Bản án số 04/2025/KDTM-PT ngày 07/08/2025 của TAND tỉnh Ninh Bình về tranh chấp về xây dựng

  • Thuộc tính
  • Nội dung
  • VB gốc
  • VB liên quan
  • Lược đồ
  • Đính chính
  • Án lệ
  • BA/QĐ cùng nội dung
  • Tải về
Tải văn bản
Báo lỗi
  • Gửi liên kết tới Email
  • Chia sẻ:
  • Chế độ xem: Sáng | Tối
  • Thay đổi cỡ chữ:
    17

Thuộc tính Bản án 04/2025/KDTM-PT

Tên Bản án: Bản án số 04/2025/KDTM-PT ngày 07/08/2025 của TAND tỉnh Ninh Bình về tranh chấp về xây dựng
Quan hệ pháp luật: Tranh chấp về xây dựng
Cấp xét xử: Phúc thẩm
Tòa án xét xử: TAND tỉnh Ninh Bình
Số hiệu: 04/2025/KDTM-PT
Loại văn bản: Bản án
Ngày ban hành: 07/08/2025
Lĩnh vực: Kinh doanh thương mại
Áp dụng án lệ:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Đính chính:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Thông tin về vụ/việc: Ngày 25/01/2017, Công ty Cổ phần V (gọi tắt Công ty V) ký kết hợp đồng hợp tác sản xuất kinh doanh vật liệu xây dựng với Công ty TNHH V (gọi tắt Côngty Hoàng Gia P1) và ông Nguyễn Văn T1 để đầu tư, sửa chữa, cải tạo nâng cấp hệ thống tạo hình, lò nung Tuynel, hệ thống nhà bao che để tiếp tục sản xuất kinh doanh gạch đất nung. Công ty V cam kết tham gia hợp tác với toàn bộ tài sản trên đất và diện tích đất sử dụng trên 25.000 m2 đất, thuộc quyền sử dụng hợp pháp của Công ty V. Công ty V và ông T1 cam kết đầu tư vốn với số tiền từ 20 tỷ đồng đến 25 tỷ đồng để mua toàn bộ máy móc, vật tư, thiết bị để sửa chữa nâng cấp cải tạo hệ tạo hình, hệ lò nung T, nhà bao che…
Tóm tắt Bản án

Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!

Tải văn bản

TÒA ÁN NHÂN DÂN
TỈNH NINH BÌNH
Bản án số: 04/2025/KDTM-PT
Ngày 07 - 8 - 2025
V/v: Tranh chấp hợp đồng hợp tác
sản xuất kinh doanh vật liệu xây
dựng tranh chấp hợp đồng
nguyên tắc.
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH NINH BÌNH
- Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ toạ phiên toà: Ông Nguyễn Đức Thuỷ;
Các Thẩm phán: Ông Nguyễn Quốc Trưởng và ông Trần Văn San.
- Thư phiên tòa: Đỗ Thị Thanh Huyền - Thư Tòa án nhân dân
tỉnh Ninh Bình.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Ninh Bình tham gia phiên tòa:
Bà Trần Thị Đông - Kiểm sát viên.
Trong các ngày 08 tháng 7 ngày 07 tháng 8 năm 2025, tại trụ sở Tòa án
nhân dân tỉnh Ninh Bình xét xử phúc thẩm công khai vụ án thụ số
03/2025/TLPT-KDTM ngày 21 tháng 02 năm 2025 vviệc “Tranh chấp hợp
đồng hợp tác sản xuất kinh doanh vật liệu xây dựng tranh chấp hợp đồng
nguyên tắc”.
Do Bản án Kinh doanh thương mại sơ thẩm số 01/2025/KDTM-ST ngày 10
tháng 01 năm 2025 của Tòa án nhân dân thị Kim Bảng, tỉnh Nam (nay
Toà án nhân dân khu vực 5, tỉnh Ninh Bình) bị kháng cáo. Theo Quyết định đưa
vụ án ra t xphúc thẩm số 04/2025/ QĐXXPT-KDTM ngày 21 tháng 4 năm
2025 và các Quyết định hoãn phiên toà số 02/2025/QĐ-PT ngày 21 tháng 5 năm
2025; Quyết định hoãn phiên toà số 03/2025/QĐ-PT ngày 12 tháng 6 năm 2025;
Quyết định tạm ngừng phiên toà số 01/2025/QĐPT-KDTM ngày 08 tháng 7
năm 2025, giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: ng ty Cổ phần V; địa chỉ: Thôn Đ, K, thị K, tỉnh
Nam (nay thôn Đ, phường T, tỉnh Ninh Bình); người đại diện theo pháp
luật: Ông Đinh Văn H - Chức vụ: Giám đốc; người đại diện theo uỷ quyền: Ông
Chu Thành N, sinh năm 1977; nơi trú: Thôn F, P, thành phố P, tỉnh
Nam (nay là thôn F, phường P, tỉnh Ninh Bình); đều có mặt.
Người bảo vệ quyền lợi ích hợp pháp của nguyên đơn: Ông Phạm
T - Luật sư của Công ty L thuộc Đoàn luật sư Thành phố H; có mặt.
2
- Bị đơn: Công ty TNHH V; địa chỉ: Thôn T, thị trấn K, huyện K, tỉnh
Hưng Yên (nay thôn T, K, tỉnh Hưng Yên); người đại diện theo pháp luật:
Ông Phạm Bá Đ - Chức vụ: Giám đốc; có mặt.
Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị đơn: Ông Nguyễn Văn Đ1
- Luật sư của ng ty L1 thuộc Đoàn luật sư Thành phố H; có mặt.
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
+ Ông Nguyễn Văn T1, sinh năm 1974; nơi cư trú: Thị tứ P, xã P, huyện K,
tỉnh Hưng Yên (nay thị tứ P, K, tỉnh Hưng Yên); người đại diện theo uỷ
quyền: Đỗ Thị T2, sinh năm 1977; Xóm B, Đ, huyện K, tỉnh Hưng Yên
(nay là thôn Đ, xã K, tỉnh Hưng Yên); có mặt bà T2, vắng mặt ông T1.
+ Ông Đỗ P, sinh năm 1976 và Đỗ Thị T2, sinh năm 1977; cùng nơi
trú: Xóm B, Đ, huyện K, tỉnh Hưng Yên (nay là thôn Đ, K, tỉnh Hưng
Yên); đều có mặt.
Người bảo vệ quyền lợi ích hợp pháp của ông P T2: Ông Nguyễn
Văn Đ1 - Luật sư của Công ty L1 thuộc Đoàn luật sư Thành phố H; có mặt.
+ Phạm Thị X, sinh năm 1984; nơi trú: Thôn T, thị trấn K, huyện K,
tỉnh Hưng Yên (nay là thôn T, xã K, tỉnh Hưng Yên); có mặt.
Người kháng cáo: Bị đơn Công ty TNHH V người quyền lợi, nghĩa
vụ liên quan (bà Phạm Thị X, ông Đỗ Bá P và bà Đỗ Thị T2).
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Theo Bản án thẩm các tài liệu, chứng cứ trong hồ sơ, nội dung vụ
án tóm tắt như sau:
Ngày 25/01/2017, Công ty V (gọi bên A) kết hợp đồng hợp tác sản
xuất kinh doanh vật liệu xây dựng với Công ty TNHH V (sau đây gọi tắt
Công ty V) (gọi bên B) ông Nguyễn Văn T1 để đầu tư, sửa chữa, cải tạo
nâng cấp hệ thống tạo hình, nung Tuynel, hệ thống nhà bao che đtiếp tục
sản xuất kinh doanh gạch đất nung. Bên A cam kết tham gia hợp tác với toàn bộ
tài sản trên đất diện tích đất sử dụng trên 25.000m
2
(đất thuộc quyền sử
dụng hợp pháp của bên A). Bên B cam kết đầu vốn với số tiền
20.000.000.000đồng đến 25.000.000.000 đồng (hai mươi tđồng đến hai mươi
lăm tđồng), thời hạn của hợp đồng 12 năm từ ngày 25/01/2017 đến ngày
25/01/2029; mức lợi nhuận các bên thống nhất phương án phân chia hai bên
đã kết; thời hạn thanh toán, năm đầu tiên bên B trả tiền cho bên A số tiền lợi
nhuận ngay sau khi bên A bàn giao tài sản cho bên B các năm còn lại trả tiền
một lần/năm vào ngày 01/11 hàng năm; phương thức thanh toán, bên B chuyển
khoản vào tài khoản tại Ngân hàng của bên A hoặc thanh toán trực tiếp bằng tiền
mặt, thời gian tính lợi nhuận bên B phải trả cho bên A bắt đầu tính sau 6 tháng
kể từ ngày hợp đồng được ký và có hiệu lực.
3
Quá trình thực hiện hợp đồng bên B đã vi phạm nghiêm trọng hợp đồng đã
kết như cố tình trây ì với mục đích chiếm dụng vốn của bên A, nợ tiền điện,
nợ thuế Nhà nước, nợ lương lao động, nợ các khoản phải trả cho nhà cung cấp
cùng nhiều khoản khác. Sau nhiều lần bên A văn bản yêu cầu khắc phục vi
phạm thì bên B đã nhiều đơn đề nghị cam kết sẽ thanh toán công nợ đã được
các bên đối chiếu, tại đơn đề nghị ngày 16/10/2019 của bên B cũng đã nêu rõ về
việc cam kết thanh toán công nợ, nếu không thực hiện thì xin chịu trách nhiệm
theo hợp đồng hợp tác đã ngày 25/01/2017. Do liên tục vi phạm hợp đồng,
ngày 21/10/2019 ngày 31/10/2019 bên A đã văn bản thông báo vviệc
tạm dừng hoạt động nhà máy đối với bên B, tuy nhiên sau đó bên B vẫn không
thanh toán công nợ và tiếp tục gửi các cam kết hứa hẹn trả nợ với bên A.
Ngày 25/11/2019 hai bên thống nhất tiếp tục hợp đồng nguyên tắc với
nội dung: Đồng ý sửa đổi các điều khoản của hợp đồng hợp tác sản xuất kinh
doanh vật liệu xây dựng ngày 25/01/2017, phương án tái cấu vốn, công nợ
(tính đến ngày 31/10/2019 bên B còn nbên A số tiền 16,2 tđồng), kế hoạch
sản xuất kinh doanh, định gtài sản chế tài. Nếu bên B vi phạm sẽ phải bàn
giao toàn bộ tài sản cho bên A vô điều kiện.
Trong quá trình hợp tác giữa hai bên theo hợp đồng hợp tác sản xuất kinh
doanh vật liệu xây dựng ngày 25/01/2017 đến nay, bên B thường xuyên nợ tiền
lương công nhân, tiền điện, nợ thuế nhà nước, và năm 2019 tự ý chuyển nhượng
50% số tài sản góp vốn với bên A cho ông Đỗ P Đỗ Thị T2 khi không
được sự đồng ý của bên A. Tính đến ngày 20/6/2020 bên B còn nợ bên A là trên
17 tỷ đồng, trong tháng 5 tháng 6/2020 bên B đã rất nhiều lần gửi đơn đề
nghị và cam kết sthanh toán công nợ cho bên A ghi nếu bên B không
thực hiện theo nội dung của cam kết sẽ để bên A đóng cửa nhà máy dừng hoạt
động sản xuất điều kiện chịu các hình phạt khác về kinh tế của bên A đưa
ra. Do bên B đã vi phạm nghiêm trọng các cam kết, nghĩa vụ hai bên đã
kết ngày 25/11/2019 các nghĩa vụ cam kết với bên A buộc bên A phải
đóng cửa nhà gạch Khả Phong, ngày 16/6/2020 bên A tiến hành kiểm đếm tài
sản của bên B tại nhà máy ngày 19/6/2020 bên A thông báo chấm dứt hợp
đồng hợp tác với bên B.
Nay ng ty Cổ phần V khởi kiện yêu cầu Toà án huỷ bỏ toàn bộ Hợp
đồng hợp tác sản xuất kinh doanh vật liệu xây dựng ngày 25/01/2017 Hợp
đồng nguyên tắc ngày 25/11/2019 giữa Công ty Cổ phần V Công ty TNHH
V. Buộc Công ty V phải trả nợ cho Công ty V tổng số tiền còn nợ
16.200.000.000 đồng. Toàn bộ số tài sản đã được Tòa án định giá, tiền đất
tiền gạch đã được hai bên tự định giá của Công ty V hiện nay tại Công ty V sẽ
được đối trừ với tổng số tiền 16.200.000.000 đồng Công ty V phải trả cho
Công ty V.
Người đại diện theo pháp luật của bị đơn (Công ty TNHH V) cùng người
bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị đơn trình bày:
4
Ngày 25/01/2017, Công ty V (gọi bên B) Công ty Cổ phần V (gọi
bên A) đã kết hợp đồng hợp tác sản xuất kinh doanh vật liệu xây dựng để đầu
tư, sửa chữa, cải tạo nâng cấp hệ thống tạo hình, nung Tuynel, hệ thống nhà
bao che đ tiếp tục sản xuất kinh doanh gạch đất nung với số tiền
20.000.000.000đồng đến 25.000.000.000đồng; sau đó, đến ngày 25/11/2019 hai
bên thống nhất tiếp tục ký hợp đồng nguyên tắc đúng như nguyên đơn đã trình
bày. Sau khi đầu đi vào hoạt động một thời gian, do điều kiện bất khả
kháng là đại dịch Covid-19 nên Công ty V hoạt động không có hiệu quả. Vì vậy,
Công ty bên B văn bản xin giãn nợ thanh toán dần nhưng bên A không
đồng ý đến ngày 06/7/2020 bên A đã mang thiết bị máy móc thuê người
đến để đuổi công nhân cùng Ban Lãnh đạo của bên B ra khỏi Công ty V và được
bên B báo với Công an xã K đến giải quyết; Công an K đã yêu cầu bên A
không tái phạm việc xlý, đuổi Ban Lãnh đạo, công nhân của bên B ra khỏi
Công ty V; đồng thời, yêu cầu Công ty V di dời máy móc chặn lối vào cổng của
Công ty. Đến ngày 07/7/2020, bên A vẫn cử đại diện sau đó thuê người phá cửa
Văn phòng và đuổi công nhân, cán bộ của bên B ra khỏi Công ty V. Bên B đã cử
người đến trụ sở Công an huyện K để trình báo sự việc nhưng Công an huyện K
không cử cán bộ đến giải quyết sự việc. Từ đó cho đến nay bên B đã nhiều
văn bản gửi đến các cơ quan chức năng nhưng chưa được giải quyết, sau khi bên
A đuổi bên B ra khỏi Công ty V, bên A đã cho toàn bộ các tài sản thiết bị
máy móc của bên B vào hoạt động và bán toàn bộ thành phẩm của bên B.
Trước khi bị đuổi khỏi Công ty V thì gạch thành phẩm của bên B còn lại
trên kho bãi khoảng 1.800.000.000 đồng đến 2.000.000.000 đồng, kho đất còn
lại trên dự tính còn trên 5.000.000.000 đồng, ngoài ra còn than, cát, dầu máy,
mỡ và một số trang thiết bị dự phòng khác.
Bên B xác định tính đến ngày 07/7/2020 sau khi bị bên A đuổi ra khỏi
Công ty V thì bên B còn nợ bên A số tiền 16.2000.000.000 đồng đúng từ
đó cho đến nay bên B chưa thanh toán trả cho bên A khoản tiền nào.
Nay Công ty TNHH V (bên B) chỉ đồng ý với một phần yêu cầu khởi kiện
của nguyên đơn, bên B nhất trí trả cho nguyên đơn stiền bên B còn nợ
16.200.000.000 đồng. Tuy nhiên, Hợp đồng hợp tác sản xuất kinh doanh vật liệu
xây dựng hai bên đã kết ngày 25/01/2017 vẫn còn hiệu lực đến ngày
25/01/2029 nên bên B không đồng ý hủy mà yêu cầu vẫn phải tiếp tục thực hiện
hợp đồng, tài sản của bên B đầu cho đến lúc đi vào hoạt động cộng với
gạch thành phẩm và vật tư cho đến nay có giá trị trên 40 tỷ đồng. Nếu bên A hủy
hợp đồng tphá vỡ hợp đồng nên căn cứ Điều 8 của hợp đồng buộc bên A
phải bồi thường cho bên B tổng cộng số tiền là 37.000.000.000 đồng, bên B
không chấp nhận bàn giao toàn bộ tài sản cho bên A. Còn đối với hợp đồng
nguyên tắc giữa Công ty V Công ty V do không chữ của ông Nguyễn
Văn T1 nên đề nghị Tòa án tuyên Hợp đồng này vô hiệu.
Người quyền lợi, nghĩa vụ liên quan (ông Đỗ P, Đỗ Thị T2) và
người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của ông P, bà T2 trình bày:
5
Ngày 12/4/2018, ông Phạm Bá Đ vay của vợ chồng ông Đỗ Bá P, Đỗ
Thị T2 số tiền 6.000.000.000 đồng để kinh doanh sản xuất gạch, để đảm bảo cho
khoản vay này thì ông Đ và vợ là bà Phạm Thị X đã cầm cố cho ông P, bà T2 tài
sản 20% cổ phần tại Công ty Cổ phần V. Đến ngày 16/12/2019 Công ty
TNHH V ông P, T2 hợp đồng chuyển nhượng tài sản góp vốn với nội
dung Công ty V đồng ý chuyển nhượng 50% số tài sản góp vốn của mình tại
Công ty Cổ phần V 8.600.000.000 đồng cho ông P, T2. Nay xảy ra tranh
chấp nên ông P, T2 khởi kiện Tòa án nhân dân huyện Khoái Châu, tỉnh
Hưng Yên đã thụ vụ án Tranh chấp hợp đồng vay tài sảnTranh chấp
hợp đồng chuyển nhượng tài sản góp vốngiữa đồng nguyên đơn ông Đỗ
P, Đỗ Thị T2 với đồng bị đơn là ông Phạm Đ, Phạm Thị X và Công ty
V. Vì vậy, đề nghị Tòa án nhân dân thị xã Kim Bảng, tỉnh Hà Nam tạm đình chỉ
giải quyết vụ án này để chờ kết quả giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Khoái
Châu, tỉnh Hưng Yên.
Người quyền lợi, nghĩa vụ liên quan (ông Nguyễn Văn T1) trình bày:
Ngày 25/01/2017 ông cùng Công ty TNHH V (do ông Phạm Đ Giám đốc)
đã Hợp đồng kinh tế với Công ty Cổ phần V (do ông Đinh Văn H Giám
đốc). Sau khi hợp đồng được , Công ty V ông đã cùng nhau góp vốn để
thực hiện việc xây dựng mới hoàn toàn nhà máy G với số vốn đầu khoảng 40
tỷ đồng (tỉ lgóp vốn là Công ty V ông 50%) xây dựng lại toàn bộ các hạng
mục sản xuất của nhà máy G, mua sắm máy móc trang thiết bị phục vụ sản xuất.
Do muốn tập trung vào lĩnh vực đầu tư nhân, ngày 15/12/2019, ông Công
ty V cùng nhau thỏa thuận và ký kết hợp đồng chuyển nhượng tài sản p vốn,
đến ngày 16/12/2019 hai bên mới hoàn thành được thủ tục chuyển nhượng
thanh hợp đồng. vậy, trước thời điểm kết hợp đồng chuyển nhượng tài
sản góp vốn thì ông vẫn chủ sở hữu góp vốn 50% tại Công ty TNHH V, việc
đại diện hai Công ty V kết bất cứ hợp đồng nào không mặt cũng như
sự đồng ý chữ của ông trong hợp đồng đó đều vi phạm pháp luật, ảnh
hưởng đến quyền lợi ích của ông. Quan điểm của ông Nguyễn Văn T1 đề
nghị Tòa án tuyên bố hiệu đối với tất cả các hợp đồng, Văn bản đã giữa
Công ty Cổ phần V Công ty TNHH V trong thời gian từ ngày 16/12/2019 trở
về trước không sự đồng ý chữ của ông T1; còn Hợp đồng hợp tác
sản xuất kinh doanh vật liệu xây dựng kết ngày 25/01/2017 giữa Công ty V
với ông và Công ty V vẫn còn hiệu lực nên ông T1 không đồng ý hủy bỏ.
Bà Phạm Thị X trình bày: Ông Phạm Đ chồng X1 nên hoàn
toàn nhất trí với những gì ông Đ đã trình bày tại Tòa án. Ngoài ra, bà X xác định
Công ty V đến nay nợ Công ty V stiền 16.200.000.000 đồng nhưng phần
lớn số tiền này là nợ tiền đất nguyên liệu, nếu Công ty V lấy tài sản, máy móc
của gia đình để khấu trừ số nợ trên thì phải bồi thường vật chất tinh thần
cho gia đình bà trong thời gian bị chiếm đoạt, giữ tài sản từ năm 2020 đến nay.
Tại Bản án kinh doanh thương mại số 01/2025/KDTM-ST ngày 10/01/2025
của Tòa án nhân dân thị Kim Bảng, tỉnh Nam (nay Toà án nhân dân
khu vực V, tỉnh Ninh Bình) đã quyết định:
6
Căn cứ khoản 1 Điều 30, điểm b khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều
39,Điều 144, Điều 147, Điều 157, Điều 165, khoản 1 Điều 228 Bộ luật Tố tụng
dân sự; các Điu116, 117, 122, 123, 131, 422, 423, 427, 428, 504, 505, 512 Bộ
luật Dân sự 2015; các Điều292, 312 Luật Thương mại năm 2005 (sửa đổi, bổ
sung năm 2019); khoản 2 Điều 26 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30
tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về án phí lệ
phí Tòa án và Danh mục án phí, lệ phí Tòa án:
Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của Công ty Cổ phần V. Huỷ bỏ
toàn bộ Hợp đồng hợp tác sản xuất kinh doanh vật liệu xây dựng ngày
25/01/2017 giữa Công ty Cổ phần V với Công ty TNHH V và ông Nguyễn Văn
T1. Tuyên bố Hợp đồng nguyên tắc ngày 25/11/2019 giữa Công ty Cổ phần V
với Công ty TNHH V là vô hiệu.
Buộc Công ty TNHH V phải thanh toán, trả cho Công ty Cổ phần V số tiền
còn nợ 16.200.000.000 đồng. Đối trừ với giá trị toàn bộ các tài sản là nhà
xưởng, dây chuyền, máy móc, phương tiện sản xuất gạch của Công ty TNHH V
hiện đang nằm trên đất của Công ty Cổ phần V 12.171.529.920 đồng (theo
Chứng thư thẩm định giá s 24P03TĐ0897 ngày 26/3/2024 của Công ty Cổ
phần T3) đối trừ với giá trị tài sản là đất tồn kho, gạch thành phẩm của Công
tyTNHH Đầu Thương mại Hoàng Gia P1 nằm trên đất của Công ty Cổ
phần V là 2.000.000.000 đồng. Như vậy, Công ty TNHH V còn phải trả cho
Công ty Cổ phần V số tiền 2.028.470.080 đồng.
Công ty Cổ phần V được quyền sở hữu toàn bcác tài sản nhà xưởng,
dây chuyền, máy móc, phương tiện sản xuất gạch của Công ty TNHH V (theo
Chứng thư thẩm định giá số 24P03TĐ0897 ngày 26/3/2024 của Công ty Cổ
phần T3) được sở hữu toàn bộ đất tồn kho, gạch thành phẩm của ng ty
TNHH V.
Ngoài ra bản án thẩm còn xử chi phí t tụng, án phí kinh doanh
thương mại thẩm tuyên quyền kháng cáo, quyền yêu cầu thi hành án theo
quy định của pháp luật.
Ngày 20 tháng 01 năm 2025, bị đơn và những người có quyền lợi, nghĩa vụ
liên quan (bà Đỗ Thị T2, ông Đỗ P và bà Phạm Thị X) đều kháng cáo kháng
cáo toàn bộ Bản án số 01/2025/KDTM- ST ngày 10 tháng 01 năm 2025 của Tòa
án nhân dân thị Kim Bảng, tỉnh Nam (nay Toà án nhân dân khu vực 5,
tỉnh Ninh Bình) đề nghị cấp phúc thẩm hủy bản án thẩm để giải quyết lại,
với lý do: Công ty TNHH V đã đầu tư số tiền hơn 30 tỷ đồng vào nhà máy G
đôi bên thỏa thuận hợp tác 12 năm, không bên nào được hủy ngang; bản án
thẩm tuyên hủy hợp đồng hợp tác làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến lợi ích của
Công ty. Trường hợp không hủy án, đề nghị sửa bản án thẩm theo hướng
buộc Công ty Cổ phần V tiếp tục thực hiện Hợp đồng hợp tác tuyên Hợp
đồng nguyên tắc ngày 25/11/2019 vô hiệu.
7
Tại phiên toà phúc thẩm, những người quyền lợi, nghĩa vụ liên quan
Phạm Thị X, ông Đỗ P Đỗ Thị T2 đều không đề nghị xem xét kháng
cáo với do không nộp tiền tạm ứng án pphúc thẩm; phía nguyên đơn bị
đơn tự nguyện thoả thuận với nhau về việc giải quyết vụ án, cụ thể:
Các bên cùng thống nhất chấm dứt Hợp đồng hợp tác sản xuất kinh doanh
vật liệu xây dựng ngày 25/01/2017 giữa Công ty Cổ phần V với Công ty TNHH
V ông Nguyễn Văn T1; đồng thời, chấm dứt Hợp đồng nguyên tắc ngày
25/11/2019 giữa Công ty Cổ phần V với Công ty TNHH V.
Công ty Cổ phần V được quyền sở hữu toàn bcác tài sản nhà xưởng,
dây chuyền, máy móc, phương tiện sản xuất gạch của Công ty TNHH V (theo
Chứng thư thẩm định giá số 24P03TĐ0897 ngày 26/3/2024 của Công ty Cổ
phần T3) được sở hữu toàn bộ đất tồn kho, gạch thành phẩm của ng ty
TNHH V.
Công ty Cổ phần V trách nhiệm hỗ trợ ng ty TNHH V số tiền
4.200.000.000 đồng (bốn tỷ hai trăm triệu đồng); vchi phí xem xét, thẩm định
tại chỗ thẩm định giá hết 46.300.000 đồng tiền án phí kinh doanh thương
mại sơ thẩm, phúc thẩm Công ty TNHH V chịu toàn bộ.
Tại phiên toà phúc thẩm, nguyên đơn đã trả đủ bị đơn số tiền
4.200.000.000 đồng bị đơn đã trả đủ số tiền 46.300.000 đồng chi phí tố tụng
cho nguyên đơn.
Quan điểm của Kiểm sát viên tại phiên tòa xác định: Quá trình thụ lý, giải
quyết xét xThẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư Tòa án đã thực hiện đúng,
đầy đquy định của Bộ luật Tố tụng dân sự; các đương sđều thực hiện đúng,
đầy đủ quyền và nghĩa vụ tố tụng theo quy định của pháp luật. Hướng giải quyết
vụ án đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng Điều 300 và khoản 2 Điều 308 của Bộ
luật Tố tụng dân sự Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của
Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, giảm, thu, nộp, quản lý và sử
dụng án phí và lphí Tòa án; sửa Bản án sơ thẩm số 01/2025/KDTM- ST ngày
10 tháng 01 năm 2025 của Tòa án nhân dân thị xã Kim Bảng, tỉnh Nam (nay
Toà án nhân dân khu vực , tỉnh Ninh Bình) theo hướng công nhận sự thoả
thuận của các đương sự, cụ thể:
Chấm dứt Hợp đồng hợp tác sản xuất kinh doanh vật liệu xây dựng ngày
25/01/2017 giữa Công ty Cổ phần V với Công ty TNHH V và ông Nguyễn Văn
T1; đồng thời, chấm dứt Hợp đồng nguyên tắc ngày 25/11/2019 giữa Công ty
Cổ phần V với Công ty TNHH V. Công ty Cổ phần V được quyền sở hữu toàn
bộ các tài sản nhà xưởng, dây chuyền, máy móc, phương tiện sản xuất gạch
của Công ty TNHH V (theo Chứng thư thẩm định giá số 24P03TĐ0897 ngày
26/3/2024 của Công ty cổ phần T3) được sở hữu toàn bộ đất tồn kho, gạch
thành phẩm của Công ty TNHH V Công ty Cổ phần V hỗ trợ Công ty TNHH
V số tiền 4.200.000.000 đồng; các chi phí tố tụng án phí Công ty TNHH V
phải chịu toàn bộ.
8
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên
toà căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên toà, nghe Kiểm sát viên phát biểu
ý kiến, sau khi thảo luận và nghị án, Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Về tố tụng: Vụ án kinh doanh thương mại tranh chấp hợp đồng kinh tế
thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án được quy định tại khoản 3 Điều 26;
khoản 1 Điều 30; điểm b khoản 1 Điều 35 điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ
luật Tố tụng dân sự; tài sản tranh chấp đang thôn Đ, K, thK, tỉnh
Nam (nay là thôn Đ, phường T, tỉnh Ninh Bình). Do vậy, Toà án nhân dân thị xã
Kim Bảng (nay Toà án nhân dân khu vực 5, tỉnh Ninh Bình) giải quyết theo
thủ tục thẩmđúng thẩm quyền. Đối với đơn kháng cáo của Công ty TNHH
V ông Đỗ P, bà Đỗ Thị T2, Phạm Thị X đều thể hiện đầy đnội, đúng
trình tự, thủ tục và trong thời hạn luật định phù hợp với các Điều 272 và 273 của
Bộ luật Tố tụng dân sự; tuy nhiên, chỉ Công ty TNHH V nộp tiền tạm ứng án
phí phúc thẩm nên được cấp phúc thẩm xem xét giải quyết theo luật định, còn
ông Đỗ P, Đỗ Thị T2, Phạm Thị X không nộp tạm ứng án phí phúc
thẩm tại phiên toà X, ông P T2 đều không đề nghị xem xét kháng
cáo nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét.
[2] Về nội dung vụ án: Ngày 25/01/2017, Công ty Cổ phần V (gọi tắt Công
ty V) kết hợp đồng hợp tác sản xuất kinh doanh vật liệu xây dựng với Công
ty TNHH V (gọi tắt Côngty Hoàng Gia P1) ông Nguyễn Văn T1 để đầu tư,
sửa chữa, cải tạo nâng cấp hthống tạo hình, lò nung Tuynel, hệ thống nhà bao
che để tiếp tục sản xuất kinh doanh gạch đất nung. Công ty V cam kết tham gia
hợp tác với toàn bộ tài sản trên đất diện tích đất sử dụng trên 25.000 m
2
đất,
thuộc quyền sdụng hợp pháp của Công ty V. Công ty V ông T1 cam kết
đầu vốn với stiền từ 20 tỷ đồng đến 25 tỷ đồng để mua toàn bộ máy móc,
vật tư, thiết bđể sửa chữa nâng cấp cải tạo hệ tạo hình, hệ nung T, nbao
che… để hoàn thiện dự án sản xuất kinh doanh gạch đất nung; trả tiền thuê lao
động bố trí chuyên gia, cán bộ kỹ thuật để tiến hành việc sửa chữa, nâng cấp
xây dựng các hạng mục trên sản xuất kinh doanh gạch đất nung theo đúng
quy định của pháp luật. Về số lượng, chất lượng sản phẩm, nghiệm thu, kiểm
soát hoạt động, chi phí, giá thành, giá bán Công ty V ông T1 cũng phải thực
hiện theo đúng quy định của pháp luật. Thời hạn của hợp đồng 12 năm, hợp
đồng hiệu lực từ ngày được kết. Về mức lợi nhuận, các bên thống nhất
phương pháp phân chia kết quả theo lợi nhuận như sau:
Trong 3 năm đầu Công ty V ông T1 trả cho Công ty V số tiền 1 tỷ
đồng/năm. Từ năm thứ 4 trở đi được tính tăng thêm không quá 10%, mức tăng
cụ thể của từng năm hai bên căn cứ vào tình hình sản xuất kinh doanh của từng
năm đquyết định với cách tính: Năm thứ 4 bằng 1.100.000.000 đồng; năm thứ
5 bằng 1.200.000.000 đồng; năm thứ 6 bằng 1.300.000.000 đồng; năm thứ 7
bằng 1.400.000.000 đồng; năm thứ 8 bằng 1.500.000.000 đồng; năm thứ 9 bằng
1.600.000.000 đồng; năm thứ 10 bằng 1.700.000.000 đồng; năm thứ 11 bằng
9
1.800.000.000 đồng; năm thứ 12 bằng 1.900.000.000 đồng. Tổng mức lợi nhuận
của 12 năm không quá 16.500.000.000 đồng. Sau 12 năm nếu ngành gạch còn
phát triển, Công ty V tạo điều kiện cho Công ty V ông T1 tiếp tục thực hiện
hoạt động sản xuất, lợi nhuận hai bên cùng nhau thỏa thuận tại thời điểm đó.
Thời hạn thanh toán, năm đầu tiên Công ty V ông T1 trả tiền cho Công ty V
số tiền lợi nhuận ngay sau khi Công ty V bàn giao tài sản cho Công ty V ông
T1. Các năm còn lại trả tiền một lần/năm vào ngày 01 tháng 11 hàng năm. Ngoài
ra, hợp đồng còn quy định quyền nghĩa vụ của các bên trong quá trình thực
hiện hợp đồng.
Quá trình thực hiện hợp đồng, Công ty V ông T1 đã vi phạm các thỏa
thuận đã cam kết trong Hợp đồng như nợ tiền điện, nợ thuế Nhà nước, nợ tiền
lương người lao động, nợ các khoản phải trả cho nhà cung cấp cùng nhiều khoản
khác. Sau nhiều lần Công ty V văn bản yêu cầu khắc phục vi phạm thì Công
ty V đã nhiều lần làm văn bản đề nghị cam kết sẽ thanh toán công nđã được
các bên đối chiếu. Tuy nhiên, sau đó Công ty V và ông T1 vẫn không thanh toán
công nợ cho ng ty V.
Đến ngày 25/11/2019, Công ty V Công ty V đã thống nhất tiếp tục
kết hợp đồng nguyên tắc với nội dung: Đồng ý sửa đổi các điều khoản của Hợp
đồng hợp tác sản xuất kinh doanh vật liệu xây dựng ngày 25/01/2017; phương
án tái cấu vốn; chốt công nợ tính đến ngày 31/10/2019 Công ty V còn nợ
Công ty V số tiền 16.200.000.000 đồng; kế hoạch sản xuất kinh doanh; định giá
tài sản chế tài nếu Công ty V vi phạm sẽ phải bàn giao toàn bộ tài sản cho
Công ty V vô điều kiện.
[3] Xét kháng cáo của Công ty TNHH V, Hội đồng xét xử thấy: Tại phiên
toà phúc thẩm, các đương sự cùng thống nhất chấm dứt Hợp đồng hợp tác sản
xuất kinh doanh vật liệu xây dựng ngày 25/01/2017, giữa Công ty Cổ phần V
với Công ty TNHH V ông Nguyễn Văn T1; đồng thời, chấm dứt Hợp đồng
nguyên tắc ngày 25/11/2019, giữa Công ty Cổ phần V với Công ty TNHH V.
Công ty Cổ phần V được quyền sở hữu toàn bộ các tài sản nhà xưởng, dây
chuyền, máy móc, phương tiện sản xuất gạch của Công ty TNHH V (theo
Chứng thư thẩm định giá số 24P03TĐ0897 ngày 26/3/2024 của Công ty Cổ
phần T3) được sở hữu toàn bộ đất tồn kho, gạch thành phẩm của ng ty
TNHH V. Công ty Cổ phần V trách nhiệm hỗ trợ Công ty TNHH V số tiền
4.200.000.000 đồng (bốn tỷ hai trăm triệu đồng). Về chi phí xem xét, thẩm định
tại chỗ thẩm định giá hết 46.300.000 đồng tiền án phí kinh doanh thương
mại sơ thẩm, phúc thẩm Công ty TNHH V chịu toàn bộ.
Xét thoả thuận của các đương sự hoàn toàn tự nguyện, không vi phạm
điều cấm của pháp luật không trái đạo đức hội. Do vậy, Hội đồng xét xử
phúc thẩm ghi nhận sửa Bản án thẩm số 01/2025/KDTM-ST ngày
10/01/2025 của Toà án nhân dân thị Kim Bảng, tỉnh Nam (nay Toà án
nhân dân khu vực 5, tỉnh Ninh Bình) theo hướng như các đương s đã thoả
thuận; đồng thời, ghi nhận nguyên đơn đã trả đủ bị đơn số tiền 4.200.000.000
10
đồng (bốn tỷ hai trăm triệu đồng) bị đơn đã trả đủ số tiền 46.300.000 đồng
(bốn mươi sáu triệu ba trăm nghìn đồng) chi phí tố tụng cho nguyên đơn.
[4] Về án phí: Ghi nhận Công ty TNHH V tự nguyện chịu toàn bộ án phí
kinh doanh thương mại sơ thẩm và phúc thẩm theo quy định.
Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không bị kháng cáo, kháng nghị
Hội đồng xét xử không xem xét, giải quyết.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ Điều 300; khoản 2 Điều 308; khoản 1 Điều 30, điểm b khoản 1
Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, Điều 144, Điều 147, Điều 157, Điều 165 của
Bộ luật Tố tụng dân sự; Điều 116, Điều 117, khoản 2 Điều 422, Điều 504, Điều
505, Điều 512 của Bộ luật Dân sự 2015; Điều 292 và Điều 312 của Luật Thương
mại năm 2005 (sửa đổi, bổ sung năm 2019); Nghị quyết số
326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ
Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản sử dụng án phí
lệ phí Tòa án; sửa Bản án kinh doanh thương mại thẩm số
01/2025/KDTM- ST ngày 10 tháng 01 năm 2025 của Tòa án nhân dân thị
Kim Bảng, tỉnh Hà Nam (nay là Toà án nhân dân khu vực V, tỉnh Ninh Bình).
1. Chấp nhận sự thoả thuận của các đương sự, cụ thể:
Chấm dứt Hợp đồng hợp tác sản xuất kinh doanh vật liệu xây dựng ngày
25/01/2017 giữa Công ty Cổ phần V với Công ty TNHH V và ông Nguyễn Văn
T1; đồng thời, chấm dứt Hợp đồng nguyên tắc ngày 25/11/2019 giữa Công ty
Cổ phần V với Công ty TNHH V.
Công ty Cổ phần V được quyền sở hữu toàn bcác tài sản nhà xưởng,
dây chuyền, máy móc, phương tiện sản xuất gạch của Công ty TNHH V (theo
Chứng thư thẩm định giá số 24P03TĐ0897 ngày 26/3/2024 của Công ty Cổ
phần T3) được sở hữu toàn bộ đất tồn kho, gạch thành phẩm của ng ty
TNHH V.
Công ty Cổ phần V hỗ trợ Công ty TNHH V số tiền 4.200.000.000 đồng
(bốn tỷ hai trăm triệu đồng) Công ty TNHH V trách nhiệm thanh toán chi
phí xem xét, thẩm định tại chỗ thẩm định giá cho Công ty Cổ phần V số tiền
46.300.000 đồng (bốn mươi sáu triệu ba trăm nghìn đồng). Hai bên đã thanh
toán xong cho nhau tất cả các khoản tiền vào ngày 07 tháng 8 năm 2025.
2. Án phí kinh doanh thương mại
Buộc Công ty TNHH V phải nộp 112.200.000 đồng (một trăm mười hai
triệu hai trăm nghìn đồng) án phí kinh doanh thương mại thẩm 2.000.000
đồng (Hai triệu đồng) án phí kinh doanh thương mại phúc thẩm. Đối trừ số tiền
2.000.000 đồng tạm ứng án phí phúc thẩm Công ty TNHH V đã nộp theo
11
Biên lai thu tạm ứng án phí, lphí Tòa án số 0000240 ngày 05/02/2025 tại Chi
cục Thi hành án dân sự thị xã Kim Bảng, tỉnh Nam (nay Phòng Thi hành
án dân sự khu vực 5, tỉnh Ninh Bình).
Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành
án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân s
quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án
hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành
án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật
Thi hành án dân sự.
Các quyết định khác của bản án thẩm không kháng cáo, kháng nghị
đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Bản án kinh doanh thương mại phúc thẩm hiệu lực pháp luật ktừ ngày
tuyên án./.
Nơi nhận:
- Toà Phúc thẩm TANDTC tại Hà Nội;
- VKSND tỉnh Ninh Bình;
- Phòng GĐKTTT&THA Tòa án tỉnh;
- TAND khu vực 5, tỉnh Ninh Bình;
- VKSND khu vực 5, tỉnh Ninh Bình;
- PTHADS khu vực 5, tỉnh Ninh Bình;
- Các đương sự;
- Bộ phận HCTP;
- Toà dân sự;
- Lưu hồ sơ v án.
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa
(đã ký)
Nguyễn Đức Thủy
Tải về
Bản án số 04/2025/KDTM-PT Bản án số 04/2025/KDTM-PT

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án số 04/2025/KDTM-PT Bản án số 04/2025/KDTM-PT

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án/ Quyết định cùng đối tượng

Bản án cùng lĩnh vực

Bản án mới nhất