Bản án số 05/2024/DS-ST ngày 30/08/2024 của TAND huyện Lạc Sơn, tỉnh Hòa Bình về tranh chấp đất đai

  • Thuộc tính
  • Nội dung
  • VB gốc
  • VB liên quan
  • Lược đồ
  • Đính chính
  • Án lệ
  • BA/QĐ cùng nội dung
  • Tải về
Tải văn bản
Báo lỗi
  • Gửi liên kết tới Email
  • Chia sẻ:
  • Chế độ xem: Sáng | Tối
  • Thay đổi cỡ chữ:
    17

Thuộc tính Bản án 05/2024/DS-ST

Tên Bản án: Bản án số 05/2024/DS-ST ngày 30/08/2024 của TAND huyện Lạc Sơn, tỉnh Hòa Bình về tranh chấp đất đai
Quan hệ pháp luật: Tranh chấp đất đai
Cấp xét xử: Sơ thẩm
Tòa án xét xử: TAND huyện Lạc Sơn (TAND tỉnh Hòa Bình)
Số hiệu: 05/2024/DS-ST
Loại văn bản: Bản án
Ngày ban hành: 30/08/2024
Lĩnh vực: Dân sự
Áp dụng án lệ:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Đính chính:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Thông tin về vụ/việc: Bà Bùi Thị T kiện yêu cầu ông Đặng Văn T trả lại quyền sử dụng đất. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện.
Tóm tắt Bản án

Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!

Tải văn bản

TÒA ÁN NHÂN DÂN
HUYỆN LẠC SƠN
TỈNH HÒA BÌNH
Bản án số: 05/2024/DS-ST
Ngày 30 - 8 - 2024
V/v tranh chấp quyền sử dụng đất.
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN LẠC SƠN, TỈNH HÒA BÌNH
- Thành phần Hội đồng xét xử sơ thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa: Ông Phạm Cao Sơn.
Các Hội thẩm nhân dân: Ông Bùi Văn Thiệu và bà Trịnh Thị Thắng.
- Thư phiên tòa: Ông Nguyễn Đức Phương Thư Tòa án nhân dân
huyện Lạc Sơn, tỉnh Hòa Bình.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Lạc Sơn, tỉnh Hòa Bình tham
gia phiên toà: Ông Lê Xuân Trường - Kiểm sát viên.
Trong các ngày 31 tháng 7 và ngày 30 tháng 8 năm 2024 tại trụ sở Tòa án
nhân dân huyện Lạc Sơn, tỉnh Hòa Bình xét xử sơ thẩm công khai
vụ án dân sự
thụ s29/2022/TLST - DS ngày 29 tháng 6 năm 2022 về việc “Tranh chấp
quyền sử dụng đất” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 14/2024/QĐXXST-
DS ngày 28 tháng 6 năm 2024 và Quyết định hoãn phiên tòa số 05/2024/QĐST-
DS, ngày 15 tháng 7 năm 2024 giữa các đương sự:
1. Nguyên đơn: Bùi Thị T, sinh năm 1978. Địa chỉ: Xóm Đ, T, huyện
L, tỉnh Hòa Bình. Có mặt tại phiên tòa.
2. Bị đơn:
Ông Đặng Văn T1, sinh năm 1977. Địa chỉ: Xóm Đ, T, huyện
L, tỉnh Hòa Bình. Vắng mặt tại phiên tòa.
3. Người quyền lợi, nghĩa vụ liên quan tham gia tố tụng với bên nguyên
đơn: Cụ Quách Thị H, sinh năm 1941. Địa chỉ: Xóm V, xã Y, huyện L, tỉnh Hòa
Bình. Vắng mặt tại phiên tòa.
Bùi Thị T2 (tên gọi khác là S), sinh năm 1974. Xóm Đa, xã T, huyện
L, tỉnh Hòa Bình. Vắng mặt tại phiên toà và có đơn xin xét xử vắng mặt.
Người đại diện theo ủy quyền tham gia tố tụng của cụ Quách Thị H và bà
Bùi Thị T2: Bùi Thị T, sinh năm 1978. Địa chỉ: Xóm Đ, T, huyện L, tỉnh
Hòa Bình (Theo Giấy ủy quyền các ngày 08/9/2023 và ngày 15/3/2024). Có mặt
tại phiên tòa.
Bùi Thị T3, sinh năm 1976. Địa chỉ: Xóm Đ, xã T, huyện L, tỉnh Hòa
Bình. Vắng mặt tại phiên toà và có đơn xin xét xử vắng mặt.
2
4. Người quyền lợi, nghĩa vụ liên quan tham gia tố tụng với bên bị đơn:
Ông Đặng Văn L, sinh năm 1951. Địa chỉ: Xóm Đ, xã T, huyện L, tỉnh Hòa Bình.
Vắng mặt tại phiên toà.
5. Người quyền lợi, nghĩa vụ liên quan tham gia ttụng độc lập: Ủy
ban nhân dân huyện L, tỉnh Hòa Bình. Địa chỉ trụ sở: Phố H, thị trấn V, huyện L,
tỉnh Hòa Bình. Người đại diện theo pháp luật: Ông Bùi Văn L1 Chủ tịch UBND
huyện L, tỉnh Hòa Bình. Người đại diện theo ủy quyền tham gia tố tụng: Ông
Quách Anh T4 Phó Trưởng phòng Tài nguyên Môi trường huyện L, tỉnh Hòa
Bình. Vắng mặt tại phiên toà.
Ông Đặng Văn C, sinh năm 1974. Địa chỉ: Xóm Đ, T, huyện L, tỉnh
Hòa Bình. Có mặt tại phiên toà.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Theo đơn khởi kiện các tài liệu, chng cứ kèm theo, nguyên đơn
Bùi Thị T trình bày: Bố mẹ Bùi Thị T cụ Bùi Văn B cụ Quách Thị H
chung sống với nhau như vợ chồng mà không có đăng ký kết hôn và có được 03
người con là bà Bùi Thị T2 (tức S), Bùi Thị T3 Bùi Thị T. Sau khi sinh bà Bùi
Thị T, do mâu thuẫn với cụ Bùi Văn B nên cụ Quách Thị H bỏ về nhà bố mẹ đ
sinh sống riêng cho đến nay. Cụ Bùi Văn B sau đó có khai phá được thửa đất tại
xóm Đ, xã T, huyện L, tỉnh Hòa Bình. Năm 1991, thửa đất được UBND huyện L
cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất tại thửa số 79, tờ bản đồ số 12 với diện
tích 1.652m
2
; giấy chứng nhận số A653414, cấp ngày 05/7/1991 mang tên Bùi
Văn B. Năm 1996, cụ Bùi Văn B chết không để lại di chúc và thửa đất do ba chị
em bà T quản lý, sử dụng. Khoảng năm 2002, các chị của T lập gia đình và
riêng. Thửa đất nêu trên do T một mình quản lý, sử dụng. Năm 1996, do
khó khăn về kinh tế nên bà Bùi Thị T2 có vay của ông Đặng Văn L (là bố đẻ ông
Đặng Văn T1) số tiền 1.000.000 (Một triệu) đồng không giấy tờ. Năm 2015
khi chủ trương đổi Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thì T phát hiện Giấy
chứng nhận của gia đình đã bị sửa số diện tích; từ 1.652m
2
n 826m
2
(số
1.652m
2
bị gạch ngang, viết sang bên cạnh số 826m
2
, đóng dấu của Phòng
Địa chính Nông nghiệp huyện L). Thửa đất số 79 bị tách thành hai thửa là 79
79B; thửa số 79 vẫn mang tên cụ Bùi Văn B còn thửa số 79B Giấy chứng nhận
số R581518, cấp ngày 20/12/2000 mang tên ông Đặng Văn T1. Tại phần “Những
thay đổi sau khi cấp giấy chứng nhận” trong Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất
của cụ Bùi Văn B ghi: “14/7/2002 tách cho ông Đặng Văn T1 826m
2
”. Việc
tách Giấy chứng nhận như trên bà Bùi Thị T không hề hay biết. Bà Bùi Thị T cho
rằng đã sự tự ý làm sai lệch và việc cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng một
phần hai diện tích đất của gia đình cho ông Đặng Văn T1 trái pháp luật vì cụ
Bùi Văn B chết năm 1996 trong khi Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cấp cho
ông T1 năm 2000, các chị em bà không ai có giao dịch chuyển nhượng quyền sử
dụng đất cho ông Đặng Văn T1. T gia đình đã nhiều lần yêu cầu ông
Đặng Văn T1 hoàn trả lại diện tích đất nêu trên nhưng ông T1 không trả cho
rằng đã nhận quyền nhượng từ Bùi Thị T2. Diện tích đất tại thửa số 79B ông
Đặng Văn T1 đã chuyển nhượng cho ông Đặng Văn C từ năm 2003 nhưng chưa
làm thủ tục sang tên cho ông Đặng Văn C. Nay Bùi Thị T khởi kiện với yêu
3
cầu ông Đặng Văn T1 hoàn trả lại diện tích đất 826m
2
tại xóm Đ, xã T, huyện L,
tỉnh Hòa Bình và bồi thường thiệt hại cho bà; yêu cầu cơ quan quản lý đất đai có
thẩm quyền thu hồi Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số R581518, cấp ngày
20/12/2000 mang tên ông Đặng Văn T1.
Phía bị đơn trình bày: Việc mua bán chuyển nhượng quyền sử dụng diện
tích đất tranh chấp thực tế ông Đặng Văn T1 không tham gia mà ông chỉ biết năm
1998, bố ông Đặng Văn L có nhận chuyển nhượng từ chị gái T là bà Bùi Thị
T2 diện tích 826m
2
đất tại xóm Đ, T, huyện L, tỉnh Hòa Bình với giá 1.000.000
(Một triệu) đồng. Việc mua bán chuyển nhượng bằng miệng, không văn bản
giấy tờ gì. Sau đó ông Đặng Văn L nhcán bộ địa chính ông Bùi Văn B1
(nay đã chết) làm thủ tục tách quyền sử dụng diện tích đất nêu trên sang tên ông
Đặng Văn T1 chứ bản thân ông T1 cũng không tham gia làm thủ tục, không tham
gia bất kỳ giấy tờ liên quan đến thủ tục tách quyền sử dụng đất. Do không
có nhu cầu sử dụng nên năm 2002 ông Đặng Văn T1 đã chuyển nhượng cho ông
Đặng Văn C trên thực tế ông C vẫn quản lý sử dụng thửa đất cho đến nay. Nay
Bùi Thị T kiện yêu cầu ông trả lại diện tích đất nêu trên thì ông không đồng ý
vì cho rằng T kiện không có căn cứ.
Phía ông Đặng Văn L trình bày: Ông Bùi Thị T2 thỏa thuận chuyển
nhượng quyền sử dụng đất chính T2 cùng ông B1 ông L tự đo phân
chia trên thực địa thửa đất của cụ Bùi Văn B. Ông Đặng Văn L cũng đã nộp tiền
làm thủ tục tách quyền sử dụng đất việc làm thủ tục do cán bộ địa chính làm
và ông L chỉ nhận Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.
Phía Bùi Thị T2 (tức S) và bà Bùi Thị T3 trình bày: Nguồn gốc đất tranh
chấp do bố các bà là cụ Bùi Văn B khai phá và được cấp Giấy chứng nhận quyền
sử dụng đất đúng như Bùi Thị T đã khai. Năm 1996, cụ B chết nên T2
vay tiền của ông Đặng Văn L để lo tang lễ cho cụ B. Sau đó khoảng một tháng thì
ông Đặng Văn L đến đòi tiền nhưng do chưa tiền trả ông L nên ông L đề
nghị T2 bán lại cho ông một phần hai thửa đất của cụ B nhưng bà T2, bà T3
T đều không đồng ý. Bà i Thị T2 khẳng định mình không kết bất kỳ giấy
tờ chuyển nhượng đất nào cho ông Đặng Văn L. Năm 2015 khi chủ trương đổi
Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thì phát hiện Giấy chứng nhận mang tên cụ
Bùi Văn B đã bsửa như T đã trình bày. Nay xảy ra tranh chấp, các bà Bùi Thị
T2, Bùi Thị T3 đồng nhất ý kiến, yêu cầu của Bùi Thị T; yêu cầu ông Đặng
Văn T1 giao trả lại diện tích đất 826m
2
tại xóm Đ, xã T, huyện L, tỉnh Hòa Bình
và đề nghị UBND huyện L thu hồi lại Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đã cấp
cho ông Đặng Văn T1.
Phía ông Đặng Văn C trình bày: Năm 2002 ông nhận chuyển nhượng
diện tích 826m
2
thuộc thửa đất số 79B, tờ bản đồ số 12 tại xóm Đ, T, huyện L,
tỉnh Hòa Bình từ ông Đặng Văn T1 với giá 2.000.000 (Hai triệu) đồng. Khi chuyển
nhượng, ông C không biết đất tranh chấp, hai bên lập giấy tờ nhưng cho đến
nay vẫn chưa làm thủ tục sang tên cho ông Đặng Văn C. Ông C vẫn sử dụng đất
trên thực tế ổn định cho đến nay. Trường hợp Bùi Thị T kiện ông Đặng Văn
T1 có căn cứ và dẫn tới hậu quả Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của ông T1
4
bị thu hồi ông T1 phải trả lại đất cho T thì ông C yêu cầu ông Đặng Văn T1
bồi thường thiệt hại cho ông Đặng Văn C theo quy định của pháp luật.
Phía cụ Quách Thị H trình bày: Cụ và cụ Bùi Văn B sống với nhau không
đăng kết hôn sinh được 03 người con gồm các bà Bùi Thị T2 (tức S), Bùi
Thị T3 Bùi Thị T. Sau khi sinh T thì do mâu thuẫn với cụ B nên bỏ v
quê ngoại sống cho đến nay. Khi cụ H bỏ về quê ngoại thì chưa có thửa đất tranh
chấp và cụ không biết gì về thửa đất này. Vì thế, cụ H từ chối nhận mọi quyền lợi
liên quan đến toàn bộ thửa đất tranh chấp để lại cho các i Thị T2, Bùi
Thị T3 và Bùi Thị T quản lý, sử dụng, giải quyết tranh chấp. Cụ Quách Thị H từ
chối tham gia tố tụng và ủy quyền toàn bộ cho bà Bùi Thị T tham gia tố tụng.
Phía đại diện Ủy ban nhân dân huyện L, tỉnh Hòa Bình xác nhận nguồn gốc
và quá trình cấp đất cho cụ Bùi Văn B đúng như nguyên đơn đã khai. Năm 1996,
cụ B chết không để lại di chúc. Sau khi các chị bà Bùi Thị T lập gia đình riêng thì
thửa đất trên do T trực tiếp quản , sử dụng. Năm 1997, T2 vay tiền ông
Đặng Văn L nhưng vay bằng miệng, không giấy tờ số tiền này T không
biết việc mua bán đất giữa ông L và T2. Ngày 20/12/2000, ông Đặng Văn T1
được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đối với diện tích 826m
2
thuộc tbản
đồ số 12, thửa 79B như đã nêu và ông T1 chuyển nhượng cho ông Đặng Văn
C năm 2002 nhưng chưa là thủ tục chuyển nhượng quyền sử dụng đất. Nay
tranh chấp, đề nghị Tòa án giải quyết theo đúng quy định của pháp luật.
Kết quả xác minh tại chính quyền cơ sở xác định theo Sổ đất thổ cư (trang
54, số thứ tự 147), đất cấp cho cụ Bùi Văn B với diện tích 1.652m
2
tại tờ bản đồ
số 12, thửa đất số 79. Tại Sổ theo dõi các hộ tách sổ + mất sổ ở trang có ghi ngày
30/7/2000, số thứ tự 12 thì đất ông Đăng Văn T5 được tách ra từ hộ cụ Bùi Văn
B với tỷ lệ 50% diện tích; mỗi thửa 826m
2
. Việc ai người đứng ra chuyển
nhượng đất từ cụ B sang ông T5 thì chính quyền địa phương không có thông tin,
không hồ chuyển nhượng lưu. Kết quả cung cấp tài liệu, chứng cứ từ Chi
nhánh Văn phòng đăng đất đai huyện L xác nhận không hồ cấp Giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất của ông Đặng Văn T1 chỉ danh sách cấp
Giấy chứng nhận. Chi cục thuế khu vực Y - L khẳng định công tác quản thu
thuế, phí từ năm 1991 đến năm 2000 không còn lưu giữ chứng từ, sổ sách kế toán
liên quan đến ông ông Đặng Văn T1, cụ Bùi Văn B xóm Đ, xã T, huyện L, tỉnh
Hòa Bình.
Kết quả xem xét, thẩm định tại chỗ của Tòa án xác định vị trí thửa đất tranh
chấp tại xóm Đ, xã T, huyện L, tỉnh Hòa nh, diện tích là 945,3m
2
(biến động
tăng so với Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đã cấp cho ông Đặng Văn T1
119,3m
2
), diện tích còn lại theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của cụ Bùi
Văn B 1.108.2m
2
. Tổng diện tích hai thửa đất 79 79B 2.053,5m
2
, biến
động tăng so với diện tích đất cấp theo Giấy chứng nhận tên cụ Bùi Văn B
401,5m
2
. Tuy nhiên, tứ cận không có tranh chấp, hình thế thửa đất không có thay
đổi. Thửa đất đang tranh chấp tứ cận: Phía Đông Bắc giáp đường bêtông nội
xóm; phía Đông Nam giáp đất hộ ông Bùi Văn T6; phía Tây Bắc giáp đất bà Bùi
Thị T; phía Tây Nam giáp đất hộ ông Hồ Ngọ N (Có sơ đồ đo vẽ kèm theo). Tài
sản trên đất có: 15 cây lát khoảng 10 năm tuổi, đường kính thân từ 16 24cm; 02
5
cây nhãn (một cây khoảng 20 năm tuổi, đường kính tán 05m
2
; một cây đường kính
tán 03m
2
); 01 cây mít 20 năm tuổi; 01 cây vải thiều đường kính tán 02m
2
; 01 cây
xoan đường kính thân 17,2cm; 01 cây bưởi, đường kính tán 1,5m
2
; 01 cây roi,
đường kính tán 04m
2
; 03 bụi tre, mỗi bụi 20 cây; 01 cây keo khoảng 10 năm tuổi,
đường kính thân 22,3cm; 04 cây cau trong đó có 02 cây đã cho thu hoạch; 02 cây
gỗ tạp; Cây măng vầu diện tích 240m
2
. Theo kết quả định giá, tổng giá trị đất và
tài sản trên đất là 124.145.500đ, trong đó giá trị 400m
2
đất ở là 80.000.000đ; giá
trị 545,3m
2
đất trồng cây lâu năm là 29.991.500đ; giá trị tài sản trên đất gồm cây
cối có giá là 14.154.000đ.
Tại phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận công khai chứng cứ, phía
nguyên đơn xác định lại yêu cầu khởi kiện là yêu cầu bị đơn trả lại 826m
2
đất tại
xóm Đ, xã T, huyện L, tỉnh Hòa Bình; không yêu cầu bồi thường thiệt hại.
Tại phiên tòa ngày 31/7/2024: nguyên đơn giữ yêu cầu khởi kiện yêu cầu
bị đơn trả lại 826m
2
đất tại xóm Đ, xã T, huyện L, tỉnh Hòa Bình; đề nghị cơ quan
chức năng có thẩm quyền thu hồi lại Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đã cấp
cho ông Đặng Văn T1 đối với thửa đất nêu trên. Người quyền lợi, nghĩa vụ liên
quan là ông Đặng Văn C đồng ý trả lại đất cho bà Bùi Thị T và yêu cầu ông Đặng
Văn T1 bồi thường cho mình theo quy định của pháp luật. Ông Đặng Văn C không
đồng ý với kết quả định giá tài sản cho rằng mức giá thấp không tương xứng
giá trị thửa đất. Ông C cũng khẳng định mình giao dịch chuyển nhượng với
ông Đặng Văn T1 và có viết giấy chuyển nhượng nhưng chưa giao nộp cho Toà
án. Ông Đặng Văn T1 yêu cầu tạm ngừng phiên toà để ông lựa chọn tổ chức thẩm
định giá và giao nộp chứng cứ giao dịch chuyển nhượng. Đại diện Viện kiểm sát
cũng đề nghị Hội đồng xét xtạm ngừng phiên toà để đương sthu thập thêm
chứng cứ. Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu và ra quyết định tạm ngừng phiên
toà đến ngày 30/8/2024.
Tại phiên tòa ngày 30/8/2024: nguyên đơn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện
đã trình bày tại phiên toà ngày 31/7/2024. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan
ông Đặng Văn C giao nộp được một giấy viết tay với nội dung ông Đặng
Văn T1 chuyển nhượng cho ông Đặng Văn C đất với giá 2.000.000đ. Ông C không
cung cấp được thông tin về tổ chức định giá; không cung cấp được kết quả thẩm
định giá.
Phía đại diện Viện kiểm sát nhận định về tố tụng: Thẩm phán, Thư ký Tòa
án đã thực hiện đúng các quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự khi giải quyết vụ
án từ khi thụ lý vụ án đến khi xét xử. Hội đồng xét xử đã tuân thủ đầy đủ các quy
định của Bộ luật Tố tụng dân sự về phiên tòa thẩm. Đối với các đương sự đã
thực hiện đúng các quyền, nghĩa vụ của mình theo quy định của pháp luật tố tụng.
Tại phiên thôm nay, ông Đặng Văn C không đưa ra được tổ chức thẩm định
giá khác, chỉ đưa ra được chứng cứ chứng minh giao dịch chuyển nợng giữa
ông và ông Đặng Văn T1 do vậy đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ kết quả định giá
có trong hồ sơ để xem xét. Về nội dung vụ án: thấy rằng đất tranh chấp có nguồn
gốc do bố bà T ông Bùi Văn B khai phá được cấp đất. Các thủ tục chuyển
nhượng đất giữa Bùi Thị T2 ông Đặng Văn L, Đặng Văn T1 không đúng
quy định pháp luật, không có giao dịch nên cần chấp nhận yêu cầu khởi kiện của
6
Bùi Thị T; buộc ông Đặng Văn C, Đặng Văn T1 trả lại cho bà Bùi Thị T diện
tích thực tế đất tranh chấp tại xóm Đ, T, huyện L, tỉnh Hòa Bình. Trong các
giao dịch này, ông Đặng Văn C người thứ ba ngay tình nên cần buộc ông Đặng
Văn T1 bồi thường toàn bộ thiệt hại cho ông Đặng Văn C theo quy định của pháp
luật.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Sau khi nghiên cứu các tài liệu trong hồ vụ án đã được thẩm tra tại
phiên tòa và căn cứ kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Về tố tụng: Quan hệ pháp luật trong vụ án được xác định là tranh chấp
quyền sdụng đất. Các đương sự đều nơi trú tại huyện L, tỉnh Hòa Bình
nên Tòa án nhân dân huyện Lạc Sơn thụ lý giải quyết là đúng quy định tại khoản
9 Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng
dân sự. Do bị đơn đã được triệu hợp lệ đến lần thhai mà vẫn vắng mặt không có
do, nguyên đơn đề nghị không tiến hành hoà giải nên vụ án không tiến hành
hòa giải được theo quy định tại khoản 1, khoản 4 Điều 207 của Bộ luật Tố tụng
dân sự. Bị đơn đã được Tòa án triệu tập đến phiên tòa lần thứ nhất nhưng vắng
mặt nên Tòa án hoãn phiên tòa là phù hợp quy định tại khoản 1 Điều 227 của Bộ
luật Tố tụng dân sự. Bị đơn đã được Tòa án triệu tập đến phiên tòa lần thứ hai
nhưng vẫn vắng mặt nên Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt bị đơn theo quy định
tại điểm b, khoản 2 Điều 227 của Bộ luật Tố tụng dân sự. Việc yêu cầu của đương
sự, của Kiểm sát viên về việc tạm ngừng phiên toà là chính đáng, cần thiết cho
việc xem xét vụ án một cách khách quan, toàn diện nên việc quyết định tạm ngừng
phiên toà là phù hợp quy định tại Điều 259 của Bộ luật Tố tụng dân sự.
[2] Về pháp luật áp dụng: Do các giao dịch liên quan phát sinh năm 1997
đến năm 2002 nên được áp dụng theo các quy định của Luật Đất đai 1993 và Bộ
luật Dân sự năm 1995.
[3] Về nội dung vụ án: Đối với nguồn gốc thửa đất tranh chấp, các bên
đương sự, người làm chứng, chính quyền địa phương đều xác nhận do bốBùi
Thị T là cụ Bùi Văn B khai phá và đã được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng
đất năm 1991. Năm 1996, cụ Bùi Văn B chết không để lại di chúc. Thực tế đất
sử dụng do Bùi Thị T được các chị em thuộc hàng thừa kế thứ nhất giao
quản lý, sử dụng. Năm 1997, bà Bùi Thị T2 chị cả có vay tiền ông Đặng Văn L
không trả được nên ông L đề nghị T2 bán lại ½ diện tích đất của cụ B. Phía
T2, T3 và T không công nhận thỏa thuận mua bán đất. Thỏa thuận chuyển
nhượng quyền sử dụng đất không lập thành văn bản. Phía ông L cũng xác nhận
không tự mình làm thủ tục chuyển nhượng quyền sử dụng đất mà nhờ cán bộ địa
chính đi làm thủ tục, ông chnộp tiền. Ông T1 cũng xác nhận mình không tham
gia giao dịch chuyển nhượng quyền sử dụng đất, không bất kỳ văn bản nào
do ông L nhờ người thực hiện. Các quan quản đất đai cũng không lưu giữ
hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất. Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất
tên ông Đặng Văn T1 ghi ngày cấp 20/12/2000 nhưng phần ghi biến động trong
Giấy chứng nhận tên cụ Bùi Văn B ghi ngày 14/7/2002 mới tách cho ông Đặng
Văn T1. Hơn nữa, cụ Bùi Văn B chết năm 1996 mà việc tách quyền sử dụng đất
7
diễn ra năm 2000 trong khi ông Đặng Văn T1 không phải đối tượng thừa kế của
cụ B, cụ B chết không di chúc (không tặng cho). Theo quy định tại Điều 691
BLDS 1995 quy định có các hình thức chuyển quyền sử dụng đất chuyển đổi,
chuyển nhượng, cho thuê, thế chấp và thừa kế quyền sử dụng đất. Như vậy, việc
T2, T3 T không chuyển nhượng, ông T1 không biết, không ký bất kỳ giấy
tờ gì; giao dịch không lập thành hợp đồng (không có hợp đồng) nên việc chuyển
quyền sử dụng đất không thông qua chuyển đổi, chuyển nhượng, không
tặng cho, không phải thừa kế thì không phát sinh quyền sử dụng đất. Vì thế, việc
tách Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho ông Đặng Văn T1 là không có căn
cứ pháp luật. Việc này đã được đại diện UBND huyện L khẳng định tại phiên hòa
giải của TAND tỉnh Hòa Bình. Mặt khác, trường hợp trên thực tế nếu giao dịch
chuyển nhượng giữa bà Bùi Thị T2 các ông Đặng Văn L, Đặng Văn T1 thì giao
dịch cũng vô hiệu do bà Bùi Thị T2 chỉ là một trong các đồng thừa kế, không
quyền tự mình chuyển nhượng tài sản là di sản thửa kế chưa chia không có sự
đồng ý của các đồng thừa kế cùng hàng khác Bùi Thị T3 Bùi Thị T.
vậy, yêu cầu của i Thị T về việc đòi lại quyền sử dụng đất yêu cầu thu
hồi giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đã cấp cho ông Đặng Văn T1 là căn cứ
chấp nhận.
Đối với yêu cầu đòi bồi thường của ông Đặng Văn C: giữa ông C ông
T1 giao dịch chuyển nhượng quyền sử dụng đất nhưng chưa làm thủ tục sang
tên; chưa nộp thuế chuyển nhượng quyền sử dụng đất. Mặc giao dịch vi
phạm về mặt hình thức nhưng ông T1 thừa nhận đã nhận tiền và ông C thực tế đã
sử dụng đất từ năm 2002 đến nay. Việc ông C nhận chuyển nhượng là ngay tình
do thấy ông T1 Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và trên thực tế ông C đã
sử dụng đất từ khi nhận chuyển nhượng đến nay. Do ông T1 tách Giấy chứng
nhận quyền sdụng đất từ cụ B không có căn cứ nên giao dịch giữa ông C và ông
T1 vô hiệu; ông C đã nhận trả lại đất cho ông T1 để ông T1 trả lại cho gia đình
T, ông T1 phải trả lại số tiền chuyển nhượng cho ông C 2.000.000đ. Xét ông
Đặng Văn T1 người có lỗi toàn btrong việc để hợp đồng chuyển nhượng giữa
ông Đặng Văn T7 ông Đặng Văn C hiệu nên ông ông Đặng Văn T1 phải
bồi thường toàn bộ thiệt hại cho ông Đặng Văn C. Giá trị thiệt hại được xác định
là giá trị thửa đất hiện tại và tài sản trên đất do ông C tạo lập là 124.145.500đ trừ
đi 2.000.000đ tiền chuyển nhượng đất (giá trị thửa đất tại thời điểm giao dịch),
còn 122.145.500đ. Ông C được quyền thu hoạch các tài sản cây cối trên đất nên
số thiệt hại ông T1 còn phải trả cho ông C 122.145.500đ trừ đi giá trsố cây cối
14.154.000đ còn lại là 107.991.500đ. Việc ông Đặng Văn C cho rằng giá trị nêu
trên thấp nhưng trong quá trình giải quyết, xét xử vụ án, ông C không đưa ra
được tổ chức thẩm định giá theo yêu cầu của chính mình; không chứng minh được
giá trị khác của thửa đất nên Hội đồng xét xử căn cứ vào kết quđịnh giá của Hội
đồng định giá tài sản để làm căn cứ xác định giá.
[4] Đối với Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất mang tên ông Đặng Văn
T1, do không có căn cứ chuyển quyền sử dụng đất nên đề nghị Ủy ban nhân dân
huyện L là cơ quan ban hành thu hồi Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đã cấp
cho ông Đặng Văn T1.
8
[5] Về án phí: Nguyên đơn, người quyền lợi, nghĩa vụ liên quan được
chấp nhận yêu cầu đối với bị đơn nên bị đơn phải chịu án phí theo quy định của
pháp luật. Đối với yêu cầu của nguyên đơn, Tòa án chỉ xác định quyền sử dụng
đất thuộc vai nên án phí được xác định theo mức án phí không giá ngạch. Đối
với yêu cầu của người quyền lợi, nghĩa vụ liên quan được chấp nhận tbị đơn
phải chịu án phí có giá ngạch tương ứng với mức phải bồi thường.
[6] Về chi phí tố tụng: Chi phí tố tụng gồm tiền chi phí đo đạc hết
2.655.000đ do bà Bùi Thị T nhận chịu và đã nộp xong.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH:
Áp dụng Khoản 6 Điều 73 Luật Đất đai năm 1993; khoản 5 Điều 166, điểm
b khoản 2 Điều 203 Luật Đất đai 2013; khoản 4 Điều 131; khoản 2 Điều 146,
khoản 3 Điều 690, 691, 692, 696 Bộ luật Dân sự 1995; Điều 166 Bộ luật Dân sự
2015.
Căn cứ vào khoản 9 Điều 26; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều
39; khoản 1 Điều 147; khoản 1 Điều 157; Điều 271, 273 của Bộ luật Tố tụng dân
sự; khoản 1, khoản 2 Điều 26; điểm a, khoản 2, điểm b khoản 3 Điều 27 Nghị
quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của y ban Thường vụ Quốc
hội:
Tuyên xử:
1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Bùi Thị T đối với ông Đặng Văn
T1: Buộc ông Đặng Văn T1, ông Đặng Văn C nghĩa vụ trả lại cho bà Bùi Thị
T, i Thị T2, Bùi Thị T3 diện tích đất thực tế là 945,3m
2
tại xóm Đ, xã T, huyện
L, tỉnh Hòa Bình theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất mang tên cụ Bùi Văn
B số A653414, cấp ngày 05/7/1991. Tứ cận: Phía Đông Bắc giáp đường bêtông
nội xóm; phía Đông Nam giáp đất hộ ông Bùi Văn T6; phía Tây Bắc giáp đất bà
Bùi Thị T; phía Tây Nam giáp đất hộ ông Hồ Ngọ N. Có các mốc toạ độ: Mốc 1:
X: 2258517.39; Y: 446934.64. Mốc 2: X: 228506.26; Y: 446947.07. Mốc 3: X:
2258465.54; Y: 446907.54. Mốc 4: X: 2258474.81. Y: 446894.17. Ranh giới thửa
đất là đường nối các mốc giới nêu trên. Đối với phần diện tích đất biến động tăng
so với Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đã cấp cho cụ Bùi Văn B số A653414,
cấp ngày 05/7/1991, người thừa kế hợp pháp của cụ Bùi Văn B có quyền đề nghị
cơ quan quản lý đất đai có thẩm quyền điều chỉnh cho phù hợp diện tích đất thực
tế.
2. Buộc ông Đặng Văn C thu hoạch, chặt bỏ những cây là tài sản trên đất
tranh chấp để trả lại đất cho Bùi Thị T, Bùi Thị T2 và Bùi Thị T3 sau khi án
có hiệu lực pháp luật.
3. Kiến nghị UBND huyện L, tỉnh Hòa Bình thu hồi Giấy chứng nhận quyền
sử dụng đất Giấy chứng nhận số R581518, cấp ngày 20/12/2000 mang tên ông
Đặng Văn T1.
9
4. Buộc ông Đặng Văn T1 phải thanh toán trả cho ông Đặng Văn C tiền
chuyển nhượng đất 2.000.00tiền bồi thường thiệt hại do hợp đồng vô hiệu
số tiền là 107.991.500đ, tổng cộng là 109.991.500 (Một trăm linh chín triệu, chín
trăm chín mươi mốt nghìn, năm trăm) đồng.
5. Án phí: Buộc ông Đặng Văn T1 phải chịu 300.000 (Ba trăm nghìn) đồng
án phí dân sự sơ thẩm đối với yêu cầu của bà Bùi Thị T được chấp nhận; 5.499.575
(Năm triệu, bốn trăm chín mươi chín nghìn, năm trăm bảy mươi lăm) đồng án phí
dân sự thẩm đối với yêu cầu của ông Đặng Văn T1 được chấp nhận. Bùi
Thị T được nhận lại 300.000 (Ba trăm nghìn) đồng tiền tạm ứng án phí đã nộp
theo Biên lai số 0004376 ngày 29/6/2022 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện
Lạc Sơn, tỉnh Hoà Bình.
6. Chi phí tố tụng: Chi phí đo đạc thửa đất hết 2.655.000đ. Bùi Thị T
nhận chịu các chi phí đo đạc và đã nộp xong.
Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành
án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự
quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án
hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a 9 Luật Thi
hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30
Luật Thi hành án dân sự.
Các đương sự có mặt tại phiên toà quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày
kể từ ngày tuyên án. Các đương sự vắng mặt tại phiên toà quyền kháng cáo
trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc từ ngày bản án được niêm
yết công khai theo quy định của pháp luật.
Nơi nhận:
- TAND tỉnh Hòa Bình;
- VKSND huyện Lạc Sơn;
- Các đương sự;
- Chi cục THADS huyện Lạc Sơn;
- Lưu hồ sơ vụ án.
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ SƠ THẨM
THẨM PHÁN - CHỦ TỌA PHIÊN TOÀ
(Đã ký)
Phạm Cao Sơn
Tải về
Bản án số 05/2024/DS-ST Bản án số 05/2024/DS-ST

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án số 05/2024/DS-ST Bản án số 05/2024/DS-ST

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án/ Quyết định cùng đối tượng

Bản án cùng lĩnh vực

Bản án mới nhất