Bản án số 01/2022/HS-ST ngày 12/01/2022 của TAND huyện Tân Trụ, tỉnh Long An về tội trộm cắp tài sản

  • Thuộc tính
  • Nội dung
  • VB gốc
  • VB liên quan
  • Lược đồ
  • Đính chính
  • Án lệ
  • BA/QĐ cùng tội danh
  • Tải về
Mục lục
Tải văn bản
Báo lỗi
  • Gửi liên kết tới Email
  • Chia sẻ:
  • Chế độ xem: Sáng | Tối
  • Thay đổi cỡ chữ:
    17

Thuộc tính Bản án 01/2022/HS-ST

Tên Bản án: Bản án số 01/2022/HS-ST ngày 12/01/2022 của TAND huyện Tân Trụ, tỉnh Long An về tội trộm cắp tài sản
Tội danh: 138.Tội trộm cắp tài sản (Bộ luật hình sự năm 1999)
Cấp xét xử: Sơ thẩm
Tòa án xét xử: TAND huyện Tân Trụ (TAND tỉnh Long An)
Số hiệu: 01/2022/HS-ST
Loại văn bản: Bản án
Ngày ban hành: 12/01/2022
Lĩnh vực: Hình sự
Áp dụng án lệ:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Đính chính:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Thông tin về vụ án:
Tóm tắt Bản án

Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!

Tải văn bản

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TÂN TRỤ, TỈNH LONG AN

BẢN ÁN 01/2022/HS-ST NGÀY 12/01/2022 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 12 tháng 01 năm 2022, tại trụ Tòa án nhân dân huyện Tân Trụ, tỉnh Long An xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 14/2021/TLST- HS, ngày 17 tháng 11 năm 2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 15/2021/QĐXXST-HS, ngày 27 tháng 12 năm 2021 đối với bị cáo:

Họ tên: Dương Thanh T, sinh năm: 1989 tại L; Nơi cư trú: xã T, huyện T, tỉnh L.

Nghề nghiệp: Không; trình độ học vấn: 8/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Dương Văn T, sinh năm: 1963 và bà Võ Thị M, sinh năm: 1966; bị cáo chưa có vợ.

Tiền án: Không. Tiền sự:

- Ngày 13/7/2021, bị xử phạt hành chính 750.000đ về hành vi “sử dụng trái phép chất ma túy”, bị cáo chưa thi hành quyết định xử phạt.

- Ngày 27/7/2021, bị xử phạt hành chính 2.000.000đ về hành vi “không thực hiện biện pháp bảo vệ cá nhân đối với người tham gia chống dịch và người có nguy cơ mắc bệnh dịch theo hướng dẫn của cơ quan y tế”, bị cáo chưa thi hành quyết định xử phạt.

- Ngày 31/8/2021, bị xử phạt hành chính 2.000.000đ về hành vi “không thực hiện biện pháp bảo vệ cá nhân đối với người tham gia chống dịch và người có nguy cơ mắc bệnh dịch theo hướng dẫn của cơ quan y tế”, bị cáo chưa thi hành quyết định xử phạt.

- Ngày 14/9/2021, bị xử phạt hành chính 1.500.000đ về hành vi “trộm cắp tài sản”, bị cáo chưa thi hành quyết định xử phạt.

Nhân thân: Ngày 18/06/2008 bị xử phạt 12 tháng tù về tội “trộm cắp tài sản”.

Bị cáo đang bị tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an huyện Tân Trụ, tỉnh Long An từ ngày 29 tháng 10 năm 2021 đến nay.

Bị hại:

- Bà Đỗ Thị Kim H, sinh năm: 1985; Địa chỉ: ấp B, xã B, huyện T, tỉnh L (có đơn xin vắng mặt).

- Ông Đỗ Văn C, sinh năm: 1975; Địa chỉ: ấp B, xã B, huyện T, tỉnh L (vắng mặt không lý do).

- Ông Từ Chí B, sinh năm: 2000; Địa chỉ: ấp B, xã B, huyện T, tỉnh L (có đơn xin vắng mặt).

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Ông Trần Văn S, sinh năm: 1980;

Địa chỉ: Ấp Bì, xã B, huyện T, tỉnh L (có đơn xin vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN:

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 22 giờ ngày 21 tháng 10 năm 2021, bị cáo Dương Thanh T đến nhà của anh Nguyễn Thanh Th là bạn của T chơi. Tuy nhiên, khi đến nơi thì anh Th không có nhà, chỉ có cháu Nguyễn Quốc Đ là con của anh Th đang ngủ một mình tại nhà. Do biết T là bạn của cha mình nên Đ mở cửa cho T vào nhà rồi tiếp đi ngủ. Sau đó, T đi bộ một mình để mua thuốc hút. Sau khi mua thuốc xong, T nảy sinh ý định đi tìm tài sản của người dân để trộm bán lấy tiền tiêu xài. T đi bộ theo đường Hương lộ Cống Bần – Kỳ Son hướng về bến phà Kỳ Son khoảng 150m thì phát hiện bên tay trái cặp đường phía trước nhà của chị Đỗ Thị Kim H có để 01 chiếc xe đạp sơn màu xanh trắng nhãn hiệu “MARTIN 107” đã cũ dựng cặp bên cạnh 01 xe ôtô không người trông coi. T vào dẫn chiếc xe đạp ra ngoài và lên xe điều khiển chạy về nhà của anh Th. Khi đến nhà anh Th, T dựng xe đạp ở trước nhà, sau đó mở cửa vào trong nhà uống nước, nghỉ mệt.

Sau khi nghỉ ngơi, T lại tiếp tục đi tìm tài sản để lấy trộm. T điều khiển xe đạp vừa trộm được chạy theo đường tỉnh 833 qua cầu Bình Lãng, rẽ trái vào đường đan thuộc ấp Bình Đức, xã Bình Lãng, Tuấn chạy thẳng theo đường đan, đến ngã 3 giao với đường bờ đê sông Vàm Cỏ Tây rồi rẽ phải và tiếp tục chạy đến ngã 3 có đường đan bên tay phải, có con kênh dọc theo đường đan. T rẽ vào đường đan chạy tiếp thì phát hiện bên tay phải cặp con kênh nước có 01 ngôi nhà có cầu bắc qua kênh là nhà của anh Đỗ Văn C, bên hông ngôi nhà là mái che tiền chế có dựng 01 chiếc xe máy loại Cup 50 sơn màu xanh lợt, biển số 62- 906CI là xe của anh C, xe không có khóa, không người trông coi. Lúc này khoảng 3 giờ sáng ngày 22/10/2021, T dựng chiếc xe đạp ở cặp đường đan gần đầu cầu và đi vào bên trong mái che tiền chế, dẫn chiếc xe máy biển số 62- 906CI ra ngoài đường đan, nổ máy và điều khiển chạy về nhà của anh Th. Khi đến nhà anh Th, T dẫn chiếc xe ra phía sau nhà và nằm ở nhà anh Th ngủ. Đến khoảng 5 giờ 30 phút cùng ngày, anh Th về nhà mình và thấy chiếc xe Cup 50 biển số 62-906CI dựng phía sau nhà dính đất và T thì nằm ngủ ở nhà mình nên gọi T dậy. Anh Th hỏi T xe của ai thì T trả lời là xe của T. Lúc này anh Th yêu cầu T dọn dẹp, lau sạch nhà (vì T làm bẩn nhà). Sau khi dọn dẹp nhà, T tháo biển số xe 62-906CI ra và đưa cho anh Th cất giữ dùm biển số, anh Th đem biển số bỏ phía sau nhà của mình.

Khoảng 5 giờ sáng ngày 22/10/2021, anh C thức dậy mở cửa nhà thì phát hiện chiếc xe máy loại Cup 50 biển số 62-906CI của mình đã bị mất, đồng thời phát hiện chiếc xe đạp sơn màu xanh trắng nhãn hiệu “MARTIN 107” không rõ của ai dựng ở đường đan gần đầu cầu trước nhà mình nên trình báo Công an xã Bình Lãng. Công an xã Bình Lãng tiến hành thu giữ xe đạp nghi đối tượng trộm bỏ lại đồng thời tiến hành truy xét các đối tượng nghi vấn.

Qua truy xét, Công an xã Bình Lãng phối hợp Công an xã Bình Tịnh đến nhà của anh Nguyễn Thanh Th kiểm tra thì phát hiện chiếc xe máy loại Cup 50 đã tháo biển số dựng ở nhà của anh Th và trong nhà có Dương Thanh T đang ngủ, nghi vấn xe trên là của anh Đỗ Văn C bị mất trộm nên mời Dương Thanh T đồng thời đưa xe máy về Công an xã Bình Lãng để làm rõ. Qua làm việc T khai nhận chiếc xe máy loại Cup 50 Tuấn vừa lấy trộm của hộ dân ở xã Bình Lãng, T cũng thừa nhận chiếc xe đạp bỏ lại tại nhà lấy trộm xe Cup 50 là xe do mình lấy trộm được trước đó, giá trị xe đạp không lớn nên T bỏ lại xe đạp và lấy trộm xe Cup 50 như nội dung trên. Sau đó anh Th đã giao nộp biển số 62-906CI của xe Cup 50 cho Công an.

Tại kết luận số: 12/KL-HĐĐG ngày 29/10/2021 của Hội đồng định giá tài sản huyện Tân Trụ xác định giá trị của 01 chiếc xe đạp và 01 xe máy Cup 50 có đặc điểm nói trên tại thời điểm bị mất trộm ngày 22/10/2021 có giá là 725.000đ.

Quá trình điều tra Tuấn còn khai nhận:

Ngày 22/10/2021 sau khi làm việc, Công an xã Bình Lãng cho T về đợi xử lý thì T không về nhà mà tiếp tục đến nhà của anh Th và ở lại đây chơi. Đêm 22/10/2021, tại nhà của anh Th có anh Tế, T và người bạn của anh Th tên H (khoảng 30 tuổi, là bạn ngoài xã hội, không rõ họ tên, năm sinh, địa chỉ cụ thể). Thấy H có 01 chiếc xe môtô DREAM màu nâu không rõ biển số dựng ở ngoài sân nhà anh Th, nên trong đêm T hỏi mượn xe môtô của H để về nhà lấy đồ thì H đồng ý. Đến khoảng 01 giờ ngày 23/10/2021 T lấy chiếc xe môtô này để điều khiển chạy về nhà mình, T điều khiển xe trên Đường tỉnh 833, khi đi ngang qua đường đan rẽ vào trụ sở Ủy ban nhân dân xã Bình Lãng, T nảy sinh ý định đột nhập vào trụ sở Ủy ban nhân dân xã Bình Lãng để tìm tài sản lấy trộm. Khi đó, T rẽ phải vào đường đan, chạy hướng vào trụ sở Ủy ban nhân dân xã Bình Lãng. Khi chạy ngang qua cổng trụ sở, T quan sát phát hiện phía trước hành lang dãy phòng làm việc của Công an xã có dựng 01 chiếc xe môtô nhãn hiệu YAMAHA, loại SIRIUS, sơn màu đen, biển số 62H1-075.58 không người trông coi (xe của anh Từ Chí B là dân quân của xã Bình Lãng) nên nảy sinh ý định lấy trộm chiếc xe này. T chạy xe Dream ra phía sau cặp hàng rào lưới B40 của trụ sở Ủy ban nhân dân xã Bình Lãng dựng ở bên ngoài rào. T tạo lối dẫn xe sẽ lấy trộm qua hàng rào bằng cách tháo bỏ cộng kẽm lưới B40 ra và mở bung một khoảng trống lưới B40, tiếp đó T phát hiện bên bờ ruộng cặp đường có 01 tấm vĩ sắt của người dân dùng kéo máy bơm nước ở ruộng thanh long gần đó nên ôm vĩ sắt bỏ vào bên trong hàng rào, gát qua tường của hàng rào (phần tường rào xây cao 75cm, phía trên là lưới B40). Tiếp theo T ôm mấy khúc cây đã cưa sẵn để ở gần đó gác bên ngoài hàng rào và dùng dây dù cột các khúc cây lại. Sau khi đã chuẩn bị xong đường dẫn xe ra ngoài, T leo qua hàng rào, đi bộ lên phía dãy phòng làm việc của Công an xã Bình Lãng và dẫn chiếc xe mô tô loại SIRIUS biển số 62H1-075.58 ra phía sau chỗ hàng rào đã được phá. Do tường rào cao, tay của T bị đau nên không dẫn xe qua tường rào được. Lúc này trời cũng gần sáng, lại có tiếng chó bên trong trụ sở sủa nhiều nên T bỏ lại xe mô tô 62H1-075.58 ở cặp hàng rào (bên trong khuôn viên ủy ban) và điều khiển xe của H chạy về nhà của mình. Đến khoảng 6 giờ sáng cùng ngày, anh Từ Chí B thức dậy phát hiện xe mình bị mất nên đi tìm xung quanh thì phát hiện chiếc xe môtô 62H1-075.58 dựng ở cặp hàng rào phía sau Ủy ban nên dẫn xe vào. Cùng lúc đó anh Trần Văn S cũng phát hiện cái vĩ sắt và sợi dây dù của mình ở cạnh hàng rào bị phá nên anh Trần Văn S lấy vĩ sắt và dây dù về ruộng thanh long của mình. Do tài sản không bị mất nên anh Từ Chí B không yêu cầu Cơ quan Công an điều tra, làm rõ. Anh Trần Văn S cũng nhận lại cái vĩ sắt và sợi dây dù của mình và cũng không yêu cầu gì. Qua làm việc, anh Từ Chí B đã giao nộp chiếc xe môtô nhãn hiệu YAMAHA, loại SIRIUS, sơn màu đen, biển số 62H1-075.58 để phục vụ công tác điều tra.

Tại kết luận số: 13/KL-HĐĐG ngày 08/11/2021 của Hội đồng định giá tài sản huyện Tân Trụ xác định giá trị của 01 chiếc xe môtô có đặc điểm nêu trên tại thời điểm ngày 23/10/2021 là 7.000.000đ.

Quá trình điều tra, Cơ quan Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Tân Trụ đã tạm giữ các vật chứng gồm: Của anh Đỗ Văn C: 01 chiếc xe đạp sơn màu xanh trắng nhãn hiệu “MARTIN 107”; 01 giấy chứng nhận đăng ký xe môtô, xe đạp máy biển số xe 62-906CI; của bị cáo Dương Thanh T: 01 chiếc xe máy nhãn hiệu HONDA, loại Cup 50, sơn màu xanh lợt, không biển số, số khung: 018849, số máy: 62:906CI; của anh Nguyễn Thanh Th: 01 biển số xe 62-906CI; của anh Từ Chí B: 01 xe môtô nhãn hiệu YAMAHA, loại SIRIUS, sơn màu đen, biển số 62H1-075.58, số khung: 6K0DY-094983, số máy: 5C6K-095001, 01 giấy chứng nhận đăng ký môtô, xe máy số 007424, biển số 62H1-075.58.

Cơ quan cảnh sát điều tra đã xử lý vật chứng: Trả lại cho chị Đỗ Thị Kim H 01 chiếc xe đạp sơn màu xanh trắng nhãn hiệu “MARTIN 107”; ông Đỗ Văn C 01 chiếc xe máy nhãn hiệu HONDA, loại Cup 50, 01 biển số xe 62-906CI, 01 giấy chứng nhận đăng ký xe biển số xe 62-906CI; anh Từ Chí B: 01 xe môtô nhãn hiệu YAMAHA, loại SIRIUS, biển số 62H1-075.58, 01 giấy chứng nhận đăng ký xe biển số 62H1-075.58.

Đối với phương tiện là chiếc xe môtô Dream mà bị cáo Tuấn sử dụng đi trộm cắp tài sản, xác định chiếc xe môtô này của một người tên Hùng, bị cáo Tuấn mượn và đã trả lại xe cho H, hiện tại không rõ lai lịch, địa chỉ của H nên không tiến hành điều tra được.

Cáo trạng số 15/CT-VKS, ngày 17 tháng 11 năm 2021 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Tân Trụ đã truy tố bị cáo Dương Thanh T về tội “Trộm cắp tài sản” quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát thực hiện quyền công tố tại phiên tòa vẫn giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị:

Tuyên bố bị cáo Dương Thanh T phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

Về hình phạt: Áp dụng khoản 1 Điều 173; Điều 38; Điều 50; điểm s, r khoản 1 và khoản 2 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52 của Bộ luật hình sự, xử phạt bị cáo Dương Thanh T từ 01 năm 03 tháng tù đến 01 năm 06 tháng tù. Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

Áp dụng Điều 329 của Bộ luật Tố tụng hình sự, đề nghị tiếp tục tạm giam bị cáo Dương Thanh T 45 ngày kể từ ngày tuyên án để đảm bảo cho việc thi hành án.

Về trách nhiệm dân sự: Do các bị hại không yêu cầu nên Hội đồng xét xử không phải giải quyết phần trách nhiệm dân sự.

Buộc bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Tân Trụ, Điều tra viên, của Viện kiểm sát nhân dân huyện Tân Trụ, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo; bị hại; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan không có ý kiến hoặc khiếu nại về các hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng được thực hiện hợp pháp.

[2] Tại phiên tòa, bị cáo Dương Thanh T đã khai nhận hành vi như cáo trạng Viện kiểm sát nhân dân huyện Tân Trụ truy tố. Lời khai của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra; phù hợp với lời khai của bị hại, của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan và của người làm chứng. Do đó có đủ cơ sở xác định vào rạng sáng ngày 22/10/2021 bị cáo Dương Thanh T đã thực hiện hành vi lén lút chiếm đoạt của chị Đỗ Thị Kim H 01 chiếc xe đạp và của anh Đỗ Văn C một chiếc xe máy (Loại xe Cup 50), tổng trị giá 725.000đ và sau đó khoảng hơn 01 giờ ngày 23/10/2021, bị cáo Dương Thanh T tiếp tục thực hiện hành vi lén lút chiếm đoạt 01 xe môtô của anh Từ Chí B trị giá 7.000.000đ. Bị cáo đã có tiền sự về hành vi trộm cắp tài sản nên mặc dù tài sản bị chiếm đoạt lần đầu vào rạng sáng ngày 22/10/2021 có giá trị dưới 2.000.000đ nhưng cũng đủ yếu tố để khởi tố bị cáo về tội trộm cắp tài sản theo điểm a khoản 1 Điều 173 của Bộ luật hình sự. Lần chiếm đoạt tài sản rạng sáng ngày 23/10/2021 đủ yếu tố cấu thành tội trộm cắp tài sản theo khoản 1 Điều 173 của Bộ luật hình sự. Khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự quy định:

“1. Người nào trộm cắp tài sản của người khác có giá trị từ 2.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng hoặc dưới 2.000.000 đồng nhưng thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc bị phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm:

a) Đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi chiếm đoạt tài sản mà còn vi phạm;...........”

[3] Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, không những trực tiếp xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của các bị hại mà còn gây tâm lý hoang mang, lo lắng, làm mất an ninh trật tự tại địa phương. Quyền sở hữu tài sản hợp pháp của công dân được pháp luật thừa nhận và bảo vệ, ai xâm phạm đến sẽ bị pháp luật xử lý. Bị cáo đã lợi dụng sự sơ hở, mất cảnh giác của chủ sở hữu để thực hiện hành vi lén lút chiếm đoạt. Bị cáo là người có đủ năng lực, có nhiều tiền sự trong đó có tiền sự về hành vi “Trộm cắp tài sản” và có nhân thân xấu là đã bị kết án về tội ”Trộm cắp tài sản”. Đặc biệt là sau khi thực hiện hành vi lén lút chiếm đoạt tài sản rạng sáng ngày 22/10/2021, bị cáo đã bị Công an xã Bình Lãng, huyện Tân Trụ, tỉnh Long An mời lên làm việc ngày 22/10/2021 và tạm cho về ngay rạng sáng ngày 23/10/2021 bị cáo lại tiếp tục thực hiện hành vi lén lút chiếm đoạt tài sản ngay tại trụ sở Công an xã Bình Lãng. Như vậy bị cáo biết đây là hành vi vi phạm pháp luật nhưng vẫn ngoan cố, cố tình thực hiện nhằm chiếm đoạt tài sản của người khác để bán lấy tiền tiêu xài. Từ những phân tích và nhận định nêu trên, Hội đồng xét xử có căn cứ xác định bị cáo Dương Thanh Tuấn phạm tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 173 của Bộ luật hình sự.

[4] Bị cáo có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự “Phạm tội 02 lần trở lên” quy định tại điểm g khoản 1 Điều 52 của Bộ luật hình sự. Tuy nhiên trong quá trình điều tra, bị cáo đã thành khẩn khai báo đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự. Bị cáo tự thú về hành vi trộm cắp xe của anh Từ Chí B đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo quy định tại điểm r khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự. Ngoài ra bị cáo có ông cố là liệt sỹ, bà ngoại tham gia dân công hỏa tuyến, được hưởng chính sách đây là các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo quy định tại khoản 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự.

[5] Kiểm sát viên đề nghị Hội đồng xét xử, xử phạt bị cáo từ 01 năm 03 tháng tù đến 01 năm 06 tháng tù. Hội đồng xét xử xét thấy phù hợp, bị cáo có nhân thân xấu như đã bị kết án nhiều lần về tội “Trộm cắp tài sản”, có tiền sự về hành vi trộm cắp tài sản. Năm 2021 liên tục bị xử phạt hành chính nhưng chưa chấp hành. Tại phiên tòa, tuy bị cáo có thành khẩn khai báo nhưng tỏ thái độ không ăn năn hối cải, cho rằng nếu bị phạt tù thì sau khi ra tù chưa biết có từ bỏ được hành vi trộm cắp tài sản hay không. Do đó Hội đồng xét xử quyết định cách ly bị cáo khỏi xã hội một thời gian mới có tác dụng giáo dục bị cáo, đề cao tính nghiêm minh của pháp luật và phòng ngừa chung.

[6] Về trách nhiệm dân sự: Do các bị hại không yêu cầu bồi thường nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[7] Về vật chứng: Việc cơ quan cảnh sát điều tra trả lại vật chứng cho các bị hại là đúng quy định của pháp luật nên Hội đồng xét xử không đề cập đến.

[8] Buộc bị cáo phải chịu 200.000đ án phí hình sự sơ thẩm.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH:

1. Tuyên bố bị cáo Dương Thanh T phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

Căn cứ vào khoản 1 Điều 173; điểm s, r khoản 1 và khoản 2 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52; các Điều 38, 50 của Bộ luật hình sự.

Xử phạt bị cáo Dương Thanh T 01 (Một) năm 06 (Sáu) tháng tù, thời gian chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt tạm giam là ngày 29/10/2021.

Áp dụng Điều 329 của Bộ luật Tố tụng hình sự, tiếp tục tạm giam bị cáo Dương Thanh Tuấn 45 (Bốn mươi lăm) ngày kể từ ngày tuyên án để đảm bảo cho việc thi hành án.

2. Về trách nhiệm dân sự: Do các bị hại không yêu cầu nên Hội đồng xét xử không xem xét.

Áp dụng Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự 2015; Điều 23 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của UBTV Quốc hội về án phí, lệ phí Tòa án:

Buộc bị cáo Dương Thanh T chịu 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo (Có mặt) được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày tính từ ngày tuyên án. Bị hại, đương sự vắng mặt được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được tống đạt hợp lệ

Tải về
Bản án số 01/2022/HS-ST Bản án số 01/2022/HS-ST

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án/ Quyết định cùng đối tượng

Bản án cùng lĩnh vực

Bản án mới nhất