Bản án số 03/2022/KDTM-PT ngày 27/01/2022 của TAND TP. Hải Phòng về tranh chấp hợp đồng cho thuê tàu trần

  • Thuộc tính
  • Nội dung
  • VB gốc
  • VB liên quan
  • Lược đồ
  • Đính chính
  • Án lệ
  • BA/QĐ cùng nội dung
  • Tải về
Tải văn bản
Báo lỗi
  • Gửi liên kết tới Email
  • Chia sẻ:
  • Chế độ xem: Sáng | Tối
  • Thay đổi cỡ chữ:
    17

Thuộc tính Bản án 03/2022/KDTM-PT

Tên Bản án: Bản án số 03/2022/KDTM-PT ngày 27/01/2022 của TAND TP. Hải Phòng về tranh chấp hợp đồng cho thuê tàu trần
Quan hệ pháp luật: Tranh chấp về thuê, cho thuê, thuê mua
Cấp xét xử: Phúc thẩm
Tòa án xét xử: TAND TP. Hải Phòng
Số hiệu: 03/2022/KDTM-PT
Loại văn bản: Bản án
Ngày ban hành: 27/01/2022
Lĩnh vực: Kinh doanh thương mại
Áp dụng án lệ:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Đính chính:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Thông tin về vụ/việc: Công ty CTN khởi kiện công ty TP về tranh chấp hợp đồng thuê tàu trần
Tóm tắt Bản án

Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!

Tải văn bản

TOÀ ÁN NHÂN DÂN
THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG
Bản án số: 03/2022/KDTM-PT
Ngày 27-01-2022
V/v tranh chấp về Hợp đồng
cho thuê tàu trần
CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG
- Với thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ toạ phiên toà: Bà Vũ Thị Thu Hà
Các Thẩm phán: Ông Nguyễn Văn Dương
Ông Nguyễn Xuân Tuyến
- Thư phiên toà: Phạm Thị Mai Phương-Thư Toà án nhân dân
thành phố Hải Phòng.
- Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân thành phố Hải Phòng tham gia phiên
tòa: Ngô Kiều Dâng - Kiểm sát viên.
Ngày 27 tháng 01 năm 2022, tại trụ s Toà án nhân dân thành phố Hải
Phòng, xét xử phúc thẩm công khai vụ án thụ lý số 22/2021/TLPT-KDTM ngày 18
tháng 10 năm 2021 về việc tranh chấp hợp đồng cho thuê tàu trần.
Do Bản án kinh doanh thương mại thẩm số 06/2021/KDTM-ST ngày 20
tháng 7 năm 2021 của Tòa án nhân dân quận HA, thành phố Hải Phòng bị kháng
cáo.
Theo Quyết định đưa ván ra xét xử phúc thẩm số 160/2021/QĐ-PT ngày
17 tháng 12 năm 2021 Quyết định hoãn phiên tòa số 01/2022/QĐ-PT ngày 17
tháng 01 năm 2022; giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Công ty Cổ phần CTN; địa chỉ trụ sở: Tầng 12 tòa nhà T, 180
- 192 NCT, phường NTB, quận M, thành phố Hồ Chí Minh;
Người đại diện hợp pháp của nguyên đơn: Ông Lưu Khang A; cư trú tại: Số
86/29/124 LT, phường ĐH, quận LC, thành phố Hải Phòng. (Giấy ủy quyền số
448/2020/UQ-V ngày 04/11/2020); có mặt.
- Bị đơn: Công ty TNHH Sản xuất Thương mại Dịch vTP; địa chỉ trụ
sở: Số 27/14/162 đường TL, phường ĐL, quận HA, thành phố Hải Phòng;
Người đại diện hợp pháp của bị đơn: Ông Phạm Văn T, chức vụ: Giám đốc,
người đại diện theo pháp luật; có mặt
2
- Người quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Ngân hàng TMCP H; địa chỉ tr
sở: Số 54A NCT, phường LT, quận ĐĐ, thành phố Hà Nội.
Người đại diện hợp pháp của người quyền lợi, nghĩa vụ liên quan : Ông
Hoàng Mạnh L; chức vụ: Cán bộ Ngân hàng (đại diện theo y quyền theo văn
bản ủy quyền ngày 22/3/2021); vắng mặt
- Người kháng cáo: Nguyên đơn là Công ty Cổ phần CTN; bị đơn là Công ty
TNHH Sản xuất Thương mại và Dịch vụ TP.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Tóm tắt nội dung vụ án, quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm, nội dung kháng
cáo:
Tại đơn khởi kiện, bản tự khai và tại phiên tòa thẩm, người đại diện hợp
pháp của nguyên đơn trình bày:
Ngân hàng TMCP H (viết tắt là M) đơn vị sở hữu tàu biển HP 102 theo
Giấy chứng nhận đăng tàu biển số VN-3910-VT do quan đăng tàu biển
thuyền viên khu vực Hải Phòng cấp ngày 05/11/2015 tàu HP 107 theo Giấy
chứng nhận đăng tàu biển số VN-3911-VT do quan đăng tàu biển
thuyền viên khu vực Hải Phòng cấp ngày 05/11/2015. Ngày 09/7/2018, M và Công
ty Cổ phần CTN (viết tắt là V) ký hợp đồng thuê tàu trân, theo đó M cho V thuê cả
đội tàu gồm 35 con tàu trong đó tàu HP 102 tàu HP 107. Căn cứ vào Hợp
đồng thuê tàu trần hai bên đã ký thì V có quyền cho bên thứ 3 thuê lại tàu.
Ngày 18/8/2018, V Công ty TNHH Sản xuất Thương mại Dịch vụ TP
(viết tắt là Công ty TP) đã Hợp đồng thuê tàu trần số 01/2015/V-TP (viết tắt
Hợp đồng 01); nội dung: V cho Công ty TP thuê u HP 107, cụ thể: Tên tàu: HP
107, loại tàu: Tàu chở hàng tổng hợp, quốc tịch: Việt Nam, hô hiệu/số IMO:
3WGM9/9560742, giá thuê: 160.000.000 đồng/tháng, thời hạn thuê: 36 tháng kể từ
ngày 18/8/2018, kỳ thanh toán hình thức thanh toán: Từ ngày mùng 10 đến
ngày 15 hàng tháng, đặt cọc: 320.000.000 đồng (chia làm 2 đợt: Đợt 1 đặt cọc
160.000.000 đồng trong vòng 5 ngày kể từ ngày hợp đồng; đợt 2 đặt cọc
160.000.000 đồng trong ng 30 ngày sau lần đặt cọc đầu tiên). Thực hiện hợp
đồng, ng ty TP đã đặt cọc đợt 1 số tiền 160.000.000 đồng cho V V đã bàn
giao tàu HP 107 đầy đủ hồ pháp của tàu cho ng ty TP. V đã thực hiện
nghiêm túc các thỏa thuận trong Hợp đồng 01.
Ngày 30/10/2018, V và Công ty TP đã ký Hợp đồng thuê tàu trần số
02/2018/V-TP (viết tắt Hợp đồng 02). Nội dung: V cho Công ty TP thuê tàu HP
102, cụ thể: Tên tàu: HP 102, loại tàu: Tàu chở hàng tổng hợp, quốc tịch: Việt
Nam, hô hiệu/số IMO: WNF8/9368807; thời hạn thuê: 36 tháng kể từ ngày
28/11/2018 (dự kiến ngày bàn giao tàu). Đồng thời thỏa thuận về k thanh toán
phương thức thanh toán, đặt cọc giống như Hợp đồng số 01. Thực hiện hợp đồng,
Công ty TP đã đặt cọc đợt 1 số tiền 160.000.000 đồng cho V V đã bàn giao tàu
3
HP 102 đầy đủ hồ sơ pháp của tàu cho Công ty TP. V đã thực hiện nghiêm
túc các thỏa thuận trong Hợp đồng số 02.
Tính đến nay, Công ty TP không thực hiện việc đặt cọc lần 2 đối với thỏa
thuận trong 2 hợp đồng hai bên đã kết. Công ty TP đã liên tục chậm/không
thanh toán tiền thuê tàu cho Công ty CTN. Đặc biệt, từ tháng 7, 8/2019 đến nay,
Công ty TP đã đưa ra nhiều do để thanh toán thiếu hoặc không thanh toán tiền
thuê tàu cho V. Tại Biên bản làm việc ngày 06/3/2020, Công ty CTN yêu cầu Công
ty TP phải thanh toán tiền ng nợ. Biên bản làm việc ngày 29/4/2020, V yêu cầu
Công ty TP phải thực hiện cam kết trả nợ ngày 06/3/2020, đồng thời thanh toán
tiền công nợ phát sinh. Tại Công văn số 298/CV/2020/TCKT ngày 25/8/2020, V
yêu cầu Công ty TP phải thanh toán công nợ chậm nhất trước ngày 31/8/2020. Sau
đó, V nhiều lần gửi n bản yêu cầu Công ty TP thanh toán tiền công nợ nhưng
Công ty TP không thực hiện nghĩa vụ thanh toán quy định tại Điều 5 Hợp đồng.
Ngày 22/9/2020, V đã gửi Công văn số 340A/2020/CV-V gửi Công ty TP
yêu cầu thanh toán công nợ hoàn trả tàu HP 107, tàu HP 102 trong vòng 15
ngày kể từ ngày 03/10/2020 (tức là chậm nhất là ngày 18/10/2020), tuy nhiên Công
ty TP không thanh toán công nợ và không hoàn trả tàu cho V.
Tính đến ngày 29/10/2020, Công ty TP phải thanh toán cho V các khoản
tiền: Đối với tàu HP 107 2.647.429.911 đồng, cụ thể: Tiền thuê tàu
2.327.207.372 đồng, tiền lãi do chậm thanh toán tiền thuê tàu 342.868.018 đồng,
tiền lãi do chậm chuyển tiền đặt cọc 49.354.521 đồng, tiền phạt do chậm trả tàu
88.000.000 đồng; đối với tàu HP 102 2.783.155.069 đồng, tiền lãi do chậm
thanh toán tiền thuê tàu 290.830.685 đồng, tiền lãi do chậm chuyển tiền đặt cọc
44.324.384 đồng, tiền phạt do chậm trả tàu 88.000.000 đồng; tổng số tiền
5.750.548.980 đồng. V xác nhận Công ty TP đã đặt cọc hai con tàu là 320.000.000
đồng, số tiền này V đồng ý trừ vào công nợ của Công ty TP. Cụ thể: 5.750.548.980
- 320.000.000 = 5.430.5784.980 đồng.
Theo yêu cầu khởi kiện, Công ty CTN yêu cầu Công ty TP:
1. Ngay lập tức hoàn trả tàu HP 107 và HP 102 cho Công ty CTN;
2. Thanh toán công nợ cho V các khoản tiền: Tổng công nđối với Hợp
đồng số 01/2018/V-TP ngày 18/8/2018 Hợp đồng số 02/2018/V-TP ngày
30/10/2018, tạm tính đến ngày 29/10/2020 là 5.430.584.980 đồng;
3. Yêu cầu Công ty TP phải tiếp tục trả tiền thuê tàu, tiền lãi do chậm thực
hiện việc thanh toán tiền thuê tàu, tiền phạt cho những ngày chậm hoàn trả tàu, bồi
thường thiệt hại phát sinh kể từ ngày 29/10/2020 cho đến khi Công ty TP thực hiện
xong việc thanh toán công nợ và bàn giao tàu HP 102 và HP 107 cho V.
Tại phiên tòa thẩm, nguyên đơn thay đổi một phần yêu cầu khởi kiện, c
thể: Rút yêu cầu khởi kiện về yêu cầu bị đơn phải hoàn trả tàu HP 102 HP 107.
Nguyên đơn thay đổi yêu cầu về mức lãi phạt chậm trả tàu 8% tin thuê tàu cho
mỗi ngày chậm hoàn trả tàu nên số tiền phạt chậm hoàn trả tàu tính đến ngày
14/6/2021: Đối với tàu HP 107, HP 102 mỗi tàu 240 ngày 102.400.000 đồng,
4
tổng là 204.800.000 đồng. Về số tiền đặt cọc 320.000.000 đồng nguyên đơn đồng ý
khấu trừ vào công nợ cho bđơn. Tính đến ngày 20/7/2021, bị đơn còn nợ nguyên
đơn số tiền là 8.477.717.044, cụ thể như sau:
Đối với tàu HP 102: Tiền thuê tàu 3.713.333.333 đồng, tiền lãi chậm
thanh toán tiền thuê tàu 602.583.288 đồng, tiền lãi do chậm chuyển tiền đặt cọc
57.816.986 đồng, tiền phạt do chậm hoàn trả tàu 102.400.000 đồng. Trừ đi
160.000.000 đồng (tiền đã đặt cọc) còn lại là 4.316.133.607 đồng.
Đối với tàu HP 107: Tiền thuê tàu 3.520.540.705 đồng, tiền lãi chậm
thanh toán tiền thuê tàu 635.795.609 đồng, tiền lãi do chậm chuyển tiền đặt cọc
62.847.123 đồng; tiền phạt do chậm hoàn trả tàu 102.400.000 đồng. Trừ đi
160.000.000 đồng (tiền đã đặt cọc), còn lại là 4.161.583.437 đồng.
Quá trình giải quyết vụ án tại phiên tòa, người đại diện hợp pháp của bị
đơn trình bày:
Năm 2016, Công ty TP thuê tàu HP 102 HP 107 của MSB, khi nhận tàu
hầu như hư hỏng toàn bộ và Công ty phải bỏ tiền ra sửa chữa. Tháng 2/2018, MSB
lấy lại tàu cho ng ty CTN thuê. Do vẫn nhu cầu sử dụng nên Công ty TP
ký tiếp hợp đồng thuê lại 02 con tàu trên với V. Việc ký kết và thực hiện hợp đồng
thuê tàu như nguyên đơn trình bày là đúng. Năm 2018, Công ty TP vẫn thanh toán
đầy đủ tiền thuê tàu. Tháng 7/2019, tàu HP 107 lên đà sửa chữa, tháng 4/2020, u
HP 102 lên đà sửa chữa. Do phải bỏ chi phí sửa chữa tàu nên Công ty TP đã chủ
động đề nghị được chậm tiền thuê tàu V không hỗ trợ tiền sửa chữa tàu, vẫn
tính tiền thuê tàu với Công ty TP. Đồng thời, V lấy toàn bộ khoản tiền bảo hiểm
khi sửa chữa tàu HP 107 không hỗ trợ cho Công ty TP. Sau đó, khoản tiền bảo
hiểm này đã được hai bên thống nhất khấu trừ vào tiền thuê. Tổng chi phí sửa chữa
hai con tàu hơn 4 tỷ đồng. Do tàu không hoạt động được thời gian dài, gặp tình
trạng dịch bên nên tình hình kinh tế của CÔng ty TP rơi vào khó khăn, không
khả năng chi trả nên tháng 11/2020, Công ty TP làm công văn xin trả tàu nhưng V
không nhận bắt TP phải thuê ban giám định thứ ba giám định tàu sau đó mới
nhận. Về vấn đề này, Công ty TP không đồng ý khi nhận u từ V thì không có
bất kỳ biên bản bàn giao chi tiết từng hạng mục cũng như giám định của bên thứ 3,
chính vậy hai bên không thống nhất được nên đã không tiến hành bàn giao tàu
như dự kiến được. Ngày 09/12/2020, Công ty TP Thông báo số 912/TP vviệc
trả tàu HP 107 dự kiến thời gian giao tàu là 09/01/2021 tại khu neo đậu Cần Thơ.
Ngày 28/12/2020, Công ty TP gửi Thông báo số 913/TP về việc thông báo
trả tàu HP 102 tàu HP 107 với kế hoạch trả tàu dự kiến ngày 09/01/2021 nhưng
do thời tiết không thuận lợi thay đổi thời gian trả tàu dự kiến ngày 30/01/2021 tại
Khu neo đậu Cần Thơ. Ngày 26/01/2021, Công ty TP có gửi Mail cho V thông báo
trả tàu như sau: HP 102 trả tại Cần Thơ vào ngày 05/02/2021; HP 107 trả ngày
07/02/2021 tại Hải Phòng. Ngày 20/3/2021, Công ty TP Thông báo số 915/TP
gửi V đề nghị V nhận bàn giao 2 tàu HP 102 HP 107 như đã thỏa thuận mọi
chi phí phát sinh liên quan, tiền thuê tàu kể từ ngày 05/02/2021 đối với tàu HP 102
5
ngày 07/02/2021 đối với tàu HP 107, V phải hoàn toàn chịu trách nhiệm. Sau
nhiều lần đàm phán hai bên đã thống nhất được phương thức, thời gian và địa điểm
bàn giao tàu. Đến ngày 14/6/2021, TP đã bàn giao trả V tàu HP 102 và HP 107.
Bị đơn chấp nhận thanh toán tiền thuê tàu còn thiếu tính đến ngày
05/02/2021 đối với tàu HP 102 ngày 07/02/2021 đối với tàu HP 107 thời
điểm này, bđơn đã thông báo trả tàu. Tuy nhiên, V không nhận tàu nên bị đơn
vẫn đưa tàu vào khai thác sử dụng. Đồng thời V đã công văn gửi cho Cục Đăng
kiểm Việt Nam không cấp đăng kiểm cho tàu HP 102 để lưu hành. V đã lấy giấy
đăng kiểm không đưa cho Công ty TP để khai thác tàu. Việc tàu vẫn khai thác
là do đăng kiểm cũ của tàu vẫn được cộng trừ 3 tháng là đến tháng 8/2020. Sau đó,
Công ty TP điện thoại cho V xin lại giấy tcho u lưu hành nhưng V không
đưa. Quan điểm của bị đơn:
- Đối với tàu HP 102: Tiền thuê tàu tính t ngày 28/11/2018 đến ngày
05/02/2021 4.204.571.429 đồng; Công ty TP đã thanh toán đến tháng 7/2019
1.336.000.000 đồng, số nợ còn thiếu là 2.868.571.249 đồng.
- Đối với HP 107: Tiền thuê tàu tính từ ngày 19/8/2018 đến ngày 07/02/2021
4.747.096.775 đồng; Công ty TP đã thanh toán đến tháng 8/2019
2.059.889.403 đồng, số nợ còn thiếu là 2.687.207.372 đồng.
Đề nghị nguyên đơn xem xét lại toàn bộ các khoản tiền lãi đnghị miễn
toàn bộ tiền lãi cho Công ty TP.
Người có quyền lợi nghĩa vliên quan trong quá trình giải quyết vụ án
trình bày:
M đã cho V thuê hai con tàu HP 102 và HP 107 theo quy định của pháp luật.
Việc V cho Công ty TP thuê lại tàu phía Ngân hàng không có ý kiến gì. Đối với
yêu cầu khởi kiện của V, M đồng ý với nội dung đơn khởi kiện của nguyên đơn, đề
nghị a án xem xét, chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn. Ngân
hàng TMCP H đề nghị được vắng mặt trong toàn bộ quá trình giải quyết vụ án
phiên tòa xét xử sơ thẩm.
Quyết định của Tòa án cấp thẩm: Tại Bản án Kinh doanh thương mại
thẩm số 06/2021/KDTM-ST ngày 20/7/2021 của Tòa án nhân dân quận HA, thành
phố Hải Phòng đã: Căn cứ vào Điều 30, điểm b khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1
Điều 39, Điều 147, điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 1 Điều 244 Bộ luật Ttụng
dân sự; Điều 4, Điều 271, khoản 1 Điều 281, các Điều 300, 301, 306 Luật Thương
mại; các Điều 117, 119, 428 Bộ luật Dân sự; Điều 26 Nghị quyết số
326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy
định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Tuyên xử:
1. Đình chỉ giải quyết đối với yêu cầu của nguyên đơn buộc Công ty TNHH
Sản xuất Thương mại Dịch vụ TP phải trả cho Công ty Cổ phần CTN 02 con
6
tàu: HP 107, Hô hiệu/Số IMO: 3WGM9/9560742 và tàu HP 102, Hô hiệu/Số IMO:
WNF8/9368807 cùng toàn bộ vật tư, giấy tờ kèm theo (theo Biên bản bàn giao tàu:
HP 107” ngày 19/8/2018; HP 102 ngày 28/11/2018)
2. Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn buộc Công ty
TNHH Sản xuất Thương mại Dịch vụ TP phải trả cho Công ty Cổ phần CTN
tổng số tiền là 7.566.351.268 đồng; trong đó: Tiền thuê tàu 6.234.236.556 đồng;
tiền lãi chậm trả tiền thuê tàu 1.211.450.603 đồng; tiền lãi đối với chậm thực
hiện nghĩa vụ đặt cọc là 120.664.109 đồng.
3. Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn buộc bị đơn phải
thanh toán tiền phạt do chậm hoàn trả tàu là 204.800.000 đồng.
Kể từ ngày tiếp theo của ngày xét xử sơ thẩm cho đến khi thi hành án xong,
bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền thtàu còn phải thi
hành theo mức lãi suất các bên thỏa thuận trong Hợp đồng thuê tàu trần s
01/2018/V-TP ngày 18/8/2018 Hợp đồng thuê tàu trần số 02/2018/V-TP ngày
30/8/2018.
Ngoài ra bản án còn tuyên về án phí, lãi suất đối với khoản tiền chậm thi
hành án và quyền kháng cáo của các đương sự.
Nội dung kháng cáo của đương sự:
Sau khi xét xử thẩm, ngày 02/8/2021, Tòa án nhân dân quận HA đã nhận
được đơn kháng cáo của nguyên đơn và bị đơn:
- Đơn kháng cáo của nguyên đơn là Công ty Cổ phần CTN đề ngày
08/2/2021 với nội dung: Bản án thẩm nội dung không phù hợp quy định của
pháp luật làm ảnh hưởng đến quyền, lợi ích hợp pháp của nguyên đơn; cụ thể: Yêu
cầu Công ty TP phải thanh toán công nợ cho V tổng số tiền tạm tính đến ngày
20/7/2021 8.477.717.044 đồng (tổng công nợ đối với Hợp đồng số 01/2018/V-
TP ngày 18/8/2018 4.161.583.437 đồng; tổng công nợ đối với Hợp đồng số
02/2018/V-TP ngày 30/10/2018 4.316.133.607 đồng) yêu cầu Công ty TP
phải tiếp tục trả tiền lãi do chậm thực hiện việc thanh toán tiền thuê tàu theo c
Hợp đồng trên, bồi thường những thiệt hại phát sinh kể từ ngày 20/7/2021 cho đến
khi Công ty TP thực hiện xong việc thanh toán công nợ cho V.
- Đơn kháng cáo của bị đơn Công ty TNHH sản xuất thương mại dịch
vụ TP đề ngày 08/2/2021 với nội dung: Về khoản tiền thuê tàu còn thiếu, ng ty
TP chỉ chấp nhận thanh toán tiền thuê tàu HP 102 đến ngày 05/02/2021 tàu HP
107 đến ngày 07/02/2021. Vkhoản tiền lãi phạt chậm thanh toán, Công ty TP đã
bỏ chi phí lên đà của 02 con tàu là 4 tỷ đồng nhưng không nhận được sự hỗ trợ từ
V đồng thời do tình hình dịch bệnh kéo dài, chi phí khai thác tàu tăng, V đã
Công văn gửi Chi cục đăng kiểm đề nghị tạm dừng cấp giấy đăng kiểm cho tàu HP
không cung cấp giấy chứng nhận nộp phí IMO làm ảnh hưởng đến việc khai
thác tàu n đnghị xem xét, tính toán lại chi phí lãi phạt chậm trả. Về các khoản
7
chi phí trong thời gian tàu năm neo chờ ngày bàn giao tàu, Công ty TP đã Công
văn gửi V về thời gian, địa điểm bàn giao tàu nhưng không được V nhận bàn giao
nên Công ty TP phải thuê cầu cảng để tàu neo đậu và phải bỏ chi phí thuyền viên
trông coi tàu…với tổng số tiền là 3,6 tỷ đồng, đề nghị V phải thanh toán các khoản
chi phí trên cho Công ty TP.
Tại phiên tòa phúc thẩm:
Nguyên đơn rút một phần yêu cầu kháng cáo về yêu cầu trả tiền lãi do chậm
thực hiện việc thanh toán tiền thuê tàu bồi thường thiệt hại phát sinh. Nguyên
đơn chỉ còn yêu cầu kháng cáo đề nghị Tòa án xem xét về số tiền Công ty TP phải
thanh toán công nợ cho V tổng số tiền tạm tính đến ngày 20/7/2021
8.477.717.044 đồng.
Bị đơn vẫn giữ nguyên yêu cầu kháng cáo và các căn cứ tại đơn kháng cáo.
Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân thành phố Hải Phòng phát biểu ý kiến v
việc tuân theo pháp luật trong quá trình giải quyết vụ án ở giai đoạn phúc thẩm
phát biểu ý kiến về kháng cáo:
- Về việc tuân theo pháp luật tố tụng dân sự: Trong quá trình giải quyết vụ
án theo thủ tục phúc thẩm, Hội đồng t xử đã chấp hành đúng các quy định của
Bộ luật Tố tụng dân sự. Những người tham gia tố tụng đã thực hiện đúng các quy
định về quyền và nghĩa vụ của mình.
- Về quan điểm giải quyết vụ án:
Hợp đồng 01 hợp đồng 02 được ký kết giữa V Công ty TP bởi những
người có thẩm quyền, đầy đủ năng lực trách nhiệm dân sự, các bên tự nguyện, hình
thức nội dung hợp đồng không vi phạm điều cấm, không trái pháp luật trái
đạo đức hội. Do đó Hợp đồng thuê tàu trần số 01, 02 phát sinh hiệu lực. Quá
trình thực hiện hợp đồng Công ty TP vi phạm nghĩa vụ thanh toán tiền thuê tàu nên
V đã khởi kiện yêu cầu buộc bị đơn phải thanh toán tiền thuê tàu còn thiếu là có
sở chấp nhận.
Xét yêu cầu trả tiền thuê u của nguyên đơn: Sau khi nguyên đơn yêu cầu
trả tàu, bị đơn đã rất nhiều văn bản thông báo trả tàu, bị đơn đã cho tàu cập
cảng, đề nghị nguyên đơn nhận lại u HP 102 vào ngày 05/02/2021, tàu HP 107
vào ngày 07/02/2021. Do vậy bị đơn phải trả toàn bộ số tiền thuê tàu cho nguyên
đơn tính đến ngày 05/02/2021 đối với tàu HP 102, ngày 07/02/2021 đối với tàu HP
107. Sau đó, do nguyên đơn trì hoãn không nhận tàu, bị đơn vẫn tiếp tục đưa tàu
vào khai thác sử dụng để thu lợi nên bị đơn vẫn phải tiếp tục trả tiền thuê tàu cho
nguyên đơn. Tuy nhiên, do nguyên đơn cũng lỗi đã trì hoãn không nhận lại tàu,
ng văn gửi cho Cục đăng kiểm Việt Nam không cấp đăng kiểm cho tàu HP
102 để lưu hành, nhận giấy đăng kiểm không chuyển cho bị đơn, dẫn đến bị
đơn khó khăn trong việc khai thác tàu. Ngày 14/6/2021, bị đơn đã hoàn trả 02 tàu
cho nguyên đơn. Do vậy, cần xác định tiền thuê tàu đến ngày 05/02/2021 đối với
8
tàu HP 102 đến ngày 07/02/2021 đối với u HP 107 theo đúng số tiền thuê tàu
phải trả mỗi tháng là 160.000.000 đồng. Kể từ ngày 05/02/2021 và 07/02/2021 đến
ngày 14/6/2021 tính bằng ½ giá thuê tàu (80.000.000 đồng/tháng) do cả hai bên
đều lỗi. Theo phương pháp tính như trên, bị đơn phải trả số tiền thuê tàu tính
đến ngày 14/6/2021 đối với tàu HP 102 là 3.210.666.667 đồng; tàu HP 107
3.025.874.038 đồng. Tổng cộng số tiền thuê tàu là 6.236.540.705 đồng.
Về chậm trả tiền thuê tàu: Các bên thỏa thuận tính lãi chậm thanh toán
tiền thuê tàu tại Hợp đồng, tuy nhiên không áp dụng quy định tại Điều 306 Luật
thương mại, thỏa thuận theo lãi suất nợ quá hạn trung bình trên thị trường (lãi
suất của 3 ngân hàng Vietcombank, Vietinbank, Agribank tại thời điểm hiện tại)
thì lãi suất nợ quá hạn trung bình là 9,6%/năm (0,0263%/ngày). Xét thấy, việc tính
lãi suất chậm thanh toán theo lãi suất bản lợi hơn cho bị đơn nbản án
thẩm tính là căn cứ chấp nhận. Đối với tàu HP 102, tiền thuê tàu tính từ
06/02/2021 đến 14/6/2021 là: 04 tháng 08 ngày theo số tiền thuê 80.000.000
đồng/tháng; Đối với tàu HP 107, tiền thuê tàu tính từ 08/02/2021 đến 14/6/2021 là:
04 tháng 06 ngày với số tiền th 80.000.000 đồng. Từ đó, bị đơn phải thanh
toán cho nguyên đơn số tiền lãi chậm tr tiền thuê tàu HP 102 589.744.109
đồng; tàu HP 107 là 623.415.061 đồng. Tổng cộng là 1.213.159.171 đồng.
Về việc buộc bị đơn phải chịu lãi chậm trả tiền cọc: Điều 21 Hợp đồng quy
định chậm chuyển tiền đặt cọc thì tính lãi theo i suất 150% lãi suất bản của
NHNN nên chấp nhận tính theo lãi suất bản do thấp hơn theo quy định tại Điều
306 Luật thương mại lợi cho bị đơn. Tuy nhiên chỉ tính đến ngày giao tàu là
14/6/2021, chkhông tính đến ngày xét xử thẩm như bản án thẩm đã tính.
Như vậy, tiền lãi chậm trả tiền cọc của tàu HP 102 là 57.816.986 đồng; tàu HP 107
là 62.847.123 đồng. Tổng số tiền lãi chậm trả tiền cọc là 120.664.109 đồng.
Về yêu cầu trả tiền phạt do chậm hoàn trả u của nguyên đơn: Cấp thẩm
không chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn cơ sở. Tổng cộng stiền bị đơn
phải trả nguyên đơn là: 7.570.363.985 đồng, trong đó: Số tiền thuê tàu là
6.236.540.705 đồng; số tiền lãi chậm trả tiền th2 tàu 1.213.159.171 đồng; số
tiền lãi chậm trả tiền cọc là 120.664.109 đồng.
- Đối với yêu cầu kháng cáo của bị đơn về các khoản chi phí trong thời gian
tàu nằm neo chờ ngày bàn giao: Tại giai đoạn thẩm bị đơn không yêu cầu
phản tố nên yêu cầu kháng cáo của bị đơn vượt quá yêu cầu khởi kiện ban đầu
nên không xem xét.
Do đó, đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ khoản 2 Điều 308 Bộ luật Tố tụng
dân sự, sửa một phần bản án sơ thẩm, theo hướng:
1. Đình chỉ giải quyết đối với yêu cầu của nguyên đơn buộc Công ty TNHH
Sản xuất Thương mại và Dịch vụ TP phải trả cho Công ty CTN 02 con tàu: HP 107
tàu HP 102 cùng toàn bộ vật tư, giấy tờ kèm theo (theo Biên bản bàn giao tàu:
HP 107 ngày 19/8/2018; HP 102 ngày 28/11/2018).
9
2. Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn buộc Công ty
TNHH Sản xuất Thương mại và Dịch vụ TP phải trả cho Công ty CTN tổng số tiền
7.570.363.985 đồng, trong đó: tiền thuê tàu là 6.236.540.705 đồng, tiền lãi chậm
trả tiền thuê tàu là 1.213.159.171 đồng, tiền lãi đối với chậm thực hiện nghĩa vụ đặt
cọc là 120.664.109 đồng.
3. Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn buộc bị đơn phải
thanh toán tiền phạt do chậm hoàn trả tàu là 204.800.000 đồng.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Sau khi xem xét các tài liệu, chứng cứ trong hồ đã được xem xét tại
phiên tòa, kháng cáo của nguyên đơn, bị đơn, kết quả tranh tụng tại phiên tòa, ý
kiến của đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hải Phòng tham gia phiên tòa,
Hội đồng xét xử nhận định:
- Về tố tụng:
[1] Về thẩm quyền quan hệ pháp luật: Việc Tòa án cấp thẩm xác định
quan hệ tranh chấp giữa các đương sự tranh chấp về hợp đồng thuê tàu trần
thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân quận HA, thành phố Hải Phòng
theo khoản 1 Điều 30; điểm b khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39 của B
luật Tố tụng dân sự là có căn cứ và đúng quy định của pháp luật.
- Xét kháng cáo của nguyên đơn bị đơn về số tiền bị đơn phải thanh toán
cho nguyên đơn:
[2] Về việc ký kết Hợp đồng thuê tàu trần số 01/2015/V-TP và Hợp đồng thuê
tàu trần số 02/2018/V-TP: Hợp đồng 01 hợp đồng 02 được kết giữa V
Công ty TP bởi những người có thẩm quyền, đầy đủ năng lực trách nhiệm dân sự,
các bên tự nguyện, hình thức nội dung hợp đồng không vi phạm điều cấm,
không trái pháp luật và trái đạo đức xã hội. Do đó Hợp đồng thuê tàu trần số 01, 02
phát sinh hiệu lực.
[3] Về số tiền thuê tàu: Qtrình thực hiện hợp đồng Công ty TP vi phạm
nghĩa vụ thanh toán tiền thuê tàu nên V đã khởi kiện yêu cầu buộc bị đơn phải
thanh toán tiền thuê tàu còn thiếu sở chấp nhận. V giá thuê tàu, c bên
đều thng nht giá thuê theo Hợp đồng 160.000.000 đồng/tàu/tháng. Đối với số
tiền thuê tàu còn thiếu, nguyên đơn và bị đơn đều thừa nhận, Công ty TP đã liên
tục chậm thanh toán tiền thuê tàu đối với 02 tàu, cụ thể: Chậm thanh toán tiền thuê
tàu HP 102 từ tháng 7/2019, chậm thanh toán tiền thuê tàu HP 107 từ tháng
8/2019. Công ty V yêu cầu Công ty TP phải thanh toán tiền thuê còn thiếu đến
ngày bàn giao tàu, tuy nhiên Công ty TP chỉ đồng ý thanh toán tiền thuê đến ngày
05/2/2021 (đối với tàu HP 102) ngày 07/2/2021 (đối với tàu HP 107) do Công
ty TP đã có yêu cầu bàn giao tàu nhưng Công ty V không tiếp nhận tàu.
[4] Xét thấy, bđơn và nguyên đơn đã thống nhất việc Công ty TP phải thanh
toán tiền thuê tàu HP 102 từ tháng 7/2019 đến ngày 05/02/2021 (số tiền:
10
120.000.000 + 18 tháng 5 ngày x 160.000.000 đồng/tháng = 3.026.666.667 đồng)
và tiền thuê tàu HP 107 từ tháng 8/2019 đến ngày 07/2/2021 (số tiền: 87.207.372 +
17 tháng 7 ngày x 160.000.000 đồng/tháng = 2.847.207.372 đồng). Số tiền Công ty
TP còn thiếu tính đến ngày Công ty TP yêu cầu V nhận tàu nTòa án cấp
thẩm xác định là có căn cứ, phù hợp với thỏa thuận của các bên.
[5] Sau khi yêu cầu bàn giao tàu đến thời điểm bàn giao tàu (ngày
14/6/2021), Công ty TP mặc dù đã yêu cầu V nhận bàn giao tàu nhưng Công ty TP
vẫn khai thác, sử dụng 02 con tàu để vận chuyển hàng hóa trong quá trình đợi bàn
giao, thể hiện tại các Giấy phép rời cảng của Cảng vụ ng hải Cần Thơ, Cảng vụ
Hàng hải Hải Phòng từ ngày 02/12/2020 đến ngày 13/5/2021. Do đó, Công ty TP
vẫn khai thác, sử dụng tài sản thuê nên vẫn phải chịu tiền thuê tàu. Tuy nhiên, việc
chậm bàn giao tàu cũng lỗi một phần của V, V yêu cầu Công ty TP phải bàn
giao tàu nhưng khi Công ty TP yêu cầu V nhận tàu thì V không nhận tàu không
lý do chính đáng tchối nhận tàu. Do đó, việc Tòa án cấp sơ thẩm xác định cả
02 Công ty đều lỗi nên đều phải chịu tiền thuê tàu từ thời điểm Công ty TP
yêu cầu bàn giao tàu đến thời điểm bàn giao tàu, số tiền Công ty TP phải trả
80.000.000 đồng/tháng (một nửa giá thuê đã thỏa thuận) phợp. Như vậy, đối
với tàu HP 102, số tiền thuê tàu từ ngày 06/02/2021 đến ngày 14/6/2021 là
80.000.000 đồng/tháng x 4 tháng 9 ngày = 344.000.000 đồng; đối với tàu HP 107,
số tiền thuê tàu từ ngày 08/02/2021 đến ngày 14/6/2021 80.000.000 đng/tháng
x 4 tháng 7 ngày = 338.666.667 đồng.
[6] Do các n đã thống nhất trừ số tiền ng ty TP đặt cọc đợt 1 vào tiền
thuê tàu nên tiền thuê mỗi tàu được đối trừ 160.000.000 đồng. Như vậy, tổng số
tiền thuê tàu Công ty TP chưa thanh toán cho V đến ngày bàn giao tàu là
3.026.666.667 + 344.000.000 + 2.847.207.372 + 338.666.667 160.000.000
160.000.000 = 6.236.540.706 đồng (1)
[7] Về số tiền lãi chậm thanh toán tiền thuê tàu tiền lãi do chậm chuyển
tiền đặt cọc: Theo điểm a khoản 1 Điều 21 Hợp đồng thtàu về phạt do chậm
thực hiện nghĩa vụ thanh toán, chuyển tiền đều quy định: Nếu n thuê tàu chậm
thanh toán đối với bất kỳ nghĩa vụ tài chính nào đối với Bên cho thuê tàu phát sinh
theo Hợp đồng này bao gồm cả tiền thuê tàu, chậm chuyển tiền đặt cọc, tiền phạt vi
phạm hợp đồng, bồi thường thiệt hại…thì Bên cho thtàu quyền tính tiền lãi
đối với số tiền chậm thanh toán theo mức lãi suất bắng 150% lãi suất bản do
Ngân hàng Nhà nước Việt Nam tại thời điểm chậm thanh toán tính trên số tiền
chậm thanh toán thời gian thực tế chậm thanh toán”. Theo đó, việc V yêu cầu
Công ty TP phải chịu stiền lãi do chậm thanh toán tiền thuê tàu chuyển tiền
đặt cọc là phù hợp với thỏa thuận của các bên. Lãi suất V yêu cầu tính là 9% (thấp
hơn lãi suất trung bình của 3 Ngân hàng) lợi cho bị đơn nên chấp nhận yêu
cầu tính lãi suất cơ bản của V là 9%/năm. Cụ thể:
[7.1] Đối với tàu HP 102: Số tiền lãi phát sinh tính đến ngày xét xử sơ thẩm
(20/7/2021) do Công ty TP chậm thanh toán tiền thtàu từ ngày 25/12/2018 đến
11
ngày 05/2/2021 là: 576.887.671 đồng. Số tiền lãi phát sinh tính đến ngày xét xử
thẩm (20/7/2021) do Công ty TP chậm thanh toán tiền thuê tàu từ ngày 05/02/2021
đến ngày 14/6/2021 12.856.438 đồng. Số tiền lãi do chậm chuyển tiền đặt cọc
đợt 1 3.195.616; số tiền lãi do chậm chuyển tiền đặt cọc đợt 2 là 54.621.370
đồng. Tổng cộng, số tiền lãi phát sinh là 647.561.096 đồng.
[7.2] Đối với tàu HP 107: Số tiền lãi phát sinh tính đến ngày xét xử sơ thẩm
(20/7/2021) do Công ty TP chậm thanh toán tiền thuê tàu từ ngày 15/10/2018 đến
ngày 07/2/2021 là: 610.864.376 đồng. Số tiền lãi phát sinh tính đến ngày xét xử
thẩm (20/7/2021) do Công ty TP chậm thanh toán tiền thuê tàu từ ngày 07/02/2021
đến ngày 14/6/2021 12.550.685 đồng. Số tiền lãi do chậm chuyển tiền đặt cọc
đợt 1 4.024.110 đồng; số tiền lãi do chậm chuyển tiền đặt cọc đợt 2
58.823.014 đồng. Tổng cộng, số tiền lãi phát sinh là 686.262.184 đồng.
[7] Như vậy, tổng số tiền lãi phát sinh của cả 02 tàu là: 647.561.096 +
686.262.184 = 1.333.823.280 đồng (2).
[9] Về kháng o xin miễn số tiền lãi, bị đơn trình bày do lỗi của nguyên
đơn đã yêu cầu Cục Đăng kiểm Việt Nam Chi Cục đăng kiểm số 10 không cấp
giấy chứng nhận cho tàu HP 102 khiến cho việc kinh doanh, khai thác tàu của bị
đơn bị ảnh hưởng. Tuy nhiên, Công ty TP vẫn khai thác sdụng tàu và Chi Cục
đăng kiểm số 10 vẫn cấp giấy chứng nhận cho tàu HP 102, đồng thời, V cũng
không đồng ý thỏa thuận miễn lãi cho Công ty TP nên không có căn cứ để miễn lãi
cho Công ty TP.
[10] Về tiền phạt do chậm hoàn trả tàu: Mặc dù, ngày 22/9/2020, V đã
Công văn yêu cầu Công ty TP phải bàn giao 02 tàu HP 102, HP 107, tuy nhiên việc
chậm nhận tàu cũng có lỗi một phần của nguyên đơn , nguyên đơn cũng thừa nhận
việc chậm nhận tàu do các bên chưa thống nhất được với nhau về thời gian, địa
điểm hoàn trả tàu. Công ty TP đã nhiều văn bản đề nghị V nhận tàu nhưng V
cũng chưa thực hiện việc nhận tàu. Do đó, không căn cứ để buộc Công ty TP
phải chịu tiền phạt do chậm hoàn trả tàu.
[11] Như vậy, tổng số tiền Công ty TP phải thanh toán cho V (1) + (2) =
6.236.540.705 + 1.333.823.280 = 7.570.363.985 đồng. Do Tòa án cấp thẩm làm
tròn số quy đổi lãi theo ngày nên sai số so với Tòa án cấp phúc thẩm, tuy
nhiên, số liệu, phương pháp tính của Tòa án cấp thẩm phù hợp đúng quy
định, sliệu sai lệch không đáng kể nhưng Tòa án cấp phúc thẩm vẫn sửa Bản án
thẩm về số liệu cho chính xác. Do nguyên đơn và bị đơn đều kháng cáo liên
quan đến số tiền thuê tàu phải thanh toán, Hội đồng xét xử sửa một phần Bản án sơ
thẩm về số tiền này nên cần chấp nhận một phần kháng o của nguyên đơn bị
đơn.
[12] Về yêu cầu Công ty TP phải tiếp tục trả tiền lãi do chậm thực hiện việc
thanh toán tiền thuê tàu theo các Hợp đồng trên, bồi thường những thiệt hại phát
sinh kể tngày 20/7/2021 cho đến khi ng ty TP thực hiện xong việc thanh toán
12
công nợ cho V: Tại phần Quyết định của Bản án thẩm đã tuyên nghĩa vụ phải
chịu khoản tiền lãi của số tiền thuê tàu còn lại mà Công ty TP phải thi hành, do đó
nội dung Bản án sơ thẩm đã tuyên phù hợp với kháng cáo của nguyên đơn. Về yêu
cầu bồi thường thiệt hại phát sinh kể từ ngày xét xử thẩm (20/7/2021), tại giai
đoạn xét xử sơ thẩm, nguyên đơn không yêu cầu cụ thể số tiền bồi thường thiệt hại
các yêu cầu bồi thường thiệt hại phát sinh vượt quá phạm vi xét xử phúc thẩm
nên Tòa án cấp phúc thẩm theo Điều 293 Bộ luật Tố tụng dân sự. Đồng thời, tại
phiên tòa phúc thẩm, người đại diện hợp pháp của nguyên đơn đã rút một phần
kháng cáo về nội dung này nên Tòa án cấp phúc thẩm không xem xét, giải quyết.
[13] - Xét kháng cáo của bị đơn về việc yêu cầu nguyên đơn phải thanh toán
các khoản chi phí về thuê cầu cảng để neo đậu và chi phí thuyền viên trông coi tàu
trong qtrình đợi bàn giao tàu: Tại giai đoạn xét xử thẩm, bị đơn không
yêu cầu phản tố về việc buộc nguyên đơn phải thanh toán các chi phí trên nên Tòa
án cấp thẩm không xem xét, giải quyết. Tại giai đoạn xét xphúc thẩm, bị đơn
kháng cáo mới yêu cầu này, do đó theo Điều 293 Bộ luật Tố tụng dân sự, yêu
cầu của bị đơn vượt quá phạm vi xét xcủa cấp phúc thẩm nên không được chấp
nhận. Tòa án sẽ xem xét giải quyết yêu cầu thanh toán của bị đơn bằng một vụ kiện
khác nếu đương sự có yêu cầu theo quy định của pháp luật.
- Về án pkinh doanh thương mại: Căn cứ Điều 147, Điều 148 Bộ luật Tố
tụng dân sự; căn cứ Điều 26, Điều 29 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày
30/10/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm,
thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
[14] Án phí kinh doanh thương mại thẩm: Bị đơn phải chịu án phí dân sự
thẩm tương ng với phần yêu cầu của nguyên đơn đối với bị đơn được Tòa án
chấp nhận, vì vậy Công ty TP phải chịu số tiền 115.570.364 đồng án phí dân sự
thẩm. Công ty CTN phải chịu án phí dân sự thẩm tương ứng với phần yêu cầu
không được Tòa án chấp nhận, số tiền không được chấp nhận 8.797.717.044 -
7.570.363.985 đồng = 1.227.353.059 đồng nên số tiền án phí phải chịu
48.820.592 đồng.
[15] Án phí kinh doanh thương mại phúc thẩm: Kháng cáo của bị đơn,
nguyên đơn đều được chấp nhận một phần nên nguyên đơn bị đơn không phải
chịu án phí kinh doanh thương mại phúc thẩm.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ vào Điều 30, điểm b khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, Điều
147, Điều 148, khoản 1 Điều 244, Điều 298, khoản 2 Điều 308, Điều 309 Bộ luật
Tố tụng n sự 2015; Căn cứ Điều 4, Điều 271, khoản 1 Điều 281, các Điều 300,
301, 306 Luật Thương mại; Căn cứ Điều 117, Điều 119, Điều 428 Bộ luật Dân sự;
Căn cứ các điều 215, 216, 229, 230, 231, 232, 233 Bộ luật hàng hải;
13
Căn cứ Điều 26, Điều 29 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày
30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm,
thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Xử: Chấp nhận một phần kháng cáo của nguyên đơn là Công ty Cổ phần CTN
chấp nhận một phần kháng cáo của bđơn Công ty TNHH Sản xuất Thương
mại và Dịch vTP, sửa Bản án sơ thẩm; cụ thể:
1. Đình chỉ giải quyết đối với yêu cầu của nguyên đơn buộc Công ty TNHH
Sản xuất Thương mại Dịch vụ TP phải trả cho Công ty Cổ phần CTN 02 con
tàu: HP 107, Hô hiệu/Số IMO: 3WGM9/9560742 và tàu HP 102, Hô hiệu/Số IMO:
WNF8/9368807 cùng toàn bộ vật tư, giấy tờ kèm theo (theo Biên bản bàn giao tàu:
HP 107” ngày 19/8/2018; HP 102 ngày 28/11/2018).
2. Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn:
Buộc Công ty TNHH Sản xuất Thương mại và Dịch vụ TP phải trả cho
Công ty Cổ phần CTN tổng stiền 7.570.363.985 (Bẩy tỷ, năm trăm bảy mươi
triệu, ba trăm sáu mươi ba nghìn, chín trăm tám mươi lăm) đồng; trong đó: Tiền
thuê tàu 6.236.540.705 đồng; tiền lãi chậm trả tiền thuê tàu 1.213.159.171
đồng; tiền lãi đối với chậm thực hiện nghĩa vụ đặt cọc là 120.664.109 đồng.
3. Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn buộc bị đơn phải
thanh toán tiền phạt do chậm hoàn trả tàu là 204.800.000 đồng.
Kể từ ngày tiếp theo của ngày xét xử sơ thẩm cho đến khi thi hành án xong,
bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền thuê tàu còn phải thi
hành theo mức lãi suất (150% lãi suất cơ bản theo Ngân hàng Nhà nước Việt Nam
tại thời điểm chậm thanh toán tính trên số tiền chậm thanh toán và thời gian thực tế
chậm thanh toán) các bên thỏa thuận trong Hợp đồng thuê tàu trần số 01/2018/V-
TP ngày 18/8/2018 và Hợp đồng thuê tàu trần số 02/2018/V-TP ngày 30/8/2018.
4. Về án phí:
- Án phí kinh doanh thương mại sơ thẩm:
Công ty TNHH Sản xuất Thương mại Dịch vụ TP phải chịu số tiền
115.570.364 đồng án phí kinh doanh thương mại sơ thẩm.
Công ty Cổ phần CTN phải chịu số tiền 48.820.592 đồng án phí kinh doanh
thương mại thẩm nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp 56.715.292
đồng theo Biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí a án số 0017775ngày 24/12/2020
tại Chi cục Thi hành án dân sự quận HA, thành phố Hải Phòng. Trả lại Công ty
CTN số tiền 7.894.700 đồng
- Án phí kinh doanh thương mại phúc thẩm:
Công ty Cổ phần CTN không phải chịu án phí kinh doanh thương mại phúc
thẩm, trả lại ng ty số tiền tạm ứng án phí đã nộp 2.000.000 đồng theo Biên lai
14
thu tiền tạm ứng án phí, lphí Tòa án số 0018147 ngày 07/9/2021 tại Chi cục Thi
hành án dân sự quận HA, thành phố Hải Phòng.
Công ty TNHH Sản xuất Thương mại và Dịch vụ TP không phải chịu án phí
kinh doanh thương mại phúc thẩm, trả lại Công ty số tiền tạm ứng án phí đã nộp
2.000.000 đồng theo Biên lai thu tiền tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0018145
ngày 27/8/2021 tại Chi cục Thi hành án dân sự quận HA, thành phố Hải Phòng
nhưng được tạm giữ để đảm bảo thi hành án.
Trưng hp bn án, quyết đnh đưc thi hành theo qui đnh tại Điu 2 Lut Thi
hành án n sthì ngưi đưc thi hành án n s, ngưi phi thi hành án n scó
quyn thoả thuận thi hành án, quyn yêu cu thinh án, t nguyn thi hành án hoặc bị
cưỡng chế thi hành án theo qui đnh ti các Điu 6, 7 và 9 Lut Thi hành ánn s; thi
hiệu thi nh án được thực hiện theo quy đnh ti Điều 30 Lut Thi hành án dân sự.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án./
Nơi nhận:
- VKSND TP Hải Phòng;
- Chi cục THADS quận HA;
- TAND quận HA. ;
- Đương sự (để thi hành);
- Lưu: Hồ sơ, HCTP.
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM
THẨM PHÁN-CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
Vũ Thị Thu Hà
Tải về
Bản án số 03/2022/KDTM-PT Bản án số 03/2022/KDTM-PT

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án/ Quyết định cùng đối tượng

Bản án cùng lĩnh vực

Bản án mới nhất