Bản án số 03/2022/HS-ST ngày 12/01/2022 của TAND Q. Hoàn Kiếm, TP. Hà Nội về tội trộm cắp tài sản
- Thuộc tính
- Nội dung
- VB gốc
- VB liên quan
- Lược đồ
- Đính chính
- Án lệ
- BA/QĐ cùng tội danh
- Tải về
-
Bản án số 03/2022/HS-ST
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Thuộc tính Bản án 03/2022/HS-ST
Tên Bản án: | Bản án số 03/2022/HS-ST ngày 12/01/2022 của TAND Q. Hoàn Kiếm, TP. Hà Nội về tội trộm cắp tài sản |
---|---|
Tội danh: | 138.Tội trộm cắp tài sản (Bộ luật hình sự năm 1999) |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Tòa án xét xử: | TAND Q. Hoàn Kiếm (TAND TP. Hà Nội) |
Số hiệu: | 03/2022/HS-ST |
Loại văn bản: | Bản án |
Ngày ban hành: | 12/01/2022 |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Áp dụng án lệ: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Đính chính: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Thông tin về vụ án: |
Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!
Tải văn bản
TOÀ ÁN NHÂN DÂN QUẬN HOÀN KIẾM, HÀ NỘI
BẢN ÁN 03/2022/HS-ST NGÀY 12/01/2022 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN
Trong ngày 12 tháng 01 năm 2022 tại trụ sở Toà án nhân dân quận Hoàn Kiếm xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số: 272/2021/TL - HSST ngày 26/11/2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 272/2021/QĐXX - ST ngày 17/12/2021 đối với bị các bị cáo:
1.Họ và tên: Vũ Thanh S, Giới tính: Nữ, Sinh năm: 1971 Tên gọi khác: Vũ Thị Thanh S ĐKNKTT: 2B6 TTND, phường Phúc X, quận Ba Đình, Hà Nội.
Nơi ở: Tổ 10 phường TL, quận Tây Hồ, Hà Nội.
Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ học vấn: 7/12; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Họ và tên cha: Vũ VT, sinh năm 1930; Họ và tên mẹ: Trương Thị Y, sinh năm 1931 Nhân thân: tiền sự: 03 tiền án, 06 tiền sự
Tiền sự:
- Từ năm 1986 đến năm 1995, 06 lần bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi trộm cắp tài sản - ngoài thời hiệu.
Tiền án :
- Ngày 30/11/1992, Tòa án nhân dân quận Ba Đình xử phạt 12 tháng tù nhưng cho hưởng án treo về tội „Trộm cắp tài sản công dân‟, không xác định giá trị tài sản (Á : 270/HSST) – Xác minh tại chi cục thi hành án dân sự quận Ba Đình : Tháng 7 năm 1993 Chi cục thi hành án dân sự quận Ba Đình mới được thành lập nên tại đây không còn lưu giữ các bản án trước đó, do vậy không có căn cứ để cung cấp trả lời xác minh bản án trên ( theo điểm a, khoản 2 điều 60 BLHS năm 2015 và điểm b khoản 1 điều 61 luật thi hành án dân sự năm 2008 sửa đổi bổ sung năm 2014)- án đã được xóa theo nguY tắc có lợi - Ngày 12/7/1993, Toà án nhân dân quận Hoàn Kiếm xử phạt 27 tháng tù về tội Trộm cắp tài sản, không xác định giá trị tài sản (AS: 222/HSST). Xác minh tại Chi cục Thi hành án dân sự quận Ba Đình: Đã ra quyết định đình chỉ thi hành án phí HSST đối với Vũ Thanh S từ tháng 12/1993 - Án đã xóa.
- Ngày 19/9/1996, Toà án nhân dân thành phố Hà Nội xử phạt 30 tháng tù về tội Trộm cắp tài sản, không xác định giá trị tài sản (AS: 934/HSST). Chấp hành xong ngày 18/11/1998. Xác minh tại Chi cục Thi hành án dân sự quận Hai Bà Trưng chưa nộp án phí HSST – Án chưa được xóa.
Hiện bị can đang bị áp dụng biện pháp ngăn chặn Cấm đi khỏi nơi cư trú.
2. Họ và tên: Vũ Thị Huyền T Giới tính: Nữ Sinh năm: 1991 Tên gọi khác: Không ĐKNKTT: 2B6 TTND, phường Phúc X, quận Ba Đình, thành phố Hà Nội.
Nơi ở: Tổ 10 phường TL, quận Tây Hồ, thành phố Hà Nội.
Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ học vấn: 6/12; Quốc tịch: Việt Nam. Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Họ và tên mẹ: Vũ Thanh S, sinh năm: 1971 Nhân thân: tiền án, tiền sự: Không Hiện bị can đang bị áp dụng biện pháp ngăn chặn Cấm đi khỏi nơi cư trú.
3. Họ và tên: Vũ Hoài S, Giới tính: Nam; Sinh năm: 1987 Tên gọi khác: Không ĐKNKTT: P6L1 Tập thể Bộ thuỷ lợi, phường Chương Dương, quận Hoàn Kiếm, Hà Nội Nơi ở: Số 8 ngách 8/1 hẻm 35/76 An D, phường Y P, quận Tây Hồ, Hà Nội.
Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ học vấn: 10/12; Quốc tịch: Việt Nam.
Dân tộc: Kinh ; Tôn giáo: Không ; Họ và tên cha: Vũ An Đ – đã chết; Họ và tên mẹ: Lù Thị Đ – đã chết Nhân thân: tiền án, tiền sự: Không Hiện bị can đang bị áp dụng biện pháp ngăn chặn Cấm đi khỏi nơi cư trú.
Các bị cáo đều có mặt tại phiên tòa
Người bị hại: Anh Vũ C T , sinh năm: 1985; (vắng mặt) HKTT: Đội 12 thôn Thận Y, xã Y Nam, huyện Duy Tiên, tỉnh Hà Nam Địa chỉ: Nhà 25 ngõ 217 Định Công Thượng, quận Hoàng Mai, Tp Hà Nội
Người có quyền lợi và nghĩa và nghĩa vụ liên quan:
1. Bà KH, sinh năm ; Địa chỉ: Số 40 Hàng C phường Cát L, quận Đống Đa, Hà Nội.( Vắng mặt- đã có đơn xin xét xử vắng mặt) 2. Anh H A T, sinh năm 1978; NKTT: 139 Nguyễn Thái H, Điện B, Ba Đình, Hà Nội (vắng mặt) Địa chỉ: Số 47/24 Ngọc L, phường Ngọc L, Gia Lâm, Hà Nội.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Hồi 16 giờ 05 phút ngày 15/5/2021, anh Vũ C T (sinh năm: 1985; HKTT: Đội 12 thôn Thận Y, xã Y Nam, huyện Duy Tiên, tỉnh Hà Nam) đến Công an phường Cửa Nam trình báo về việc bị mất trộm 09 máy công trình các loại gồm: 01 máy cắt góc nhãn hiệu MAKITA GA9060 (230mm) màu xanh; 01 máy khoan 710W Maktec MT813 màu cam; 01 máy đục bê tông nhãn hiệu KYNKO màu cam trắng, mã sản phẩm: Z1G – KD52-150; 01 máy đục bê tông hãng KYNKO màu cam đen, mã sản phẩm: Z1G - KD23 – 60; 05 máy đục bê tông màu xanh nhãn hiệu MAKITA HM1306 màu xanh tại số 22 Đình Ngang, phường Cửa Nam, quận Hoàn Kiếm, Hà Nội.
Tại bản kết luận định giá tài sản số 120 ngày 22/5/2021 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự quận Hoàn Kiếm kết luận: 01 máy mài góc nhãn hiệu MAKITA GA9060 (230mm) màu xanh, đã qua sử dụng tại thời điểm bị chiếm đoạt có giá trị là: 1.100.000 đồng; 01 máy khoan 710W Maktec MT813 màu cam, đã qua sử dụng tại thời điểm bị chiếm đoạt có giá trị là: 500.000 đồng; 01 máy đục bê tông nhãn hiệu KYNKO màu cam trắng, mã sản phẩm: Z1G – KD52-150, đã qua sử dụng tại thời điểm bị chiếm đoạt có giá trị là: 1.600.000 đồng; 01 máy đục bê tông hãng KYNKO màu cam đen trắng, mã sản phẩm: Z1G - KD23 – 60, đã qua sử dụng tại thời điểm bị chiếm đoạt có giá trị là: 1.800.000 đồng; 05 máy đục bê tông nhãn hiệu MAKITA HM1306 màu xanh, đã qua sử dụng tại thời điểm bị chiếm đoạt có giá trị là:
25.000.000 đồng. Tổng trị giá tài sản anh Thắng bị chiếm đoạt là: 30.000.000 đồng.
(BL 31 – 32) Quá trình điều tra xác định: 04 đối tượng trộm cắp tài sản của anh Thắng là Vũ Thanh S, Vũ Thị Huyền T, Vũ Hoài S và Vũ Thị K H. Sau khi trộm cắp tài sản, các đối tượng chở tang vật đến phố Hàng C phường Cát L, quận Đống Đa, Hà Nội tiêu thụ.
Tại cơ quan điều tra, Vũ Thanh S khai: Rạng sáng ngày 15/5/2021, S điều khiển xe máy Honda Wave màu đỏ (không nhớ biển kiểm soát) chở con gái là Vũ Thị K H (sinh ngày 28/3/2006) đi trộm cắp mèo. Khi đi qua số nhà 22 Đình Ngang, phường Cửa Nam, quận Hoàn Kiếm, Hà Nội, S nhìn thấy công trình đang căng bạt xây sửa đã chui vào trong đi vệ sinh. Khi vệ sinh xong, S phát hiện trong công trình có 09 máy đục, khoan, cắt bê tông không có người trông coi nên đã nảy sinh ý định trộm cắp. S một mình chuyển số máy trên ra ngoài cửa công trình bên trong tấm bạt che sau đó gọi điện thoại cho con gái là Vũ Thị Huyền T cùng con rể là Vũ Hoài S bảo ra số 22 Đình Ngang có việc cần nhờ. Khi vợ chồng S, T ra đến nơi, Vũ Thanh S nói vừa lấy trộm được một số máy công trình, nhờ T và S chở ra phố Hàng Cháo bán giúp.
Ban đầu T có khuY S đừng lấy trộm nhưng S không nghe nên vợ chồng T, S đồng ý giúp đỡ. Vũ Thanh S cùng Vũ Hoài S đi vào bên trong công trình chuyển số máy trên ra xe máy của T và Hoa đợi ở bên ngoài sau đó mang đến số 40 Hàng Cháo bán cho một người phụ nữ không quen biết với giá 5.000.000 đồng. Nhận tiền xong, S chia cho Vũ Thị K H 400.000 đồng, Vũ Thị Huyền T 300.000 đồng, Vũ Hoài S 300.000 đồng, còn lại 4.000.000 đồng S chi tiêu cá nhân hết. Đối với chiếc máy nhãn hiệu Honda Wave màu đỏ, S đã bán cho một nam thanh niên không quen biết tại cổng chợ Long Biên; chiếc điện thoại dùng để liên hệ với T, S đã vứt ở khu vực gầm cầu Chương Dương. (BL 81 – 88) Vũ Hoài S, Vũ Thị Huyền T và Vũ Thị K H khai phù hợp với lời khai của Vũ Thanh S về việc các đối tượng cùng thực hiện hành vi trộm cắp 09 chiếc máy khoan, cắt, đục bê tông tại công trình xây dựng số 22 Đình Ngang. Vũ Thanh S và Vũ Hoài S là người trực tiếp vào công trình lấy trộm tài sản, Vũ Thị Huyền T và Vũ Thị K H đứng ngoài cảnh giác sau đó T điều khiển xe máy Honda Wave màu xanh biển kiểm soát: 29C1 – 833.77 chở Vũ Hoài S, Hoa điều khiển xe máy Honda Wave màu đỏ chở Vũ Thanh S mang tài sản trộm cắp đi tiêu thụ. (BL 117 – 130; 151 – 152;
166 – 179). Đối với Vũ Thị K H, do thời điểm phạm tội Hoa 15 tuổi 1 tháng 17 ngày nên Cơ quan điều tra không xử lý đối với hành vi “Trộm cắp tài sản” là có căn cứ. Tuy nhiên, cần xác minh làm rõ việc Hoa mang thai và sinh con khi chưa đủ 16 tuổi có dấu hiệu của tội “Giao cấu hoặc thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác với người từ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi”, nên ngày 30/9/2021 Cơ quan điều tra đã tách rút tài liệu liên quan đến Vũ Thị Kim H để tiếp tục xác minh. (Quyết định phân công Phó thủ trưởng, Điều tra viên giải quyết tin báo, tố giác tội phạm số 465 ngày 04/10/2021). (BL 267) Người liên quan là chị KH khai phù hợp với lời khai của Vũ Thanh S, Vũ Hoài S, Vũ Thị Huyền T và Vũ Thị K H về việc đã mua 09 máy đục, khoan, cắt bê tông vào rạng sáng ngày 15/5/2021 tại số 40 Hàng C phường Cát L, quận Đống Đa, Hà Nội. (BL 200 – 202). Cơ quan điều tra đã tiến hành cho chị KH nhận dạng Vũ Thanh S, kết quả chị Liên nhận ra S chính là người đã bán 09 chiếc máy công trình cho chị Liên. (BL 240 – 241).
Anh H A T khai phù hợp với lời khai của chị KH về việc đã mua 05 chiếc máy đục bê tông Makita HM 1306 màu xanh vào ngày 20/5/2021.
(BL 206; 210 – 216) với giá 18.000.000 đồng. Anh Tuấn đã giao nộp cho cơ quan điều tra 05 máy đục bê tông, anh đã nhận lại đủ 18.000.000 đồng và không có yêu cầu gì.
Đối với chị KH và anh H A T, tài liệu điều tra xác định không biết nguồn gốc tài sản mua lại của Vũ Thanh S là tài sản trộm cắp mà có nên Cơ quan điều tra không xem xét xử lý. Chị KH không yêu cầu gì về bồi thường dân sự (BL 202b) Người bị hại là anh Vũ C T khai phù hợp với lời khai của các đối tượng về nội dung sự việc. Ngày 03/6/2021, Cơ quan Cảnh sát điều tra – Công an quận Hoàn Kiếm đã trả lại 01 máy mài, 07 máy đục bê tông và 300.000 đồng. Sau khi nhận lại tài sản, anh Thắng không có yêu cầu khác về dân sự. (BL 44) Đối với 01 máy khoan 710W Maktec MT813 màu cam chị KH bán cho 01 người khách không quen biết, Cơ quan điều tra đã ra thông báo truy tìm tang vật nhưng chưa có kết quả. (BL 38) Đối với chiếc xe máy Honda Wave màu xanh biển kiểm soát: 29C1 – 833.77, số khung: 3916LY024193, số máy: JA39E1357284 mà Vũ Hoài S dùng để chở Vũ Thị Huyền T đi trộm cắp tài sản, quá trình điều tra xác định chủ sở hữu là anh Vũ Hoài Nam (sinh năm: 1985; Trú tại: P6-L1 TT Bộ Thủy lợi, phường Chương Dương, quận Hoàn Kiếm, Hà Nội) là anh ruột của Vũ Hoài S. Anh Nam trình bày không biết việc Vũ Hoài S sử dụng xe của anh Nam để trộm cắp tài sản. Ngày 13/9/2021, Cơ quan điều tra đã trả lại chiếc xe trên cho anh Nam. Sau khi nhận lại tài sản, anh Nam không có yêu cầu khác về dân sự. (BL 187) Cáo trạng số 241/CT - VKS ngày 20/10/2021 của Viện kiểm sát nhân dân quận Hoàn Kiếm truy tố Vũ Thanh S, Vũ Thị Huyền T và Vũ Hoài S về tội “Trộm cắp tài sản” quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự;
Tại phiên toà, các bị cáo khai nhận như đã khai tại cơ quan điều tra và công nhận nội dung bản cáo trạng đã truy tố bị cáo là đúng và đề nghị xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân quận Hoàn Kiếm giữ nguY cáo trạng truy tố Vũ Thanh S, Vũ Thị Huyền T và Vũ Hoài S về tội “Trộm cắp tài sản” quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự; Đề nghị HĐXX: Áp dụng khoản 1 Điều 173, điểm s khoản 1 điều 51, điểm h khoản 1 điều 52; Điều 17, Điều 38 BLHS xử phạt bị cáo Vũ Thanh S mức án từ 24 tháng đến 30 tháng tù; Áp dụng khoản 1 Điều 173, điểm s, điểm i khoản 1 điều 51, Điều 17, Điều 38 BLHS xử phạt bị cáo Vũ Hoài S từ 12 tháng đến 15 tháng tù. Áp dụng khoản 1 Điều 173, điểm s, điểm i khoản 1 điều 51, Điều 17, Điều 65 BLHS xử phạt Vũ Thị Huyền T mức án từ 10 đến 12 tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách từ 20 đến 24 tháng kể từ ngày tuY án sơ thẩm. Giao bị cáo về chính quyền địa phương nơi bị cáo cư trú để giám sát giáo dục trong thời gian thử thách.
Các bị cáo không có điều kiện thu nhập ổn định nên không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền theo quy định tại Khoản 5 Điều 173 Bộ luật hình sự Về dân sự: Người bị hại là anh Vũ C T đã nhận lại tài sản, không có yêu cầu gì về dân sự và những người liên quan bà KH, anh H A T không có yêu cầu gì nên không xem xét Vật chứng: không.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Lời khai nhận về hành vi phạm tội của các bị cáo Vũ Thanh S, Vũ Thị Huyền T và Vũ Hoài S tại phiên tòa phù hợp với nội dung Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân quận Hoàn Kiếm đã truy tố, phù hợp với lời khai của người bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, vật chứng đã thu giữ và các chứng cứ tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án có đủ cơ sở kết luận: Khoảng 04 giờ 00 phút ngày 15/5/2021, tại số 22 Đình Ngang, phường Cửa Nam, quận Hoàn Kiếm, Hà Nội, các bị cáo Vũ Thanh S, Vũ Thị Huyền T và Vũ Hoài S đã thực hiện hành vi trộm cắp 09 chiếc máy khoan, đục, cắt bê tông với tổng trị giá 30.000.000 đồng của anh Vũ C T.
Hành vi nêu trên của các bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 1 điều 173 Bộ luật Hình sự như cáo trạng truy tố của Viện kiểm sát nhân dân quận Hoàn Kiếm là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.
[2] Xét tính chất hành vi phạm tội, nhân thân của bị cáo: Hành vi phạm tội của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của người khác, gây mất trật tự trị an xã hội và gây bất bình trong nhân dân.
Trong vụ án này có đồng phạm nhưng là đồng phạm giản đơn trong đó bị cáo Vũ Thanh S giữ vai trò chính. Bị cáo là người phát hiện trong công trình có 09 máy đục, khoan, cắt bê tông không có người trông coi và một mình bị cáo chuyển số máy trên ra ngoài cửa công trình bên trong tấm bạt che sau đó gọi điện thoại cho Huyền T và Vũ Hoài S ra số 22 Đình Ngang nhờ T và S chở ra phố Hàng Cháo bán giúp. Sau khi bán được số tài sản trên được 5.000.000 đồng, một mình bị cáo chi tiêu 4.000.000 đồng. Bản thân bị cáo S nhân thân đã nhiều tiền sự về hành vi trộm cắp và 03 tiền án về tội trộm cắp. Trong đó 2 tiền án đã được xóa án tích, các tiền sự về tội trộm cắp đã hết thời hiệu, bị cáo có 01 tiền án về tội trộm cắp chưa được xóa án tích nên xác định lần phạm tội này của bị cáo là tái phạm.
Bị cáo đã bị cơ quan pháp luật xử lý hình sự nhiều lần lần nhưng không lấy đó làm bài học mà còn cố tình phạm tội nên Hội đồng xét xử thấy phải xử phạt nghiêm minh và áp dụng một mức hình phạt đối với bị cáo cao hơn bị cáo T và bị cáo Vũ Hoài S, cần cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội mới có đủ tác dụng răn đe và phòng ngừa chung.
Đối với bị cáo T và bị cáo Vũ Hoài S mặc dù biết bị cáo Thanh S trộm cắp tài sản nhưng vẫn giúp sức cho bị cáo Vũ Thanh S thực hiện việc trộm cắptài sản. Vai trò thấp hơn nên mức hình phạt thấp hơn bị cáo Thanh S.
Khi lượng hình Hội đồng xét xử có xem xét thái độ khai báo thành khẩn, ăn năn hối cải, áp dụng điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ LHS để giảm nhẹ một phần hình phạt cho các bị cáo. Đối với bị cáo Vũ Thị Huyền T và Vũ Hoài S cần áp dụng thêm tình tiết giảm nhẹ “phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng” theo quy định tại điểm i khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự, các bị cáo có nơi cư trú rõ ràng nên áp dụng Điều 65 cho các bị cáo được hưởng án treo Xét các bị cáo không có điều kiện thu nhập ổn định nên không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền theo quy định tại Khoản 5 Điều 173 Bộ luật hình sự.
[3] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an quận Hoàn Kiếm, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân quận Hoàn Kiếm, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[4] Về dân sự: Người bị hại đã nhận lại tài sản bị mất, không yêu cầu bồi thường; những người liên quan không có yêu cầu gì về dân sự nên Tòa án không giải quyết.
[5] Về vật chứng: không [6] Về án phí: Các bị cáo phải nộp án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH:
1. TuY bố các bị cáo Vũ Thanh S, Vũ Thị Huyền T và Vũ Hoài S phạm tội "Trộm cắp tài sản"
+ Áp dụng khoản 1 Điều 173, điểm s khoản 1 điều 51, điểm h khoản 1 điều 52; điều 38 BLHS Điều 106; Điều 136; Điều 331; Điều 333 Bộ luật tố tụng hình sự.
Xử phạt bị cáo Vũ Thanh S 18 (mười tám) tháng tù.
Thời hạn tù tính từ ngày bắt thi hành án
+ Áp dụng khoản 1 Điều 173, điểm s, điểm i khoản 1 điều 51, Điều 65 BLHS Xử phạt bị cáo Vũ Thị Huyền T 12 (mười hai) tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách 24 tháng kể từ ngày tuY án sơ thẩm Xử phạt bị cáo Vũ Hoài S 12 (mười hai) tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách 24 tháng kể từ ngày tuY án sơ thẩm - Giao bị cáo Vũ Thị Huyền T cho Ủy ban nhân dân phường TL, quận Tây Hồ, thành phố Hà Nội (nơi bị cáo cư trú) để giám sát, giáo dục bị cáo trong thời gian thử thách.
- Giao bị cáo Vũ Hoài S cho Ủy ban nhân dân phường Y Phụ, quận Tây Hồ, Hà Nội (nơi bị cáo cư trú) để giám sát, giáo dục bị cáo trong thời gian thử thách Trường hợp người được hưởng án treo thay đổi nơi cư trú thì được thực hiện theo quy định của pháp luật về thi hành án hình sự.
Trong thời gian thử thách, người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ từ 02 lần trở lên thì Tòa án có thể quyết định buộc người được hưởng án treo phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo.
2.Về trách nhiệm dân sự: Người bị hại đã nhận lại tài sản bị mất, không yêu cầu bồi thường; những người liên quan không có yêu cầu gì về dân sự nên Tòa án không giải quyết.
3.Về vật chứng: không
4. Về án phí: Áp dụng Khoản 1 điều 23 Nghị quyết 326 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ quốc hội quy định về án phí.
Các bị cáo Vũ Thanh S, Vũ Thị Huyền T và Vũ Hoài S, mỗi bị cáo phải nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.
5. Về quyền kháng cáo: Các bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuY án. Người bị hại, người có quyền và nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!