thẩm hiệu lực pháp luật k từ ngày tuyên án (ngày
16/8/2024).
Nơi nhận:
- Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Điện Biên;
- TAND huyện M, tỉnh Điện Biên;
- Chi cục THADS huyện M, tỉnh Điện Biên;
- Các đương sự;
- Lưu HSVA, HCTP.
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM
THẨM PHÁN – CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
(Đã ký)
Phạm Thị Thu Hằng
12
Tải về
Bản án số 08.2024/2024/DS-PT Bản án số 08.2024/2024/DS-PT

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án số 08.2024/2024/DS-PT Bản án số 08.2024/2024/DS-PT

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án/ Quyết định cùng đối tượng

Bản án cùng lĩnh vực

Bản án mới nhất