Bản án số số/2025/DS-ST ngày 14/04/2025 của TAND TP. Đồng Hới, tỉnh Quảng Bình về tranh chấp hợp đồng đặt cọc

  • Thuộc tính
  • Nội dung
  • VB gốc
  • VB liên quan
  • Lược đồ
  • Đính chính
  • Án lệ
  • BA/QĐ cùng nội dung
  • Tải về
Tải văn bản
Báo lỗi
  • Gửi liên kết tới Email
  • Chia sẻ:
  • Chế độ xem: Sáng | Tối
  • Thay đổi cỡ chữ:
    17

Thuộc tính Bản án số/2025/DS-ST

Tên Bản án: Bản án số số/2025/DS-ST ngày 14/04/2025 của TAND TP. Đồng Hới, tỉnh Quảng Bình về tranh chấp hợp đồng đặt cọc
Quan hệ pháp luật: Tranh chấp hợp đồng đặt cọc
Cấp xét xử: Sơ thẩm
Tòa án xét xử: TAND TP. Đồng Hới (TAND tỉnh Quảng Bình)
Số hiệu: số/2025/DS-ST
Loại văn bản: Bản án
Ngày ban hành: 14/04/2025
Lĩnh vực: Dân sự
Áp dụng án lệ:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Đính chính:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Thông tin về vụ/việc: Bản án
Tóm tắt Bản án

Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!

Tải văn bản

TÒA ÁN NHÂN DÂN CỘNG HÒA HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
THÀNH PHỐ ĐỒNG HỚI Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
TỈNH QUẢNG BÌNH
Bản án số: 13/2025/DS-ST
Ngày: 14/4/2025
V/v: "Tranh chấp Hợp đồng đặt cọc”
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ ĐỒNG HỚI, TỈNH QUẢNG BÌNH
- Thành phần Hội đng xét xử sơ thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ toạ phiên toà: Ông Hoàng Văn Lộc
Các Hội thẩm nhân dân: Ông Hoàng Văn Tiến
Bà Phan Thị Lan Hương
- T phiên toà: Ông Hoàng Ngọc Nhân Thư Tòa án nhân dân
thành phố Đồng Hới.
Trong ngày 14 tháng 4 năm 2025, tại Hội trường xét xử dân sự của Toà án
nhân dân thành phố Đồng Hới, tỉnh Quảng Bình xét xử thẩm công khai ván
dân sự thụ số: 226/2024/TLST-DS ngày 22 tháng 11 năm 2024 về tranh chấp
hợp đồng đặt cọc, theo Quyết định đưa ván ra xét xử số: 45/2025/QĐST-DS ngày
19 tháng 3 năm 2025, giữa các đương sự:
1. Nguyên đơn: Thị V, sinh năm 1953; địa chỉ: An Ninh, huyện
Quảng Ninh, tỉnh Quảng Bình. Có mặt.
2. Bị đơn: Ông Trần Minh T, sinh năm 1959, Phan Thị Thanh H, sinh
năm 1967; địa chỉ: thành phố Đồng Hới, tỉnh Quảng Bình; ông Tiến vắng mặt, bà
Hoài có mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
* Theo đơn khởi kiện đề ngày 12/11/2024, trong các văn bản tố tụng tại
phiên tòa nguyên đơn bà V trình bày: tìm hiểu biết ông Ti, bà H có mảnh đất
diện tích sử dụng thực tế 2.043m
2
đã có Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, thửa
đất này ông T, bà H đã thế chấp tại Ngân hàng. Đến ngày 28/5/2020 các bên thống
nhất đặt cọc để mua bán thửa đất số 146, tờ bản đồ số 6, tại Thuận Đức. Ban
đầu thoả thuận giá 1.200.000.000 đồng, sau đó ông T đưa ra 1.350.000.000 đồng,
V không đồng ý đưa ra giá 1.300.000.000 đồng, bà H ông T không đồng ý.
Hai bên đi đến thống nhất làm hợp đồng đặc cọc mua bán chuyển nhượng đất với
giá 1.350.000.000 đồng. Trong hợp đồng ghi V đã đặt cọc số tiền
300.000.000 đồng, số tiền còn lại bà V trả vào ngày 18/6/2020. Và thoả thuận nếu
ông T, bà H huỷ giao dịch trả lại số tiền nhận đặt cọc và tiền phạt cọc 300.000.000
đồng. Nếu Vân huỷ bỏ giao dịch thì mất tiền đặt cọc 300.000.000 đồng. Sau
một thời gian bà H gọi điện báo cho V đã bán cho người khác 1.700.000.000
2
đồng, bà V không đồng ý, qua nhiều lần yêu cầu bà H, ông T trả tiền đến cuối năm
2021, trả cho bà V tiền nhận cọc 100.000.000 đồng.Nay, bà V đề nghị ông T, bà H
trả số tiền đã nhận cọc 200.000.000 đồng; Tiền phạt cọc 300.000.000 đồng; Tổng
cộng 500.000.000 đồng.
* Ý kiến của bị đơn Phan Thị Thanh H tại phiên toà đã trình bày: Hiện
tại ông T chồng bà bị tại nạn giao thông nên không thể tham gia phiên toà được
đã đơn xin Toà án xét xử vắng mặt. Đối với yêu cầu khởi kiện của V bà H
ý kiến như sau. Vợ chồng bà bán cho V một thửa đất như V đã trình
bày, hai bên đã có hợp đồng đặt cọc đã thoả thuận giá bán 1.350.000.000 đồng,
V đã đặt cọc ghi trong Hợp đồng 300.000.000 đồng vợ chồng đã nhận, số tiền
còn lại 1.050.000.000 đồng bà V trả vào ngày 18/6/2020. Nhưng đến hạn trả bà V
không đến trả tiền để thực hiện việc mua bán đất, cho nên bà H đã liện hệ bà V
con bà V ông Đ nhiều lần đến ngày 28/01/2021 bà V đến có viết cho vợ chồng bà
H một “Giấy xin nhận tiền cọc” có nội dung bà V xin lại một phần tiền đã đặt cọc
vợ chồng bà đã đồng ý trả lại cho V số tiền 200.000.000 đồng còn lại
100.000.000 đồng bà V phải mất tiền đã đặt cọc vì không thực hiện đúng theo như
thoả thuận tại hợp đồng đặt cọc. Do đó, yêu cầu khởi kiện của V, không đồng
ý.
NHẬN ĐNH CỦA TOÀ ÁN:
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên
tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Về quan hệ tranh chấp thẩm quyền giải quyết vụ án: Nguyên đơn
khởi kiện yêu cầu giải quyết tranh chấp giấy đặt cọc, bị đơn địa chỉ tại thành
phố Đồng Hới. Do đó, căn cứ vào khoản 3 Điều 26; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm
a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật tố tụng dân sxác định vụ án thuộc thẩm quyền giải
quyết của Tòa án nhân dân thành phố Đồng Hới, tỉnh Quảng Bình.
[2] Về thủ tục tố tụng: Quá trình giải quyết vụ án, Tòa án đã tiến hành triệu
tập, hòa giải nhưng bị đơn không có mặt nên không hoà giải được, do đó, Tòa án
ra Quyết định đưa ván ra xét xử. Tại phiên toà nguyên đơn có mặt, bị đơn ông T
đơn xin xét xử vắng mặt, H mặt. HĐXX căn cứ khoản 1 Điều 227
BLTTDS tiến hành xét xử.
[3]. Xét về “Biên bản thống nhất đặt cọc mua bán chuyển nhượng nhà đất”
đề ngày 28/5/2020 do bà Thị V xuất trình bản gốc có chữ ký của bên bán (nhận
đặt cọc) gọi tắt bên A: Ông Trần Minh T, sinh năm 1959, bà Phan Thị Thanh H,
sinh năm 1967; bên mua (đặt cọc) gọi tắt bên B: Bà Thị V, sinh năm 1953;
người làm chứng ông Trọng B, sinh năm 1947, hợp đồng không công chứng,
chứng thực.
Như vậy, loại hợp đồng đặt cọc này không thuộc trường hợp bắt buộc phải
công chứng, chứng thực, tại thời điểm kết hợp đồng đặt cọc, các bên tham gia
kết đều đủ năng lực hành vi dân sự, việc giao kết hợp đồng xuất phát từ ý chí t
nguyện của các bên, không bị ép buộc; mục đích của hợp đồng không vi phạm điều
cấm của pháp luật, không trái đạo đức xã hội, hình thức và nội dung của hợp đồng
phù hợp với quy định tại Điều 117, Điều 119, Điều 328 của Bộ luật Dân sự.
3
[4]. Xét yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà V u cầu bị đơn ông T, bà H
trả lại số tiền đã nhận tiền cọc tại Hợp đồng đặt cọc đề ngày 28/5/2020, tiền nhận
cọc 200.000.000 đồng tiền phạt cọc 300.000.000 đồng. Tổng cộng
500.000.000 đng.
Tại phiên toà cũng như các lần hoà giải phía nguyên đơn Vân giữa nguyên
yêu cầu khởi kiện của mình. Đối với H không đồng ý trả stiền V đã yêu
cầu.
Tại phiên toà Hội đồng xét xử đã thông báo cho bà V xem “Giấy xin tiền đặt
cọc” đề ngày 28/01/2021 do bà H xuất trình cho Toà án bản phô tô Thẩm phán đã
đã đối chiếu bản gốc. V đã xem thừa nhận giấy đó đã viết tên không
có ý kiến gì.
Theo hợp đồng đặt cọc ký kết giữa bà V, ông T, bà H các bên thoả thuận tại
hợp đồng: “Bà Vân đặt cọc tiền 300.000.000 đồng cho ông Tiến, bà Hoài để nhận
chuyển nhượng thửa đất số 146, tờ bản đồ s6, địa chỉ thửa đất Thuận Đức,
thành phố Đồng Hới, tỉnh Quảng Bình, diện tích 700m
2
, trong đó đất ở 300m
2
, đất
vườn còn lại 400m
2
, diện tích thực tế sdụng 2043m
2
. Giá bán 1.350.000.000
đồng. Trong hợp đồng thể hiện ông T, đã nhận số tiền đặt cọc 300.000.000
đồng, số tiền còn lại 1.050.000.000 đồng bà Vân hẹn đến ngày 18/6/2020 trả cho
ông T, bà H. Trong thời gian nêu trên bên ông T, bà H huỷ giao dịch thì hoàn trả
số tiền đã nhận cọc 300 triệu đồng và bồi thường thêm 300 triệu đồng. Nếu bên bà
V huỷ bỏ giao dịch thì sẽ mất tiền cọc 300 triệu đồng”.
Tuy nhiên, theo hợp đồng thoả thuận như vậy nhưng việc giao dịch mua bán
đất giữa V, ông T, H không thực hiện được. Sau một thời gian giữa V,
ông T H các bên có viết một “Giấy xin tiền đặt cọc” do bà V viết vào ngày
28/01/2001 có nội dung như sau: “ Kính gửi anh chị T H. Theo hợp đồng đặt cọc
ngày 28/5/2020, tại số nhà 02 đường 15A, phường Đồng Sơn, thành phố Đồng Hới.
Tôi Thị V, sinh ngày 15/6/1953. đặt cọc số tiền 300.000.000 đồng, để mua
đất của ông T tại thôn Thuận Vinh, xã Thuận Đức, Đồng Hới, Quảng Bình. Hẹn
đến ngày 18/6/2020 thanh toán hết stiền còn lại như trong hợp đồng đặt cọc,
nhưng quá hạn tôi không thực hiện đúng cam kết nên số tiền đặt cọc nói trên bị
mất quy định theo hợp đồng. Nay tôi viết giấy này xin anh T, chị H xem xét cho tôi
xin lại một ít tiền cọc. Kính mong anh chị xem xét. Đồng Sơn ngày 28/01/2021có
chữ ký và chữ viết bà Võ Thị V”.
Mặt sau của giấy chữ viết của ông T với nội dung như sau: “Xét theo
hoàn cảnh gia đình chThị V chú Văn Đ (con trai V), trong hoàn cảnh
đau ốm nên tôi thống nhất cho lại 200.000.000 đồng. Ngày 28/01/2021 có chữ ký
chữ viết của ông Trần Minh T”.
Tiếp đến V cũng viết vào giấy sau khi ông T đã viết nội dung: “Tôi
Thị V đã nhận đủ số tiền 200.000.000 đồng chữ ký và chữ viết của Võ Thị
V
Như vậy, căn cứ vào hợp đồng đặt cọc đã thảo thuận khi V không mua
đất thì phải mất tiền cọc, tuy nhiên bà V đã viết giấy xin tiền đặt cọc được sự đồng
ý của ông T cho lại bà V 200.000.000 đồng bà V đã nhận đủ, còn lại 100.000.000
đồng coi như bà V không mua thì sẽ bị mất tiền cc, giấy này tại phiên toà bà V đã
xem thừa nhận doviết và ký không có ý kiến gì.
4
Do đó, nguyên đơn bà V yêu cầu ông T, bà H trả tiền nhận đặt cọc
200.000.000 đồng phạt cọc 300.000.000 đồng, tổng 500.000.000 đồng, không
có căn cứ nên không chấp nhận.
[5] Về án phí:
- Do yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn V không được chấp nhận nên
phải chịu án phí sơ thẩm 500.000.000 đồng là 20.000.000 đồng cộng 4% của phần
vượt quá 400.000.000 đồng là 100.000 đồng x 4% = 4.000.000 đồng + 20.000.000
đồng = 24.000.000 đồng. Căn cứ theo quy định tại điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị
quyết 326/CP bà V được miễn nộp tiền án phí sơ thẩm.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH:
Áp dụng Điều 26, Điều 35, Điều 39, Điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự; Áp
dụng các Điều 117, 119 Bộ luật dân sự; Áp dụng điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị
quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 quy định về án phí, lệ
phí. Xử:
1. Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn Thị V buộc
ông Trần Minh T bà Phan Thị Thanh H trả số tiền 500.000.000 đồng, trong đó,
tiền nhận đặt cọc 200.000.000 đồng, tiền phạt cọc 300.000.000 đồng.
2. Án phí:
- Nguyên đơn Thị V được miễn án phí dân sự thẩm theo điểm đ
khoản 1 Điều 12 Nghị quyết 326/CP.
Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án
dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền
thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị
cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 9 Luật thi hành án dân sự,
thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án
dân sự.
Các đương sự quyền làm đơn kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày
kể từ ngày tuyên án ngày 14/4/2025, đương sự vắng mặt tại phiên toà hoặc không
mặt khi tuyên án do chính đáng tthời hạn kháng cáo tính từ ngày
nhận được bản án hoặc được tống đạt hợp lệ.
Nơi nhận: TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ SƠ THẨM
- TAND tỉnh Quảng Bình; THẨM PHÁN CHỦ TOẠ PHIÊN TOÀ
- VKSND TP. Đồng Hới;
- Chi cục THADS TP. Đồng Hới;
- Các đương sự; (đã ký)
- Lưu hồ sơ;
- Lưu án.
Hoàng Văn Lộc
5
Tải về
Bản án số số/2025/DS-ST Bản án số số/2025/DS-ST

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án số số/2025/DS-ST Bản án số số/2025/DS-ST

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án/ Quyết định cùng đối tượng

Bản án cùng lĩnh vực

Bản án mới nhất