Bản án số 99/2024/DS-ST ngày 05/08/2024 của TAND huyện U Minh, tỉnh Cà Mau về tranh chấp hợp đồng vay tài sản

  • Thuộc tính
  • Nội dung
  • VB gốc
  • VB liên quan
  • Lược đồ
  • Đính chính
  • Án lệ
  • BA/QĐ cùng nội dung
  • Tải về
Tải văn bản
Báo lỗi
  • Gửi liên kết tới Email
  • Chia sẻ:
  • Chế độ xem: Sáng | Tối
  • Thay đổi cỡ chữ:
    17

Thuộc tính Bản án 99/2024/DS-ST

Tên Bản án: Bản án số 99/2024/DS-ST ngày 05/08/2024 của TAND huyện U Minh, tỉnh Cà Mau về tranh chấp hợp đồng vay tài sản
Quan hệ pháp luật: Tranh chấp hợp đồng vay tài sản
Cấp xét xử: Sơ thẩm
Tòa án xét xử: TAND huyện U Minh (TAND tỉnh Cà Mau)
Số hiệu: 99/2024/DS-ST
Loại văn bản: Bản án
Ngày ban hành: 05/08/2024
Lĩnh vực: Dân sự
Áp dụng án lệ:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Đính chính:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Thông tin về vụ/việc: Ông L thanh toán nợ vay cho ông S
Tóm tắt Bản án

Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!

Tải văn bản

1
TÒA ÁN NHÂN DÂN CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
HUYỆN U MINH Độc lập – Tự do – Hạnh phúc
TỈNH CÀ MAU
Bản án số: 29/2024/HS-ST
Ngày 13 - 8 - 2024
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN U MINH, TỈNH CÀ MAU
- Thành phần Hội đồng xét xử sơ thẩm gồm có:
Thẩm phán – Chủ tọa phiên tòa: Ông Bùi Văn Việt
Các Hội thẩm nhân dân: Ông Trịnh Hữu Hiệp
Ông Trần Công Đẳng
- Thư phiên tòa: Thị Mẵn Thư Tòa án nhân dân huyện U Minh,
tỉnh Cà Mau
- Đại diện Viện kiểm sát huyện U Minh, tỉnh Mau tham gia phiên tòa:
Đoàn Thị Bích Nhẫn – Kiểm sát viên
Ngày 13 tháng 8 năm 2024, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện U Minh, tỉnh Cà Mau
xét x thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 28/2024/TLST-HS ngày 31 tháng 5
năm 2024, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 31/2024/QĐXXST-HS ngày 22 tháng
7 năm 2024 đối với bị cáo:
Họ tên: Phạm Văn S, sinh năm 1970; nơi trú: ấp A, KH, huyện U Minh,
tỉnh Cà Mau; nghề nghiệp: làm thuê; trình độ học vấn 7/12; dân tộc: kinh; giới tính: nam;
tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Phạm Văn D Trần Thị N; vợ
Nguyễn Thị B (đã ly hôn) 01 người con sinh năm 2000; tiền án, tiền sự: không;
nhân thân: chưa án tích chưa bị xphạt vi phạm hành chính đã được xóa; bị bắt
tạm giam từ ngày 19/4/2024 đến nay (có mặt).
- Bị hại: Ông Kha Hữu T, sinh năm 1973; nơi cư trú: ấp A, xã KH, huyện U Minh,
tỉnh Cà Mau (có mặt).
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Theo các T liệu trong hồ vụ án diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án
được tóm tắt như sau:
Khoảng 12 giờ 30 phút ngày 30/6/2023, Phạm Văn S đến nhà của ông Kha Hữu T
(em rể của S), ngụ cùng ấp A, xã KH, huyện U Minh, tỉnh Mau, để yêu cầu ông T
tháo dỡ căn nhà sau trả lại cái ao cho S, vì S cho rằng cái ao của S. Ông T nói đất này
của T thì hai bên xảy ra cự cãi. S đòi đập nhà và đánh ông T nên ông T lấy đoạn kim loại
đánh vào chân của S, hai bên giằng co thì S lấy được đoạn kim loại trên đánh trúng vào
vai phía sau cổ của ông T. Sau đó, S dùng tay kẹp cổ ông T kéo ra lộ xe thì Kha Hữu
A (con ông T) đang sửa điện dưới ghe biển nhìn thấy, Tú A chạy lên bờ nhặt lấy khúc gỗ
đánh trúng vào tay chân của S nên S buông ông T ra. Ông T kêu A đi ra nên Tú A
nghỉ đánh S. Lúc này, S nhặt lấy khúc gỗ hình dạng đố vuông (chiều dài 155 cm) gần
2
vị trí S ông T đang đứng, S dùng hai tay cầm khúc gđánh 01 cái từ bên phải sang
bên trái trúng vào vùng thái dương trái của ông T làm cho ông T choáng váng, đầu chảy
nhiều máu và ngất xỉu. Bà Phạm Thị E (chị ruột của ông S) nhìn thấy sự việc nên truy hô
được mọi người chạy đến thì S bỏ đi. Sau đó, ông T được người nhà đưa đến Trạm y tế
xã KH sơ cứu và chuyển đến Trung tâm y tế huyện U Minh cấp cứu. Đến ngày
03/7/2023, ông T được chuyển đến Bệnh viện Đa khoa Mau điều trị. Vụ việc được
Công an KH tiếp nhận chuyển toàn bhồ đến quan Cảnh sát điều tra Công
an huyện U Minh thụ lý theo thẩm quyền.
Tại Kết luận giám định tổn thương thể trên người sống số 194/KLTTCT-TTPY
ngày 25/8/2023 của Trung tâm Pháp y tỉnh Mau kết luận thương tích của ông Kha
Hữu T như sau:
- 01 vết sẹo vùng thái dương trái, kích thước 3,5cm x 0,2cm, tỷ lệ 01%, do vật tày
hoặc vật tày có cạnh gây ra.
- 01 vết sẹo vùng trán phải (mày phải), kích thước 2,5cm x 0,2cm, tlệ 03%, do
vật tày hoặc vật tày có cạnh gây ra.
- Dập xuất huyết não thùy thái dương trái đã điều trị ổn định, tỷ lệ 07%, do vật tày
hoặc vật tày có cạnh gây ra.
- Vỡ lún sọ vùng thái dương trái đã điều trị ổn định, tỷ lệ 09%, do vật tày hoặc vật
tày có cạnh gây ra.
- 01 vết sẹo má phải, kích thước 01cm x 0,1cm (Bệnh án không ghi nhận),
không xếp tỷ lệ %.
- 01 vết sạm da vùng vai phải, kích thước 2,7cm x 1,5cm (Bệnh án không ghi
nhận), không xếp tỷ lệ %.
Căn cứ Thông tư số 22/2019/TT-BYT ngày 28 tháng 8 năm 2019 của Bộ Y tế quy
định tỷ lệ phần trăm tổn thương cơ thể sử dụng trong giám định pháp y, giám định pháp y
tâm thần, xác định tỷ lệ phần trăm tổn thương thể của ông Kha Hữu T tại thời điểm
giám định là 19%, áp dụng phương pháp cộng tại Thông tư.
Kết luận khác: Thương tích do vật tày hoặc vật tày cạnh tác động lên bề mặt
thể làm tổn thương da, xương sọ, não, mạch máu. Sau khi điều trị để lại thương tích như
trên. Thương tích trên cơ thể ông Kha Hữu T có cùng thời điểm xảy ra.
Đối với 01 vết sẹo phải, kích thước 01cm x 0,1cm 01 vết sạm da vùng
vai phải, kích thước 2,7cm x 1,5cm (Bệnh án không ghi nhận) của ông T, quá trình điều
tra xác định 02 vết sẹo trên do S đánh vào vùng đầu làm ông T ngã xuống đường lộ gây
nên. Ngày 23/01/2024, quan Cảnh sát điều tra Công an huyện U Minh ra Quyết định
trưng cầu giám định bsung số 54/QĐ-ĐTTH tiến hành dẫn giải, tuy nhiên ông T từ
chối giám định không chấp hành việc dẫn giải do các vết thương đã hồi phục,
không ảnh hưởng đến sức khoẻ.
Vật chứng thu giữ:
- 01 khúc g(dạng đố vuông) chiều dài 155cm, một đầu bằng kích thước 4,8cm x
09cm, đầu còn lại kích thước 4,8cm x 1,5cm, hình nhọn, tình trạng khúc gỗ rắn chắc,
Phạm Văn S xác định đây là hung khí dùng để đánh vào đầu của ông T.
3
- 01 khúc gỗ (dạng đố vuông) chiều dài 111cm, một đầu bằng kích thước 02cm x
03cm, đầu còn lại kích thước 1,6cm x 2,5cm x 0,5cm x 2,2cm, nh trạng khúc gỗ rắn
chắc, do Kha Hữu Tú Anh giao nộp.
- 01 thanh kim loại (dạng tròn) chiều dài 150cm, độ dài vòng tròn 8,4cm, mỗi đầu
thanh kim loại có gắn một đoạn kim loại hình răng, có chiều dài 05cm, trên mỗi đoạn kim
loại hình răng có một khoen kim loại và một con tán, do Kha Hữu Tú A giao nộp.
Các vật chứng trên đã được chuyển đến Chi cục Thi hành án dân sự huyện U Minh
quản lý chờ xử lý.
Về dân sự: Ông Kha Hữu T không yêu cầu Phạm Văn S phải bồi thường các khoản
thiệt hại.
Bản cáo trạng số 25/CT-VKS ngày 29/5/2024 của Viện kiểm sát nhân dân huyện U
Minh truy tố Phạm Văn S về tội “Cố ý gây thương tích” theo điểm đ khoản 2 Điều 134
Bộ luật hình sự.
Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát thực hành quyền công tố luận tội: Giữ
nguyên quyết định truy tbị cáo Phạm Văn S vtội “Cố ý gây thương tích”. Đề nghị áp
dụng điểm đ khoản 2 Điều 134, điểm s khoản 1 khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự, phạt
bị cáo Phạm Văn S từ 03 năm đến 04 năm tù. Về vật chứng đề nghị tịch thu tiêu hủy các
vật chứng đã thu giữ. Về trách nhiệm dân sự ông T không yêu cầu bcáo S bồi thường
các khoản thiệt hại nên không xem xét.
Bị cáo S thừa nhận hành vi phạm tội ncáo trạng truy tố, bị cáo thống nhất luận
tội và đề nghị của đại diện Viện kiểm sát, bị cáo không có ý kiến tranh luận.
Bị hại ông T yêu cầu giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo S, về trách nhiệm dân sự ông
T không yêu cầu bị cáo S bồi thường các khoản thiệt hại.
Lời nói sau cùng của bị cáo S: Bị cáo không có nói gì.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Trên sở nội dung ván, căn cứ vào các T liệu trong hồ vụ án đã được tranh
tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của quan điều tra Công an huyện U Minh,
Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện U Minh, Kiểm sát viên trong quá trình điều
tra, truy tđã thực hiện đúng vthẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố
tụng hình sự. Qúa trình điều tra tại phiên tòa, bị cáo bị hại không ai ý kiến
hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố
tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của quan tiến hành tố tụng, người tiến
hành tố tụng đã thực hiện là hợp pháp.
[2] Tại phiên tòa thẩm, bị cáo Phạm Văn S thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội
của mình như Cáo trạng đã truy tố. Lời khai của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai
của bị cáo trong quá trình điều tra, lời khai của bị hại, người làm chứng, kết quả thực
nghiệm điều tra, kết luận giám định thương tích của bị hại các T liệu, chứng cứ khác
thu thập trong hồ vụ án. Do đó, Hội đồng xét xử đủ căn cứ kết luận: Do mâu
thuẫn với nhau về việc tranh chấp đất đai nên khoảng 12 giờ 30 phút ngày 30/6/2023, ti
khu vực nhà của ông T thuộc ấp A, KH, huyện U Minh, tỉnh Mau, trong quá trình
4
xảy ra cự cải, đánh nhau giữa hai bên, bcáo S nhặt khúc gỗ dạng đố vuông (chiều dài
155cm, một đầu bằng kích thước 4,8cm x 09cm, đầu còn lại hình nhọn 4,8cm x
1,5cm) đánh trúng vào vùng thái dương trái của ông T gây thương tích theo giám định
với tỷ lệ thương tật là 19%.
[3] Xét thấy, vì muốn giải quyết mâu thuẫn bằng biện pháp bạo lực nên bị cáo S đã
bất chấp quy định pháp luật, cố ý gây thương tích cho ông T, bị cáo sử dụng khúc gỗ đố
vuông cứng chắc hung khí nguy hiểm tính sát thương cao đánh ông T gây thương
tích. Hành vi của bcáo nguy hiểm cho hội, xâm phạm đến sức khỏe của người
khác với lỗi cố ý trực tiếp, làm ảnh hưởng xấu đến an ninh trật tự tại địa phương. Hành vi
của bị cáo có đủ yếu tố cấu thành tội “Cố ý gây thương tích” quy định tại điểm đ khoản 2
Điều 134 Bộ luật hình sự. Do đó, cáo trạng truy tố và luận tội của đại diện Viện kiểm sát
về hành vi phạm tội của bị cáo là có căn cứ, đúng quy định pháp luật.
[4] Với tính chất, mức độ phạm tội đã gây ra, cần phải cách ly bị cáo S ra khỏi đời
sống hội một thời gian nhằm để răn đe, phòng ngừa chung cải tạo giáo dục bị cáo
trở thành người ích cho hội. Tuy nhiên, khi áp dụng hình phạt xem xét các tình
tiết giảm nhẹ cho bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, bị hại xin giảm nhẹ hình
phạt cho bị cáo, sviệc bị cáo phạm tội một phần lỗi của phía bị hại là hành vi
đánh bị cáo trước dẫn đến bị cáo đánh lại gây thương tích, các tình tiết giảm nhẹ này
được quy định tại điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự.
[5] Về trách nhiệm dân sự: Ông T không yêu cầu bị cáo S bồi thường các khoản
thiệt hại nên không xem xét.
[6] Về vật chứng thu giữ gồm 01 khúc gỗ (dạng đố vuông) chiều dài 155cm, một
đầu bằng kích thước 4,8cm x 09cm, đầu còn lại kích thước 4,8cm x 1,5cm, có hình nhọn,
tình trạng khúc gỗ rắn chắc, bị cáo S xác định đây là hung khí dùng để đánh vào đầu của
ông T; 01 khúc g(dạng đố vuông) chiều dài 111cm, một đầu bằng kích thước 02cm x
03cm, đầu còn lại kích thước 1,6cm x 2,5cm x 0,5cm x 2,2cm, tình trạng khúc gỗ rắn
chắc, do Anh giao nộp; 01 thanh kim loại (dạng tròn) chiều dài 150cm, đdài vòng
tròn 8,4cm, mỗi đầu thanh kim loại gắn một đoạn kim loại hình răng, chiều dài
05cm, trên mỗi đoạn kim loại hình răng một khoen kim loại một con tán, do
Anh giao nộp. Các vật chứng này bị cáo S sử dụng phạm tội liên quan đến vụ án,
hiện không còn giá trị sử dụng nên tịch thu tiêu hủy.
[7] Án phí hình sự sơ thẩm bị cáo S phải chịu 200.000 đồng.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH:
Tuyên bố bị cáo Phạm Văn S phạm tội “Cố ý gây thương tích”.
Áp dụng điểm đ khoản 2 Điều 134, điểm s khoản 1 khoản 2 Điều 51 Bộ luật
hình sự.
Phạt bị cáo Phạm Văn S 03 (ba) năm , thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ
ngày 19/4/2024.
Áp dụng Điều 47 của Bộ luật hình sự, Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự
điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy
ban thường vụ Quốc hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án.
5
Tịch thu tiêu hủy các vật chứng thu giữ gồm 01 khúc gỗ (dạng đố vuông) chiều dài
155cm, một đầu bằng kích thước 4,8cm x 09cm, đầu còn lại kích thước 4,8cm x 1,5cm,
hình nhọn, tình trạng khúc gỗ rắn chắc; 01 khúc gỗ (dạng đố vuông) chiều dài 111cm,
một đầu bằng kích thước 02cm x 03cm, đầu còn lại kích thước 1,6cm x 2,5cm x 0,5cm x
2,2cm, tình trạng khúc gỗ rắn chắc; 01 thanh kim loại (dạng tròn) chiều dài 150cm, độ
dài vòng tròn 8,4cm, mỗi đầu thanh kim loại gắn một đoạn kim loại hình răng,
chiều dài 05cm, trên mỗi đoạn kim loại hình răng có một khoen kim loại và một con tán.
Án phí hình sự sơ thẩm bị cáo Phạm Văn S phải chịu 200.000 đồng (Hai trăm ngàn
đồng).
Bị cáo và bị hại có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ SƠ THẨM
Nơi nhận:
THẨM PHÁN – CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
- VKSND tỉnh Cà Mau;
- VKSND huyện U Minh;
- CAND huyện U Minh;
- CCTHADS huyện U Minh;
- Bị cáo và người tham gia tố tụng;
- Lưu hồ sơ, VP TANDHUM.
Bùi Văn Việt
6
7
Tải về
Bản án số 99/2024/DS-ST Bản án số 99/2024/DS-ST

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án số 99/2024/DS-ST Bản án số 99/2024/DS-ST

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án/ Quyết định cùng đối tượng

Bản án cùng lĩnh vực

Bản án mới nhất