Bản án số 10/2025/KDTM-PT ngày 28/08/2025 của TAND tỉnh Lâm Đồng về tranh chấp về mua bán hàng hóa

  • Thuộc tính
  • Nội dung
  • VB gốc
  • VB liên quan
  • Lược đồ
  • Đính chính
  • Án lệ
  • BA/QĐ cùng nội dung
  • Tải về
Tải văn bản
Báo lỗi
  • Gửi liên kết tới Email
  • Chia sẻ:
  • Chế độ xem: Sáng | Tối
  • Thay đổi cỡ chữ:
    17

Thuộc tính Bản án 10/2025/KDTM-PT

Tên Bản án: Bản án số 10/2025/KDTM-PT ngày 28/08/2025 của TAND tỉnh Lâm Đồng về tranh chấp về mua bán hàng hóa
Quan hệ pháp luật: Tranh chấp về mua bán hàng hóa
Cấp xét xử: Phúc thẩm
Tòa án xét xử: TAND tỉnh Lâm Đồng
Số hiệu: 10/2025/KDTM-PT
Loại văn bản: Bản án
Ngày ban hành: 28/08/2025
Lĩnh vực: Kinh doanh thương mại
Áp dụng án lệ:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Đính chính:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Thông tin về vụ/việc: Không chấp nhận kháng cáo của Công ty trách nhiệm hữu hạn V1, chấp nhận kháng cáo của Công ty trách nhiệm hữu hạn L1, sửa Bản án Kinh doanh thương mại sơ thẩm số 01/2025/KDTM-ST ngày 24 tháng 4 năm 2025 của Tòa án nhân dân huyện Lâm Hà, tỉnh Lâm Đồng (nay là Tòa án nhân dân khu vực 3 – Lâm Đồng).
Tóm tắt Bản án

Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!

Tải văn bản

TÒA ÁN NHÂN DÂN
TỈNH LÂM ĐỒNG
Bản án số: 10/2025/KDTM-PT
Ngày: 28-8-2025
V/v: “Tranh chấp hợp đồng mua
bán hàng hóa, yêu cầu bồi thường
thiệt hại”.
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập – Tự do – Hạnh phúc
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH LÂM ĐỒNG
- Thành phn Hội đng xét x phúc thm gm có:
Thẩm phán - Chủ toạ phiên tòa: Ông Huỳnh Châu Thạch
Các Thẩm phán: Ông Nguyễn Thành Tâm
Bà Huỳnh Nguyễn Thanh Trúc
- Thư ký phiên toà: Trần Thị Tâm Thư Tòa án, Toà án nhân dân tỉnh
Lâm Đồng.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh m Đồng: Ông Đỗ Văn Phương
Kiểm sát viên tham gia phiên tòa.
Ngày 28 tháng 8 năm 2025 tại trụ sToà án nhân dân tỉnh Lâm Đồng; xét xử
phúc thẩm công khai vụ án thụ số 07/2025/TLPT-KDTM ngày 15 tháng 6 năm
2025 về tranh chấp: “Hợp đồng mua bán hàng hóa, yêu cầu bồi thường thiệt hại”.
Do Bản án Kinh doanh thương mại thẩm s 01/2025/KDTM-ST ngày 24
tháng 4 năm 2025 của Tòa án nhân dân huyện Lâm Hà, tỉnh Lâm Đồng (nay là Tòa
án nhân dân khu vực 3 – Lâm Đồng) bị kháng cáo.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số 236/2025/QĐ-PT ngày 02
tháng 7 năm 2025; Quyết định tạm ngừng phiên tòa số 03/2025/QĐ-PT ngày
24/7/2025; Thông báo về việc mở lại phiên tòa xét xử phúc thẩm vụ án Kinh doanh
thương mại số 455/TB-TA ngày 06/8/2025; Thông báo về việc dời thời gian xét xử
phúc thẩm vụ án Kinh doanh thương mại số 476/TB-TA ngày 14/8/2025 giữa các
đương sự:
Nguyên đơn: Công ty trách nhiệm hữu hạn V1; địa chỉ: khu công nghiệp A,
xã A, tỉnh Đồng Nai.
Người đại diện hợp pháp:
+ Ông J (Tổng Giám đốc), là người đại diện theo pháp luật, vắng mặt.
2
+ Ông Mạch Nguyễn Duy T, sinh năm: 1997, ông Trần Trung T1, sinh năm:
1971, ông Nguyễn Trần Trường P, sinh năm: 1978; địa chỉ liên lạc: số C, đường số
B, khu dân H, phường T, Thành phố Hồ Chí Minh, người đại diện theo ủy
quyền (Văn bản ủy quyền ngày 08/10/2024), ông T, ông P mặt; ông T1 vắng
mặt.
Bị đơn: Công ty trách nhiệm hữu hạn L1; địa chỉ: số A, thôn H, N, tỉnh
Lâm Đồng.
Người đại diện hợp pháp:
+ Ông Nguyễn Văn L (Giám đốc), là người đại diện theo pháp luật, có mặt.
+ Ông Phạm Xuân S, sinh năm: 1974; địa chỉ: tổ dân phố C, phường N, tỉnh
Lâm Đồng, người đại diện theo y quyền (Văn bản ủy quyền ngày 20/6/2025),
có mặt.
+ Ông Nguyễn Văn H, sinh năm: 1975; địa chỉ: số A, đường H, phường H,
tỉnh Đồng Nai, người đại diện theo ủy quyền (Văn bản ủy quyền ngày
04/7/2025), có mặt.
Người kháng cáo: Công ty trách nhiệm hữu hạn V1 Nguyên đơn và Công ty
trách nhiệm hữu hạn L1.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
- Theo nội dung đơn khởi kiện ngày 25/7/2024 của Công ty trách nhiệm hữu
hạn V1, lời trình bày tại các bản tự khai và trong quá trình tham gia tố tụng tại giai
đoạn sơ thẩm của ông Mạch Nguyễn Duy T, ông Trần Trung T1, ông Nguyễn Trần
Trường P, những người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn, thì: Từ tháng
10/2023 đến tháng 11/2023 giữa Công ty trách nhiệm hữu hạn V1 (sau đây gọi tắt
Công ty V1) Công ty trách nhiệm hữu hạn L1 (sau đây gọi tắt là Công ty L1)
ký với nhau 04 hợp đồng mua bán, theo đó Công ty L1 nhận cung cấp cho Công ty
V1 cà phê hạt (cà phê nhân), cụ thể như sau:
1. Hợp đồng số P001484 ngày 24/10/2023: số lượng: 100.000kg, giá:
60.700đ/kg. Chất lượng: phê nhân Raw 4C Farmer Connect 5% BBF, vụ
mùa 2023/2024 (R (FAQ), MC-13%, FM-1%, BB-5% (4C/UTZ/RA- 4%, FT-
3.5%), Crop 2023/2024). Thời gian giao hàng: 01/12/2023 - 31/12/2023;
2. Hợp đồng số P001573 ngày 07/11/2023: số lượng: 100.000kg, giá:
58.300đ/kg. Chất lượng: phê nhân Raw 4C Farmer Connect 5% BBF, vụ
mùa 2023/2024 (R (FAQ), MC-13%, FM-1%, BB-5% (4C/UTZ/RA-4%, FT-
3,5%), Vụ mùa 2023/2024). Thời gian giao hàng: 01/01/2024 - 31/01/2024;
3. Hợp đồng số P001615 ngày 14/11/2023: số lượng: 100.000kg, giá:
59.000đ/kg. Chất lượng: phê nhân Raw 4C Farmer Connect 5% BBF, vụ
mùa 2023/2024 (R (FAQ), MC-13%, FM-1%, BB-5% (4C/UTZ/RA- 4%, FT-
3.5%), Crop 2023/2024). Thời gian giao hàng: 01/01/2024 - 31/01/2024;
3
4. Hợp đồng s P001662 ngày 27/11/2023: số lượng: 100.000kg, giá:
59.800đ/kg. Chất lượng: phê nhân Raw 4C Farmer Connect 5% BBF, vụ
mùa 2023/2024 (R (FAQ), MC-13%, FM-1%, BB-5% (4C/UTZ/RA- 4%, FT-
3.5%), Crop 2023/2024). Thời gian giao hàng: 01/01/2024-31/01/2024.
Sau khi đồng ý giao kết hợp đồng, mặc chưa tên, đóng dấu và gửi lại
bản gốc các hợp đồng cho Công ty V1 (Công ty V1 đã đóng dấu trước vào
các hợp đồng rồi gửi cho Công ty L1) nhưng Công ty L1 đã thực hiện nghĩa v
quỹ theo thỏa thuận với số tiền tương ứng 03% trên tổng giá trị từng hợp đồng. Cụ
thể: ngày 27/10/2023 ký quỹ 182.100.000đ cho hợp đồng số P001484; ngày
09/11/2023 quỹ 174.900.000đ cho hợp đồng số P001573; ngày 17/11/2023
quỹ 177.000.000đ cho hợp đồng số P001615 ngày 06/12/2023 quỹ
179.400.000đ cho hợp đồng số P001622. Điều này cho thấy ý chí của Công ty L1
đồng ý mong muốn thực hiện đối với các hợp đồng Công ty V1 đã ký,
đóng dấu và gửi cho bị đơn. Mặc dù đã thực hiện việc quỹ để bảo đảm cho việc
thực hiện nghĩa vụ giao hàng nhưng Công ty L1 đã không thực hiện nghĩa vụ giao
hàng như đã thỏa thuận.
Công ty V1 đã nhiều lần yêu cầu Công ty L1 giao hàng nhưng vẫn không có
kết quả. Việc bị đơn không giao hàng làm ảnh hưởng đến hoạt động sản xuất kinh
doanh của Công ty V1, vậy Công ty V1 đã hợp đồng mua bán với 02 nhà
cung cấp khác để mua hàng cùng chất lượng cho hàng Công ty L1
không giao được. Các nhà cung cấp mới cụ thể là: ng ty trách nhiệm hữu hạn N,
địa chỉ: thôn V, H, huyện L, tỉnh Lâm Đồng; Công ty trách nhiệm hữu hạn C,
địa chỉ: thôn I, xã T, xã T, huyện D, tỉnh Lâm Đồng. Theo đó Công ty N cung cấp
số lượng 100.000kg với đơn giá 77.400đ/kg theo hợp đồng mua bán số
P001818 ngày 26/01/2024 (đính kèm); Công ty C cung cấp bù số lượng 200.000kg
với đơn giá 85.400đ/kg theo hợp đồng mua bản số P001872 ngày 28/02/2024
(đính kèm). Công ty C cung cấp bù số lượng 100.000kg với đơn giá 86.100đ/kg
theo hợp đồng mua bán số P001888 ngày 03/02/2024 (đính kèm).
Việc Công ty L1 không giao số lượng hàng còn lại đã gây ra thiệt hại cho
Công ty V1, cụ thCông ty V1 đã phải mua hàng từ nhà cung cấp khác với giá
cao hơn để bù cho lượng hàng mà ng ty L1 không giao được. Trong trường hợp
này, tổng số tiền V phải chênh lệch 9.502.050.597đ. Căn cứ theo thỏa
thuận tại các hợp đồng đã ký, Công ty L1 phải chịu trách nhiệm bồi thường cho V
số tiền chênh lệch này sau khi đã khấu trừ đi số tiền quỹ là 713.400.000đ. Số
tiền còn lại Công ty L1 phải bồi thường là 8.788.650.597đ.
- Theo lời trình bày của ông Nguyễn Văn H, người đại diện theo ủy quyền của
Công ty trách nhiệm hữu hạn L1, thì: việc Công ty V1 đơn khởi kiện yêu cầu
Công ty L1 phải bồi thường cho nguyên đơn stiền chênh lệch giá thị trường
(tạm tính đến ngày 05/7/2024) là 8.788.650.597đ tCông ty L1 không đồng ý với
4
toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn và có ý kiến như sau: nguyên đơn bị
đơn thỏa thuận với nhau về việc mua bán phê theo mức giá, thời gian và địa
điểm giao hàng bằng lời nói với điều kiện để đảm bảo cho việc thực hiện đầy đủ
quyền nghĩa vụ của thỏa thuận, bên bán phải quỹ cho bên mua số tiền tương
đương 03% giá trị hợp đồng. Để thể hiện thiện chí của bên bán, bị đơn đã chuyển
khoản cho nguyên đơn stiền quỹ 03% giá trị các hợp đồng với tổng số tiền
713.400.000đ.
Ngày 24/10/2023 bị đơn nhận được bản thảo hợp đồng mua bán cafe số
P001484, ngày 07/11/2023 bị đơn nhận được bản thảo hợp đồng mua bán cafe số
P001573, ngày 14/11/2023 bị đơn nhận được bản thảo hợp đồng mua bán cafe số
P001615, ngày 27/11/2023 bị đơn nhận được bản thảo hợp đồng mua bán cafe số
P001662 từ nguyên đơn. Tuy nhiên, khi nhận được các hợp đồng trên, bị đơn đã
xem xét lại nhận thấy các điều khoản hợp đồng không đúng như thỏa thuận ban
đầu của các bên, do đó bị đơn đã không đồng ý không vào các hợp đồng mà
nguyên đơn gửi cho bị đơn.
Khi thương lượng với nguyên đơn, bđơn mong muốn hợp đồng mua bán sẽ
thể hiện đúng như thỏa thuận, mục đích ban đầu của các bên. Tuy nhiên, hợp đồng
nguyên đơn gửi cho bđơn không đạt được nên bị đơn đã không vào các hợp
đồng này nên đương nhiên chưa hiệu lực pháp luật; chưa làm phát sinh quyền
nghĩa vụ của bị đơn nên nay nguyên đơn khởi kiện yêu cầu bị đơn phải thanh
toán số tiền chênh lệch giá thị trường (tạm tính đến ngày 05/7/2024)
8.788.650.59không sở nguyên đơn bị đơn chưa thực hiện việc
giao kết hợp đồng, hợp đồng chưa được tên từ bị đơn, như vậy thỏa thuận giữa
bên bán và bên mua chưa đạt được, hợp đồng chưa có hiệu lực pháp lý.
Ngoài ra, Công ty L1 đơn yêu cầu phản tố đề nghị Tòa án án giải quyết
buộc Công ty V1 phải trả lại cho bị đơn số tiền quỹ 713.400.000đ đã nhận
trước đó.
Tòa án đã tiến hành hòa giải nhưng không thành.
Tại Bản án s 01/2025/KDTM-ST ngày 04 tháng 4 năm 2025; Tòa án nhân
dân huyện Lâm Hà, tỉnh Lâm Đồng (nay Tòa án nhân dân khu vực 3 - Lâm
Đồng) đã xử:
1. Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của Công ty trách nhiệm hữu hạn
V1 về việc Tranh chấp hợp đồng mua bán hàng hóa, yêu cầu bồi thường thiệt hại”
với Công ty trách nhiệm hữu hạn L1.
Buộc Công ty trách nhiệm hữu hạn L1 phải bồi thường cho Công ty trách
nhiệm hữu hạn V1 số tiền 5.406.600.000đ.
5
Không chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của Công ty trách nhiệm hữu
hạn V1 về việc yêu cầu Công ty trách nhiệm hữu hạn L1 phải bồi thường số tiền là
3.382.050.597đ.
2. Không chấp nhận yêu cầu phản tố của Công ty trách nhiệm hữu hạn L1 yêu
cầu Công ty trách nhiệm hữu hạn V1 phải trả lại số tiền là 713.400.000đ.
Ngoài ra, Bản án còn tuyên về án phí, quyền kháng cáo trách nhiệm thi
hành án của các đương sự.
Ngày 08/5/2025 Công ty trách nhiệm hữu hạn V1 đơn kháng cáo, đề nghị
Tòa án cấp phúc thẩm xét xử theo hướng sửa Bản án thẩm, chấp nhận toàn bộ
yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.
Ngày 25/4/2025 Công ty trách nhiệm hữu hạn L1 đơn kháng cáo đề nghị
Tòa án cấp phúc thẩm sửa Bản án thẩm theo hướng không chấp nhận yêu cầu
khởi kiện của nguyên đơn, chấp nhận yêu cầu phản tố của bị đơn.
Tại phiên tòa,
Các đương sự vẫn giữ nguyên kháng cáo.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Lâm Đồng phát biểu về việc tuân theo
pháp luật trong quá trình giải quyết vụ án của Thẩm phán, Hội đồng xét xử các
đương sự tại giai đoạn phúc thẩm cũng như phiên tòa hôm nay: đã chấp hành đúng
quy định của Bộ luật Tố tụng Dân sự năm 2015. Về nội dung: Đề nghị không chấp
nhận kháng cáo của Công ty trách nhiệm hữu hạn V1; chấp nhận kháng cáo của
Công ty trách nhiệm hữu hạn L1, sửa Bản án sơ thẩm.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
[1] Quan hệ tranh chấp giữa các bên đã được Tòa án cấp thẩm xác định
theo đúng quy định của pháp luật; đơn kháng cáo của Công ty trách nhiệm hữu hạn
V1 và Công ty trách nhiệm hữu hạn L1 được thực hiện theo đúng quy định tại các
Điều 271, 272, 273 Bộ luật Tố tụng Dân sự năm 2015 nên đủ điều kiện để Hội
đồng xét xử xem xét giải quyết theo thủ tục phúc thẩm.
[2] Xét kháng cáo của Công ty trách nhiệm hữu hạn V1 Công ty trách
nhiệm hữu hạn L1 thì thấy rằng:
[2.1] Theo hồ sơ thể hiện:
Từ ngày 24/10/2023 đến ngày 27/11/2023 Công ty V1 chuyển Công ty L1 04
hợp đồng mua bán cà phê nhân, gồm hợp đồng số P001484 ký ngày 24/10/2023, số
lượng: 100.000kg, giá: 60.700đ/kg; hợp đồng số P001573 ngày 07/11/2023, số
lượng: 100.000kg, giá: 58.300đ/kg; hợp đồng số P001615 ký ngày 14/11/2023, số
lượng: 100.000kg, giá: 59.000đ/kg; hợp đồng số P001662 ký ngày 27/11/2023, số
6
lượng: 100.000kg, giá: 59.800đ/kg. Các hợp đồng này được nguyên đơn
đóng dấu sau đó chuyển cho bị đơn.
Theo lời trình bày của Công ty V1 thì sau khi các bên đồng ý giao kết các
hợp đồng nói trên, mặc chưa tên, đóng dấu gửi lại bản gốc các hợp đồng
cho Công ty V1 nhưng Công ty L1 đã thực hiện nghĩa vụ quỹ theo thỏa thuận
với số tiền tương ứng 3% trên tổng giá trị từng hợp đồng, điều này thể hiện bị đơn
đã mặc nhiên đồng ý với các điều khoản của các hợp đồng nguyên đơn đã
chuyển cho bị đơn. Công ty L1 đã thực hiện việc quỹ, tuy nhiên không thực
hiện nghĩa vụ giao hàng như đã thỏa thuận. Nguyên đơn đã nhiều lần yêu cầu bị
đơn giao hàng nhưng không có kết quả.
Công ty L1 không đồng ý với ý kiến vừa nêu của nguyên đơn vì cho rằng sau
khi nhận được các hợp đồng trên, bị đơn đã xem xét lại nhận thấy các điều
khoản hợp đồng không đúng như thỏa thuận ban đầu của các bên, do đó đã không
đồng ý với các điều khoản này không vào các hợp đồng nguyên đơn gửi
đến nên hợp đồng chưa phát sinh hiệu lực.
[2.2] Quá trình giải quyết vụ án nguyên đơn cho rằng sau khi Công ty V1
Công ty L1 thống nhất với nhau về nội dung hợp đồng thì nguyên đơn đã tiến hành
soạn thảo hợp đồng mua bán (hợp đồng song ngữ bao gồm tiếng Anh tiếng
Việt); người đại diện hợp pháp của Công ty trách nhiệm hữu hạn V1 sẽ tên và
đóng dấu vào phần bên mua ở cuối hợp đồng; sau đó nguyên đơn sẽ tiến hành scan
bản hợp đồng có chữ ký, con dấu và chuyển bằng thư điện tử cho Công ty L1.
Theo đó, Công ty L1 sẽ in, xác nhận, đóng dấu trên bản in chữ
con dấu của Công ty V1, đồng thời gửi lại thư điện tử cho Công ty V1 để xác nhận
và các bên bắt đầu thực hiện việc ký quỹ, giao nhận hàng hóa, thanh toán tiền hàng
theo thỏa thuận. Song song với việc gửi hợp đồng mua bán hàng hóa bằng thư điện
tử, Công ty V1 sẽ gửi 02 bản cứng (bản giấy) hợp đồng mua bán đã ký qua dịch vụ
bưu chính để Công ty L1 ký, đóng dấu xác nhận chuyển lại theo đường bưu
chính cho Công ty V1 để lưu giữ…Trên thực tế, nhân viên của Công ty V1 liên lạc
và thỏa thuận nội dung theo hợp đồng trực tiếp với ông Nguyễn Văn L là Giám đốc
Công ty L1 qua số điện thoại của ông Nguyễn Văn L là 0978.011038.
Như vậy, trên thực tế thì Công ty V1 chỉ mới thể hiện việc đề nghị giao kết
hợp đồng bằng việc soạn thảo hợp đồng sau đó tiến hành scan bản hợp đồng
chữ ký, con dấu của Công ty và chuyển bằng thư điện tử cho Công ty L1. Theo đó,
Công ty L1 sẽ in, xác nhận, đóng dấu trên bản in chữ và con dấu của
Công ty V1, đồng thời gửi lại thư điện tử cho Công ty V1 để xác nhận các bên
bắt đầu thực hiện việc quỹ, giao nhận hàng hóa, thanh toán tiền hàng theo thỏa
thuận. Song song với việc gửi hợp đồng mua bán hàng hóa bằng thư điện tử, Công
ty V1 sẽ gửi 02 bản cứng (bản giấy) hợp đồng mua bán đã qua dịch vụ bưu
chính đCông ty L1 ký, đóng dấu xác nhận chuyển lại theo đường bưu chính
7
cho Công ty V1 đlưu giữ…Tuy nhiên, quá trình Công ty V1 thực hiện việc soạn
thảo hợp đồng sau khi gửi cho Công ty L1 thì bị đơn vẫn không ý kiến nào
phản hồi về việc sẽ ký hoặc không ký các hợp đồng nói trên, đồng thời Công ty L1
cũng lý giải việc không vào các hợp đồng do Công ty V1 gửi đến còn nhiều
nội dung chưa thống nhất trong hợp đồng. Theo nội dung các hợp đồng này thì
“Hợp đồng này sẽ hiệu lực kể từ ngày ký…”; như vậy hợp đồng chỉ phát sinh
hiệu lực khi hai bên đã vào hợp đồng. Do bị đơn chưa vào các hợp đồng do
nguyên đơn chuyển đến nên chưa làm phát sinh quyền và nghĩa vụ của các bên.
Như vậy, trên thực tế Công ty L1 chưa đóng dấu vào các hợp đồng nói
trên, bị đơn cũng chưa ý kiến phản hồi sẽ thực hiện việc giao kết hợp đồng
như hai bên đã thỏa thuận, nguyên đơn cũng không xuất trình được tài liệu, chứng
cứ nào chứng minh về việc bị đơn đồng ý giao kết hợp đồng do đó hợp đồng chưa
hiệu lực, chưa làm phát sinh quyền nghĩa vụ của các bên. Nguyên đơn cho
rằng việc bị đơn chuyển tiền ký quỹ tương ứng với 03% giá trị của từng hợp đồng
cho Công ty V1 mặc nhiên thống nhất với các điều khoản của các hợp đồng
nguyên đơn đã gửi làm phát sinh hiệu lực của hợp đồng không phù hợp với
quy định của pháp luật.
Do đó, việc Công ty V1 cho rằng Công ty L1 vi phạm hợp đồng phải
trách nhiệm bồi thường thiệt hại cho nguyên đơn số tiền 8.788.650.597đ do vi
phạm điều khoản không giao hàng đúng thời hạn là không có căn cứ chấp nhận.
[3] Đối với kháng cáo của Công ty L1 yêu cầu Công ty V1 trả lại số tiền
713.400.000đ thì thấy rằng:
Theo hồ sơ thể hiện Công ty L1 đã thực hiện nghĩa vụ quỹ theo thỏa thuận
với số tiền tương ứng 03% trên tổng giá trị từng hợp đồng. Cụ thể: ngày
27/10/2023 quỹ s tiền 182.100.000đ cho hợp đồng số P001484; ngày
09/11/2023 quỹ s tiền 174.900.000đ cho hợp đồng số P001573; ngày
17/11/2023 ký quỹ số tiền 177.000.000đ cho hợp đồng số P001615 và ngày
06/12/2023 ký quỹ số tiền 179.400.000đ cho hợp đồng số P001622.
Quá trình giải quyết vụ án Công ty V1 thừa nhận đã nhận số tiền
713.400.000đ của Công ty L1 chuyển để đảm bảo cho việc thục hiện hợp đồng.
Theo quy định tại Điều 330 của Bộ luật Dân sự năm 2015 thì: “1. quỹ
việc bên nghĩa vụ gửi một khoản tiền hoặc kim kquý, đá quý hoặc giấy tờ
giá vào tài khoản phong tỏa tại một tổ chức tín dụng để bảo đảm việc thực hiện
nghĩa vụ.
2. Trường hợp bên nghĩa vụ không thực hiện hoặc thực hiện không đúng
nghĩa vụ thì bên có quyền được tổ chức tín dụng nơi ký quỹ thanh toán, bồi thường
thiệt hại do bên có nghĩa vụ gây ra, sau khi trừ chi phí dịch vụ.
3. Thủ tục gửi và thanh toán thực hiện theo quy định của pháp luật”.
8
Tại phiên tòa hôm nay nguyên đơn thừa nhận việc quỹ này không phù
hợp với quy định của pháp luật, nếu bị đơn không giao hàng thì cũng không mất số
tiền này. Quá trình giải quyết vụ án cũng như tại phiên tòa hôm nay nguyên đơn
chỉ yêu cầu bị đơn bồi thường thiệt hại, đối với stiền quỹ chỉ yêu cầu trừ vào
số tiền yêu cầu bồi thường thiệt hại chứ không yêu cầu trong tờng hợp bị đơn vi
phạm nghĩa vụ giao kết và thực hiện hợp đồng thì phải mất số tiền ký quỹ nói trên.
Do không sở để chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn vviệc u
cầu bị đơn phải bồi thường thiệt hại nên không căn cứ đcấn trừ số tiền ký quỹ
vào số tiền mà bị đơn phải bồi thường cho nguyên đơn cần chấp nhận yêu cầu
phản tố của bị đơn để buộc nguyên đơn phải trả lại số tiền qunói trên đúng
quy định của pháp luật.
[4] Từ những phân tích trên, không căn cứ để chấp nhận kháng cáo của
Công ty trách nhiệm hữu hạn V1; chấp nhận kháng cáo của Công ty trách nhiệm
hữu hạn L1, sửa Bản án sơ thẩm theo hướng đã nhận định.
[5] Về án phí:
Công ty trách nhiệm hữu hạn V1 phải chịu án phí Kinh doanh thương mại đối
với yêu cầu khởi kiện không được chấp nhận 9.502.050.597đ, án phí
117.502.000đ (làm tròn) {112.000.000đ + 0,1% x 5.502.050.597đ} và phải chịu án
phí Kinh doanh thương mại thẩm trên số tiền phải trả lại cho bị đơn
713.400.000đ, án phí là 32.536.000đ {20.000.000đ + 4% x 313.400.000đ}, tổng án
phí là 150.038.000đ.
Do kháng cáo không được chấp nhận nên Công ty V1 phải chịu án phí Kinh
doanh thương mại phúc thẩm.
Do yêu cầu phản tố và kháng cáo được chấp nhận nên Công ty L1 không phải
chịu án phí Kinh doanh thương mại sơ thẩm và phúc thẩm.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH:
- Căn cứ khoản 2 Điều 308 Bộ luật Tố tụng Dân sự năm 2015;
- Căn cứ các Điều 24, 37, 292, 300, 301, 302, 307, 317 Điều 319 Luật
Thương mại;
- Căn cứ Điều 330 Bộ luật Dân sự năm 2015;
- Căn cứ khoản 4 Điều 26, khoản 2 Điều 29 Nghị quyết số
326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy
định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;
Không chấp nhận kháng cáo của Công ty trách nhiệm hữu hạn V1, chấp nhận
kháng cáo của Công ty trách nhiệm hữu hạn L1, sửa Bản án Kinh doanh thương
9
mại thm s 01/2025/KDTM-ST ngày 24 tháng 4 năm 2025 của Tòa án nhân
dân huyện Lâm Hà, tỉnh Lâm Đồng (nay Tòa án nhân dân khu vực 3 Lâm
Đồng).
Tuyên xử:
1. Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Công ty trách nhiệm hữu hạn V1
về việc “Tranh chấp hợp đồng mua bán tài sản, yêu cầu bồi thường thiệt hại” đối
với Công ty trách nhiệm hữu hạn L1 về việc yêu cầu Công ty L1 phải bồi thường
số tiền 9.502.050.597đ (chín tỷ năm trăm lẻ hai triệu không trăm năm mươi
nghìn năm trăm chín mươi bảy đồng).
2. Chấp nhận yêu cầu phản tố của ng ty trách nhiệm hữu hạn L1 về việc
yêu cầu Công ty trách nhiệm hữu hạn V1 phải trả lại tiền ký quỹ.
Buộc Công ty V1 phải trả lại cho Công ty L1 số tiền 713.400.000đ (bảy trăm
mười ba triệu bốn trăm nghìn đồng).
3. Về án phí:
- Án phí sơ thẩm:
+ Công ty trách nhiệm hữu hạn V1 phải chịu 150.038.000đ án phí Kinh doanh
thương mại sơ thẩm; được trừ vào số tiền 58.394.000đ tạm ứng án phí Kinh doanh
thương mại thẩm đã nộp theo Biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số
0005117 ngày 10/10/2024 của Chi cục Thi hành án Dân sự huyện m Hà, tỉnh
Lâm Đồng (nay Phòng Thi hành án Dân sự khu vực 3 Lâm Đồng); Công ty
trách nhiệm hữu hạn V1 còn phải nộp 91.644.000đ án phí Kinh doanh thương mại
sơ thẩm còn thiếu.
+ Công ty trách nhiệm hữu hạn L1 không phải chịu án phí Kinh doanh thương
mại thẩm. ng ty L1 được nhận lại số tiền 16.268.000đ tạm ứng án phí Kinh
doanh thương mại sơ thẩm đã nộp theo Biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án
số 0005234 ngày 11/11/2024 của Chi cục Thi hành án Dân sự huyện Lâm Hà, tỉnh
Lâm Đồng (nay là Phòng Thi hành án Dân sự khu vực 3 – Lâm Đồng).
- Án phí phúc thẩm:
+ Công ty trách nhiệm hữu hạn V1 phải chịu 2.000.000đ án phí Kinh doanh
thương mại phúc thẩm; được trừ vào số tiền 2.000.000đ tạm ứng án phí Kinh
doanh thương mại phúc thẩm đã nộp theo Biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa
án số 0005478 ngày 23/5/2025 của Chi cục Thi hành án Dân sự huyện m Hà,
tỉnh Lâm Đồng (nay Phòng Thi hành án Dân sự khu vực 3 Lâm Đồng); Công
ty V1 đã nộp đủ án phí Kinh doanh thương mại phúc thẩm.
+ Công ty trách nhiệm hữu hạn L1 không phải chịu án phí Kinh doanh thương
mại phúc thẩm; ng ty L1 được nhận lại số tiền 2.000.000đ tạm ứng án phí Kinh
doanh thương mại phúc thẩm đã nộp theo Biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa
10
án số 0005476 ngày 23/5/2025 của Chi cục Thi hành án Dân sự huyện Lâm Hà,
tỉnh Lâm Đồng (nay là Phòng Thi hành án Dân sự khu vực 3 – Lâm Đồng).
4. Về nghĩa vụ thi hành án:
Kể tngày Bản án hiệu lực pháp luật kể từ ngày đơn yêu cầu thi
hành án của người được thi hành án (đối với các khoản tiền phải trả cho người
được thi hành án) cho đến khi thi hành án xong, bên phải thi hành án còn phải chịu
khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại Điều
357, Điều 468 của Bộ luật Dân sự năm 2015.
Trường hợp Bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi nh án
Dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự quyền
thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị
cưỡng chế thi hành án theo các quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b 9 Luật Thi
hành án n sự, thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30
Luật Thi hành án Dân sự.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án./.
Nơi nhận:
- VKSND tỉnh Lâm Đồng (01);
- Phòng Gđ, Ktr, Ttr & THA (01);
- TAND khu vực 3 – Lâm Đồng (01);
- THADS tỉnh Lâm Đồng (01);
- Các đương sự (02);
- Lưu: bộ phận lưu trữ, hồ sơ vụ án (03).
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM
THẨM PHÁN – CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
Huỳnh Châu Thạch
Tải về
Bản án số 10/2025/KDTM-PT Bản án số 10/2025/KDTM-PT

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án số 10/2025/KDTM-PT Bản án số 10/2025/KDTM-PT

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án/ Quyết định cùng đối tượng

Bản án cùng lĩnh vực

Bản án mới nhất