Bản án số 03/2019/HS-PT ngày 16/01/2019 của TAND tỉnh Đồng Nai về tội tàng trữ trái phép chất ma túy
- Thuộc tính
- Nội dung
- VB gốc
- VB liên quan
- Lược đồ
- Đính chính
- Án lệ
- BA/QĐ cùng tội danh
- Tải về
-
Bản án số 03/2019/HS-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Thuộc tính Bản án 03/2019/HS-PT
Tên Bản án: | Bản án số 03/2019/HS-PT ngày 16/01/2019 của TAND tỉnh Đồng Nai về tội tàng trữ trái phép chất ma túy |
---|---|
Tội danh: | 249.Tội tàng trữ trái phép chất ma túy (Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của BLHS năm 2015) |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Tòa án xét xử: | TAND tỉnh Đồng Nai |
Số hiệu: | 03/2019/HS-PT |
Loại văn bản: | Bản án |
Ngày ban hành: | 16/01/2019 |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Áp dụng án lệ: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Đính chính: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Thông tin về vụ án: |
Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!
Tải văn bản
TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH ĐỒNG NAI
BẢN ÁN 03/2019/HS-PT NGÀY 16/01/2019 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Ngày 16 tháng 01 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân tỉnh Đồng Nai xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự phúc thẩm thụ lý số: 275/2018/TLPT-HS ngày 01 tháng 12 năm 2018 đối với bị cáo Hà Minh T do có kháng cáo của bị cáo đối với Bản án hình sự sơ thẩm số: 363/2018/HS-ST ngày 16 tháng 10 năm 2018 của Tòa án nhân dân thành phố Biên Hòa.
Bị cáo: Hà Minh T, tên gọi khác: M; Giới tính Nam. Sinh ngày 08/3/1985 tại TP Hồ Chí Minh; Quốc tịch: Việt Nam. Dân tộc: Kinh. Tôn giáo: không; Nơi cư trú: C, phường X, quận Y, TP Hồ Chí Minh; Trình độ học vấn: 8/12; Nghề nghiệp: lái xe. Con ông: Hà Thanh S, sinh năm 1961 và bà Lại Ngọc C1, sinh năm 1965. Gia đình có 02 chị em, bị cáo là con thứ 2, bị cáo sống chung như vợ chồng với Lưu Thị Ngọc H, sinh năm: 1990, chưa có con. Tiền án, Tiền sự: không; Bị bắt tạm giữ ngày 23/7/2018. (bị cáo có mặt).
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Hà Minh T là người nghiện ma túy. Khoảng 11 giờ 30 phút, ngày 22 tháng 7 năm 2018, T đi xe buýt đến khu vực cầu N thuộc phường X, Quận Y, Thành phố Hồ Chí Minh mua của C2 (chưa rõ lai lịch) 01 (một) gói ma túy tổng hợp (hàng đá) với giá 1.000.000đ (một triệu đồng) và được C2 cho thêm 01 gói ma túy tổng hợp về sử dụng. Vào lúc 01 giờ 00 phút, ngày 23 tháng 7 năm 2018, T cất giấu 02 gói ma túy nêu trên trong túi quần T đang mặc (túi phái trước bên trái), rồi đi bộ đến đoạn đường trước nhà tổ V, khu phố K, phường L, Tp Biên Hòa thì bị Đội cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy Công an TP Biên Hòa kiểm tra phát hiện, bắt quả tang.
* Vật chứng, tài sản thu giữ của Tâm gồm:
- 02 (hai) gói nylon hàn kín chứa tinh thể màu trắng (đã được niêm phong).
- 130.000đ (một trăm ba mươi nghìn đồng) là tài sản cá nhân của T.
Tại kết luận giám định số 387/PC54-GĐMT ngày 27 tháng 07 năm 2018 của Phòng Kỹ thuật Hình sự Công an Tỉnh Đồng Nai đã kết luận: “Mẫu tinh thể màu trắng được niêm phong gửi đến giám định là ma túy, có khối lượng 0,7085 gam, loại: Methamphetamine”.
Tại bản án hình sự sơ thẩm số 363/2018/HSST ngày 16 tháng 10 năm 2018 của Tòa án nhân dân thành phố Biên Hòa đã áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự 2015; điểm s, khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự 2015 xử phạt: bị cáo Hà Minh T 01 (một) năm 06 (sáu) tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Thời hạn tù tính từ ngày 23 tháng 7 năm 2018.
Ngoài ra án sơ thẩm còn tuyên về xử lý vật chứng, án phí, quyền kháng cáo theo luật định.
Ngày 17 tháng 10 năm 2018, bị cáo Hà Minh T kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt. Tại phiên tòa, bị cáo T tiếp tục đề nghị Hội đồng xét xử xem xét.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đồng Nai tại phiên tòa nêu quan điểm cho rằng: Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến sự quản lý độc quyền của nhà nước về các chất gây nghiện. Khi lượng hình cấp sơ thẩm đã xem xét đầy đủ các tình tiết giảm nhẹ để quyết định hình phạt cho bị cáo và bị cáo kháng cáo cũng không cung cấp thêm tình tiết mới. Do đó, đề nghị Hội đồng xét xử xem xét không chấp nhận kháng cáo của bị cáo, giữ nguyên bản án sơ thẩm.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Vào khoảng 01 giờ, ngày 23 tháng 7 năm 2018, đội Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy Công an thành phố Biên Hòa ra lệnh kiểm tra đối với Hà Minh T khi T đang đi bộ trước nhà Tổ V, Khu phố K, phường L, thành phố Biên Hòa và phát hiện trong túi quần của T có 02 gói nylon hàn kín màu trắng nghi là ma túy. T khai nhận đây là ma túy mà T mua được từ một người tên C2 tại Quận 10, Thành phố Hồ Chí Minh vào trưa ngày 22 tháng 7 năm 2018 để sử dụng. Tại kết luận giám định số 387/PC54-GĐMT ngày 27 tháng 07 năm 2018 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Đồng Nai đã kết luận: “Mẫu tinh thể màu trắng được niêm phong gửi đến giám định là ma túy, có khối lượng 0,7085 gam, loại: Methamphetamine”.
Với hành vi phạm tội nêu trên, bị cáo Hà Minh T bị Tòa án cấp sơ thẩm xử phạt về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” quy định tại điểm c Khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự 2015 là có căn cứ, đúng pháp luật.
[2] Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến sự quản lý chất ma túy độc quyền của nhà nước. Việc mua bán, sử dụng ma túy không những gây tác hại rất nghiêm trọng cho sức khỏe, nhân cách con người (nhất là đối với giới trẻ) mà còn gây thiệt hại về kinh tế của gia đình và xã hội, là nguyên nhân và mầm mống phát sinh các tệ nạn xã hội khác, gây ảnh hưởng xấu đến tình hình trật tự trị an xã hội tại địa phương. Đối với loại tội phạm này cần được phát hiện, ngăn chặn và xử lý nghiêm trước pháp luật.
Khi lượng hình, cấp sơ thẩm đã xem xét bị cáo không có tình tiết tăng nặng, có tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự 2015 là phù hợp. Tuy trong giai đoạn phúc thẩm, gia đình bị cáo có nộp Quyết định của Trung đoàn B thuộc Quân khu X1, sư đoàn Y1 về việc thể hiện bị cáo là bộ đội xuất ngũ (có sao y của chính quyền địa phương). Nhưng như đã phân tích đây là mức án phù hợp đủ để cải tạo, giáo dục bị cáo và răn đe, phòng ngừa chung đối với loại tội phạm này đang gia tăng trong tình hình hiện nay, không nặng như đơn kháng cáo bị cáo nêu. Do đó, không chấp nhận kháng cáo của bị cáo.
[3] Quan điểm của đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa phù hợp với quan điểm của Hội đồng xét xử nên được chấp nhận.
[4] Về án phí: Áp dụng Nghị quyết số 326/2016/NQ-UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về án phí và lệ phí Tòa án, bị cáo T phải chịu án phí hình sự phúc thẩm theo quy định.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 355 Bộ luật tố tụng hình sự 2015.
Không chấp nhận kháng cáo của bị cáo Hà Minh T, giữ nguyên bản án sơ thẩm.
Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự 2015; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự 2015.
Xử phạt: Bị cáo Hà Minh T (M) 01 (một) năm 06 (sáu) tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Thời hạn tù tính từ ngày 23/7/2018.
Về án phí: Bị cáo T phải chịu 200.000 đồng án phí Hình sự phúc thẩm.
Các quyết định khác của bản án sơ thẩm có hiệu lực pháp kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!