Bản án số 90/2024/DS-ST ngày 30/09/2024 của TAND huyện Bù Đăng, tỉnh Bình Phước về tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất
- Thuộc tính
- Nội dung
- VB gốc
- VB liên quan
- Lược đồ
- Đính chính
- Án lệ
- BA/QĐ cùng nội dung
- Tải về
Tải văn bản
-
Bản án số 90/2024/DS-ST
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
-
Bản án số 90/2024/DS-ST
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Báo lỗi
Thuộc tính Bản án 90/2024/DS-ST
Tên Bản án: | Bản án số 90/2024/DS-ST ngày 30/09/2024 của TAND huyện Bù Đăng, tỉnh Bình Phước về tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất |
---|---|
Quan hệ pháp luật: | Tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Tòa án xét xử: | TAND huyện Bù Đăng (TAND tỉnh Bình Phước) |
Số hiệu: | 90/2024/DS-ST |
Loại văn bản: | Bản án |
Ngày ban hành: | 30/09/2024 |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Áp dụng án lệ: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Đính chính: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Thông tin về vụ/việc: | Tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất |
Tóm tắt Bản án
Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!
Tải văn bản

1
TOÀ ÁN NHÂN DÂN
HUYỆN BÙ ĐĂNG
TỈNH BÌNH PHƯỚC
Bản án số: 90/2024/DS-ST
Ngày: 30 – 9 - 2024
V/v: Tranh chấp hợp đồng
chuyển nhượng quyền sử dụng
đất; yêu cầu công nhận quyền sử
dụng đất
CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN BÙ ĐĂNG, TỈNH BÌNH PHƯỚC
Với thành phần Hội đồng xét xử sơ thẩm gồm có:
- Thẩm phán – Chủ toạ phiên toà: Bà Trương Thị Đào
- Các Hội thẩm nhân dân: Ông Trần Ngọc Thiện
Bà Trần Thị Hải
- Thư ký phiên toà: Bà Mai Thị Chang – Thư ký Tòa án của Toà án nhân dân
huyện Bù Đăng, tỉnh Bình Phước
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Bù Đăng tham gia phiên tòa: Bà Trịnh
Thị Tâm – Kiểm sát viên.
Trong ngày 25 và ngày 30 tháng 9 năm 2024 tại trụ sở Toà án nhân dân tỉnh Bình
Phước mở phiên tòa xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 188/2020/ TLST- DS ngày
08 tháng 10 năm 2020 về việc “Tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng
đất; yêu cầu công nhận quyền sử dụng đất”. Theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số
105/QĐ-PT ngày 27 tháng 8 năm 2024 giữa các đương sự:
* Nguyên đơn: Bà Nguyễn Thị R, sinh năm 1958 (Vắng mặt khi tuyên án)
Hộ khẩu thường trú: Thôn A, xã B , huyện c, tỉnh Bình Phước.
Chỗ ở hiện nay: Ấp D, xã E, huyện G, tỉnh Tây Ninh.
Người đại diện theo ủy quyền: Ông Nguyễn Thành Th, sinh năm 1977 (Vắng
mặt, xin vắng mặt)
Địa chỉ: Khu Đức Lập, thị trấn Đức Phong, huyện Bù Đăng, tỉnh Bình Phước.
* Bị đơn: Ông Lê Văn Th, sinh năm: 1952 (Có mặt)
Địa chỉ: Thôn A, xã B , huyện c, tỉnh Bình Phước.
Người đại diện theo ủy quyền: Ông Nguyễn Văn L, sinh năm 1962 (Có mặt)
Địa chỉ: Ấp H, xã I, huyện K, tỉnh Tây Ninh.
*Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
- Bà Biện Thị Ch, sinh năm 1960 (Có mặt)
Địa chỉ: Thôn A, xã B , huyện c, tỉnh Bình Phước.
- Chi nhánh Viettel Bình Phước - Tập đoàn viễn thông Quân đội
Địa chỉ: Phú Riềng Đỏ, phường L, TP M, tỉnh Bình Phước.
2
Người đại diện theo ủy quyền: Ông Phan Văn T, sinh năm 1979 (Vắng mặt, xin
vắng mặt)
Địa chỉ: Chung cư Mỹ Long, đường số 18, phường N, quận O, thành phố Hồ Chí
Minh.
- Anh Lê Quốc T1, sinh năm 1988 (Có mặt)
Hộ khẩu thường trú: Thôn A, xã B , huyện c, tỉnh Bình Phước.
Chỗ ở hiện nay: Ấp D, xã E, huyện G, tỉnh Tây Ninh.
- Chị Lê Thị Kim Th, sinh năm 1991 (Vắng mặt, có đơn xin vắng mặt)
Hộ khẩu thường trú: Thôn A, xã B , huyện c, tỉnh Bình Phước.
Nơi làm việc: Công ty Quan Chí, đường 29, phường P, thành phố Q, tỉnh Bình
Dương.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Theo đơn khởi kiện và quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn bà Nguyễn Thị
R trình bày:
Bà Nguyễn Thị R và ông Lê Văn Th kết hôn với nhau vào năm 1994, quá trình
chung sống bà R, ông Th đã tạo lập được phần đất có diện tích khoảng 7,7 ha tại Thôn
A, xã B , huyện c, tỉnh Bình Phước (gồm thửa số 162 và thửa số 150, tờ bản đồ số 6).
Tại thời điểm này cả 02 thửa đất này đều chưa được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng
đất. Đến năm 2012 thì bà R và ông Th ly hôn theo Quyết định công nhận thuận tình ly
hôn số 84 ngày 06/9/2012 của Tòa án nhân dân huyện Bù Đăng. Khi ly hôn ông Th và
bà R không yêu cầu giải quyết về tài sản chung mà tự thỏa thuận bằng miệng chia đôi
phần đất nên trên mỗi người quản lý, sử dụng một nửa. Bà R sẽ quản lý, sử dụng phần
đất (thửa 162) phía dưới đường be (nay là đường liên thôn) còn ông Th sẽ quản lý, sử
dụng phần đất (thửa số 150) từ đường be (nay là đường liên thôn) trở lên phía trên và hai
bên không được tự ý chuyển nhượng cho người khác.
Ngày 28/9/2020, thửa đất số 162 nêu trên được Ủy ban nhân dân (viết tắt UBND)
huyện Bù Đăng cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số vào sổ cấp CH 02853 cho
hộ ông Lê Văn Th cùng vợ là bà Nguyễn Thị R với diện tích 32.300m
2
. Còn thửa số 150
có diện tích đo đạc thực tế là 41.664m
2
thì do ông Th quản lý, sử dụng nhưng đến nay
chưa được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.
Tuy nhiên, trong quá trình sử dụng thì ngày 28/5/2015, ông Th chuyển nhượng
cho bà Biện Thị Ch một phần đất nằm trong thửa đất số 150 với diện tích khoảng 1.500m
2
(diện tích đo đạc thực tế là 1546,1m
2
) với giá 75.000.000 đồng. Việc ông Th chuyển
nhượng đất cho bà Ch thì bà R không được biết cho đến năm 2019 khi bà Ch liên hệ để
làm thủ tục tách thửa thì bà R mới được biết. Mặt khác, khi ly hôn bà R và ông Th có
thỏa thuận với nhau khi chia đất mỗi người quản lý một phần như đã trình bày, thì anh
Lê Quốc T1 là con trai theo bà R thì được chia cho 01 ha trong phần đất phía bên dưới
đường, còn chị Lê Thị Kim Th theo bố là ông Th sẽ được chia 01 ha trong phần đất ông
Th được quản lý, sử dụng phía bên trên. Tuy nhiên, đối với phần đất bà R quản lý, sử
dụng thì bà R đã chia đất và thủ tục sang tên cho anh T1 một phần; hiện nay bà R, anh
T1 cũng đã chuyển nhượng cho ông Nguyễn Văn D nhưng ông Th lại không thực hiện
thỏa thuận chia đất đối với chị Th.
Do đó, bà R khởi kiện yêu cầu Tòa án: Tuyên hủy hợp đồng chuyển nhượng quyền
sử dụng đất theo Giấy sang nhượng đất rẫy viết tay đề ngày 28/5/2015 giữa ông Lê Văn

3
Th và bà Biện Thị Ch đối với diện tích đất khoảng 1.500m
2
(diện tích thực tế là 1546,1m
2
)
tọa lạc tại Thôn A, xã B , huyện c, tỉnh Bình Phước. Đồng thời, không đồng ý với yêu
cầu độc lập của bà Biện Thị Ch đề nghị công nhận hợp đồng chuyển nhượng này và yêu
cầu phản tố của ông Lê Văn Th đề nghị công nhận thửa đất số 150 có diện tích 41.664m
2
thuộc quyền quản lý, sử dụng của ông Th vì việc chia tài sản là quyền sử đất giữa bà R
và ông Th chỉ thỏa thuận miệng, không lập thành văn bản.
Bị đơn ông Lê Văn Th và người đại diện theo ủy quyền là ông Lê Văn L trình
bày:
Gia đình ông Lê Văn Th từ tỉnh Tây Ninh lên xã Nghĩa Bình, huyện Bù Đăng sinh
sống từ năm 1995. Khi lên không có tài sản gì nên được em trai là ông Nguyễn Văn L
cho vợ chồng con cái thửa đất có diện tích khoảng hơn 02ha để làm nhà ở và canh tác.
Sau đó, ông Th và bà Nguyễn Thị R cùng với ông L khai phá thêm để được diện tích đất
khoảng hơn 07ha gồm 02 phần, một phần phía trên đường be nhỏ (nay là đường nhựa
liên thôn) có diện tích khoảng hơn 04 ha; phần đất phía dưới đường be có diện tích
khoảng 3,3ha. Sau khi khai phá xong thì ông L giao toàn bộ thửa đất cho vợ chồng ông
Th, bà R quản lý, sử dụng trồng cây điều trên toàn bộ diện tích đất. Cả hai phần diện tích
đất này đều chưa được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Ông Th và bà R chung
sống đến năm 2012 thì ly hôn. Khi ly hôn ông Th, bà R không yêu cầu Tòa án giải quyết
tài sản chung mà tự thỏa thuận miệng với nhau như sau: Phần diện tích khoảng hơn 04
ha phía trên đường thì giao cho ông Th quản lý, sử dụng; còn phần diện tích đất khoảng
3,3ha phía dưới đường giao cho bà R quản lý, sử dụng. Đồng thời con trai của ông Th
và bà R là anh Lê Quốc T1 sống với bà R còn con gái chị Lê Thị Kim Th thì sống cùng
ông Th. Từ đó đến nay, các bên vẫn quản lý, sử dụng và thu hoạch điều trên phần diện
tích đất đã thỏa thuận này mà không ai có ý kiến hay tranh chấp gì. Khoảng tháng 5/2015
ông Th bán lại cho bà Biện Thị Ch là người có đất giáp ranh với đất của ông Th quản lý,
sử dụng một phần đất có diện tích 1.500m
2
giáp ranh đất bà Ch với giá 75.000.000 đồng.
Khi bán đất bà R có biết vì bà R sinh sống và canh tác phần đất đối diện phần đất của
ông Th quản lý và nhà bà Ch.
Phần diện tích đất bà R được chia thì bà R và anh T1 đã làm thủ tục cấp giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất. Năm 2023 bà R, anh T1 đã bán diện tích đất này lấy tiền
sử dụng riêng nhưng lại khởi kiện việc ông Th bán đất thuộc quyền quản lý, sử dụng của
ông Th cho bà Ch là không đúng. Do đó, ông Th không đồng ý yêu cầu khởi kiện của bà
R, đồng thời yêu cầu Tòa án công nhận phần diện tích đất 41.664m
2
(theo kết quả đo
đạc) tọa lạc tại Thôn A, xã B , huyện c, tỉnh Bình Phước thuộc quyền quản lý, sử dụng
của ông Th; công nhận phần diện tích đất 1.546,1m
2
ông Th đã chuyển nhượng cho bà
Biện Thị Ch trong phần đất nêu trên thuộc quyền quản lý sử dụng của bà Biện Thị Ch.
Đối với việc chia đất giữa ông Th với chị Th thì giữa ông Th vàđã tự thỏa thuận
với nhau bằng văn bản vào ngày 08/8/2024 có người làm chứng ký tên như sau: Ông Th
sẽ chia cho chị Th một phần trong diện tích đất 41.664m
2
mà ông Th đang quản lý sử
dụng có chiều ngang 10m mặt đường giáp với phần đất đã bán cho bà Ch kéo xuống đủ
diện tích 5.000m
2
. Khi nào ông Th làm được thủ tục cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng
đất thì sẽ làm thủ tục tách thửa sang tên cho chị Th diện tích đất này; nếu không tách
được thửa thì ông Th sẽ hoàn trả cho chị Th số tiền tương đương với diện tích đất chị Th
được chia tại thời điểm bán đất. Ông Th cam đoan sẽ thực hiện thỏa thuận này với chị
Th.
4
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà Biện Thị Ch trình bày: Gia đình bà
Ch có phần diện tích đất giáp ranh với thửa đất của ông Th đang quản lý sử dụng. Bà Ch
biết ông Th đã ly hôn với bà R năm 2013, sau khi ly hôn ông Th và bà R đã tự thỏa thuận
chia tài sản chung là thửa đất này từ năm 2013, ông Th được quản lý, sử dụng phần đất
phía trên đường giáp ranh đất của bà Ch nên vào năm 2015 khi ông Th bị bệnh nặng cần
tiền để điều trị, muốn bán một phần đất có diện tích 1,5 Sào giáp ranh đất của bà Ch thì
bà Ch đồng ý mua. Ngày 28/5/2015, bà Ch và ông Th làm giấy sang nhượng đất rẫy với
diện tích đất 1.500m
2
có tứ cận Đông giáp đường đất rộng 19,5m, tây giáp đất ông Th
dài 75m, giá thỏa thuận 75.000.000 đồng, bà Ch đưa trước 70.000.000đồng, số tiền còn
lại thì khi nào làm thủ tục tách sổ cho bà Ch thì bà Ch mới trả hết cho ông Th. Khi mua
thì đất chưa được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Việc mua bán này có sự chứng
kiến và ký tên của Phạm Văn Huề là trưởng thôn, ông Nguyễn Trọng Triều và ông Phạm
Hải ở thôn Bình Hòa. Sau khi làm giấy chuyển nhượng và trả tiền xong thì bà Ch nhận
đất quản lý, sử dụng cho tới nay. Khi mua thì trên đất có hơn 10 cây điều, sau đó bà Ch
cưa điều để trồng tiêu trên toàn bộ phần đất này. Đến năm 2020 thì bà Ch phá một nửa
phần diện tích đất trồng tiêu để trồng điều, còn phần đất còn lại thì bà Ch trồng điều xen
với cây tiêu. Trong thời gian tháng 6/2015, bà Ch có cho Công ty Viettle chi nhánh Bình
Phước thuê khoảng 01 sào trong phần đất này để làm trụ trụ phát sóng.
Bà Ch đã nhiều lần yêu cầu ông Th làm thủ tục tách sổ cho bà Ch nhưng ông Th
nói ông Th chưa làm giấy chứng nhận quyền sử dụng đất nên chưa tách được sổ cho bà
Ch, vì vậy cho đến nay bà Ch vẫn chưa được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất
đối với phần đất 1.500m
2
mà bà Ch đã mua của ông Th. Khi bà Ch mua đất của ông Th
và quá trình bà Ch quản lý, sử dụng thì bà R có biết vì bà R ở đối diện nhà bà Ch nhưng
không có ý kiến gì. Cho đến năm 2019 khi bà Ch muốn tách sổ sang tên cho bà Ch thì
bà R không đồng ý vì cho rằng khi mua đất không thông báo cho bà R biết. Tới năm
2020 thì bà R khởi kiện việc mua bán đất giữa bà Ch với ông Th ra Tòa. Do đó, bà Ch
không đồng ý yêu cầu khởi kiện của bà R về việc yêu cầu hủy hợp đồng chuyển nhượng
quyền sử dụng đất theo giấy sang nhượng đất rẫy ngày 28/5/2015 giữa bà Ch với ông Lê
Văn Th; đồng thời bà Ch có yêu cầu độc lập đề nghị Tòa án giải quyết Công nhận hợp
đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất theo giấy sang nhượng đất rẫy ngày 28/5/2015
giữa bà Ch với ông Lê Văn Th là hợp pháp. Buộc ông Th có nghĩa vụ làm thủ tục tách
thửa, sang tên đối với quyền sử dụng đất bà Ch đã nhận sang nhượng là 1.546,1m
2
. Đối
với hợp đồng thuê đất giữa bà Ch với Công Ty Viettle chi nhánh Bình Phước thì bà Ch
sẽ tự thỏa thuận với Công ty.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan anh Lê Quốc T1 trình bày: Anh T1 là
con trai của ông Lê Văn Th và bà Nguyễn Thị R. Ông Th và bà R ly hôn vào năm 2012;
khi ly hôn ông Th, bà R không yêu cầu giải quyết về tài sản mà tự thỏa thuận bằng miệng
chia đôi phần đất có diện tích khoảng 7,7 ha tại Thôn A, xã B , huyện c, tỉnh Bình Phước.
Theo đó, mỗi người quản lý, sử dụng một nửa, bà R sử dụng phần đất từ con đường đất
trở về sau còn ông Th quản lý sử dụng từ con đường về trước. Các con ai ở với bố mẹ
thì được người đó chia cho 01ha trong phần đất được chia quản lý. Anh T1 ở với bà R
thì được bà R chia cho 01 ha, còn chị Lê Thị Kim Th ở với ông Th thì được ông Th chia
01ha. Bà R đã chia cho anh T1 01 ha nhưng anh T1 và bà R vẫn quản lý chung trên thửa
đất. Sau khi được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đối với thửa đất của bà R được
chia quản lý thì bà R đã thủ tục tách sổ ra cho anh T1 diện tích hơn 01ha. Phần đất của
anh T1 và bà R đều đã chuyển nhượng cho ông Nguyễn Văn Dương với giá 06 tỉ đồng
5
vào năm 2023; sau khi bán đất thì bà R, anh T1 đã giao đất cho ông Dương để về Tây
Ninh sinh sống cho tới nay. Còn phần đất của ông Th thì ông Th không chia cho em gái
anh T1 là chị Th. Do đó, Anh T1 đồng ý với yêu cầu khởi kiện của bà R; đối với yêu cầu
phản tố của ông Th và yêu cầu độc lập của bà Ch thì anh T1 không đồng ý.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ chị Lê Thị Kim Th trình bày: Chị Th là con gái
của ông Lê Văn Th và bà Nguyễn Thị R. Ông Th và bà R ly hôn năm 2012, khi ly hôn
ông Th, bà R không yêu cầu giải quyết về tài sản mà tự thỏa thuận bằng miệng chia đôi
phần đất có diện tích khoảng 7,7 ha tại Thôn A, xã B , huyện c, tỉnh Bình Phước mỗi
người quản lý, sử dụng một nửa. Bà R sử dụng phần đất từ con đường đất trở về sau còn
ông Th quản lý sử dụng từ con đường về trước. Các con ai đi với bố mẹ thì được người
đó chia một phần đất. Chị Th được biết phần đất của bà R quản lý thì bà R đã đã chia
cho anh T1, còn phần đất của ông Th quản lý thì giữa chị Th và ông Th đã tự thỏa thuận
với nhau bằng văn bản vào ngày 08/8/2024 có người làm chứng ký tên. Theo đó, ông Th
sẽ chia cho chị Th phần diện tích có 10m ngang mặt đường giáp với phần đất bán cho bà
Ch kéo xuống đo đủ 5.000m
2
. Khi nào ông Th làm thủ tục cấp giấy chứng nhận quyền
sử dụng đất thì sẽ làm thủ tục tách thửa sang tên cho chi Thu, nếu không tách được thửa
thì ông Th sẽ hoàn trả cho chị Th số tiền tương đương với diện tích đất chị Th được chia
tại thời điểm ông Th bán đất. Đối với thỏa thuận này giữa chị Th và ông Th sẽ tự giải
quyết sau, chị Th không có yêu cầu giải quyết trong vụ án này. Nếu sau này ông Th
không thực hiện theo thỏa thuận chị Th sẽ khởi kiện ông Th bằng vụ án khác.
Đối với yêu cầu khởi kiện của bà Nguyễn Thị R, yêu cầu độc lập của bà Biện Thị
Ch và yêu cầu phản tố của ông Lê Văn Th không có liên quan tới chị Th nên chị Th
không có ý kiến.
Người đại diện theo ủy của công ty Viettel, anh Nguyễn Văn T trình bày: Nhằm
đáp ứng nhu cầu phát sóng phục vụ khách hàng và người dân tại thôn Bình Hòa, xã Nghĩa
Bình thì Chi nhánh Viettle Bình Phước cần tiến hành làm trụ phát sóng tại địa phương.
Do đó, vào ngày 15/6/2015, Chi nhánh Viettle có ký hợp đồng thuê một phần đất thuộc
thửa số 166, tờ bản đồ số 6 được UBND huyện Bù Đăng cấp giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất cho bà Ch vào ngày 26/6/2015 để làm trụ phát sóng. Theo nội dung hợp đồng
thì Chi nhánh Viettle sẽ thuê phần đất của bà Ch trong thời hạn 10 năm, giá thuê tháng
2.000.000 đồng/tháng. Khi thuê hai bên có làm hợp đồng và ký tên, có xác nhận của
Chính quyền địa phương. Từ thời điểm Chi nhánh làm trụ phát sóng và hoạt động cho
tới nay thì không có ai có ý kiến hay tranh chấp gì.
Việc tranh chấp quyền sử dụng đất giữa ông Lê Văn Th với bà Nguyễn Thị R và
bà Biện Thị Ch phía Chi nhánh Vietle không có ý kiến. Tuy nhiên, hiện nay Chi nhánh
Viettle đã xây trụ phát sóng và đang hoạt động trên phần đất tranh chấp, việc di dời trụ
phát sóng sẽ ảnh hưởng lớn đến thời gian và chi phí nên trong trường hợp có căn cứ để
tuyên hủy hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa bà Ch và ông Th thì phía
Chi nhánh sẽ thỏa thuận với bà Ch và ông Th để hủy hợp đồng với bà Ch và ký lại hợp
đồng thuê đất với ông Th.
Tại phiên tòa:
Nguyên đơn bà Nguyễn Thị R vẫn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện, đồng thời không
đồng ý với yêu cầu độc lập của bà Ch và yêu cầu phản tố của ông Th.
Bị đơn ông Lê Văn Th không đồng ý yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, đồng ý
yêu cầu độc lập của bà Ch và vẫn giữ nguyên yêu cầu phản tố. Đối với số tiền 5.000.000

6
đồng bà Ch chưa trả theo thỏa thuận khi chuyển nhượng thì ông Th không yêu cầu bà
Ch trả mà để cho bà Ch sau này làm thủ tục tách thửa, sang tên.
Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan bà Biện Thị Ch không đồng ý yêu cầu khởi
kiện của nguyên đơn, đồng ý yêu cầu phản tố của ông Th và vẫn giữ nguyên toàn bộ yêu
cầu độc lập của mình. Bà Ch đồng ý sử dụng số tiền 5.000.000 đồng chưa trả cho ông
Th theo thỏa thuận mua bán đất để làm chi phí khi làm thủ tục tách thửa, sang tên.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan anh Lê Quốc T1 đồng ý với yêu cầu khởi
kiện của bà R, đồng thời không đồng ý với yêu cầu độc lập của bà Ch và yêu cầu phản
tố của ông Th.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Bù Đăng phát biểu ý kiến:
Về việc tuân theo pháp luật của Thẩm phán và Hội đồng xét xử, kể từ khi thụ lý
vụ án và tại phiên toà, Thẩm phán và Hội đồng xét xử tuân thủ đúng các quy định của
Bộ luật tố tụng dân sự.
Về hướng giải quyết vụ án: Đề nghị Hội đồng xét xử Không chấp nhận yêu cầu
khởi kiện của nguyên đơn bà Nguyễn Thị R đối với yêu cầu hủy Hợp đồng chuyển nhượng
quyền sử dụng đất theo Giấy sang nhượng đất rẫy viết tay đề ngày 28/5/2015 giữa ông Lê
Văn Th và bà Biện Thị Ch.
Chấp nhận yêu cầu phản tố của ông Lê Văn Th: Công nhận phần đất có diện tích
41.664m
2
thuộc thửa 150, tờ bản đố số 6 tọa lạc tại Thôn A, xã B , huyện c, tỉnh Bình
Phước thuộc quyền quản lý, sử dụng của ông Lê Văn Th. Chấp nhận yêu cầu phản tố của
bà Biện Thị Ch: Công nhận hợp đồng chuyển hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất
theo Giấy sang nhượng đất rẫy viết tay đề ngày 28/5/2015 giữa ông Lê Văn Th với bà
Biện Thị Ch đối với diện diện tích 1.546,1m
2
tọa lạc tại Thôn A, xã B , huyện c, tỉnh
Bình Phước; Bà Biện Thị Ch được quyền sử dụng đối với phần đất có diện tích 1.546,1m
2
thuộc thửa số 150, tờ bản đồ số 6 lạc tại Thôn A, xã B , huyện c, tỉnh Bình Phước.
Ông Th và bà Ch có quyền liên hệ với cơ quan nhà nước có thẩm quyền để làm
thủ tục cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng theo quy định.
NHẬN ĐỊNH TÒA ÁN:
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa,
trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến của người tham gia tố tụng, căn
cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa.
Về tố tụng:
[1] Về quan hệ tranh chấp và thẩm quyền giải quyết: Theo đơn khởi kiện của bà
Nguyễn Thị R khởi kiện ông Lê Văn Th có nơi cư trú tại xã Nghĩa Bình, huyện Bù Đăng,
tỉnh Bình Phước để yêu cầu hủy Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất theo Giấy
sang nhượng đất rẫy viết tay đề ngày 28/5/2015 giữa ông Lê Văn Th và bà Biện Thị Ch
đối với diện tích đất khoảng 1.500m
2
(diện tích đo đạc thực tế là 1546,1m
2
) tọa lạc tại
Thôn A, xã B , huyện c, tỉnh Bình Phước. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà
Biện Thị Ch có yêu cầu độc lập yêu cầu công nhận Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử
dụng đất theo Giấy sang nhượng đất rẫy viết tay đề ngày 28/5/2015 giữa ông Lê Văn Th
và bà Biện Thị Ch; bị đơn ông Lê Văn Th có yêu cầu phản tố yêu cầu công nhận thửa
đất có diện tích 41.664m
2
(thửa đất số 150, tờ bản đồ số 6) tọa lạc tại Thôn A, xã B ,
huyện c, tỉnh Bình Phước thuộc quyền quản lý và sử dụng của ông Th. Do đó, Hội đồng
7
xét xử xác định đây là vụ án dân sự về việc: “Tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền
sử dụng đất; yêu cầu công nhận quyền sử dụng đất". Căn cứ khoản 2 và 3 Điều 26, điểm
a khoản 1 Điều 35 của Bộ luật tố tụng dân sự, vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của
Tòa án nhân dân huyện Bù Đăng, tỉnh Bình Phước.
[2] Về sự vắng mặt của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan chị Lê Thị Kim Th
và đại diện Công ty Viettel: Xét thấy những người này đã được Tòa án tống đạt các văn
bản tố tụng theo quy định và đều có đơn xin giải quyết vắng mặt nên Hội đồng xét xử
căn cứ Điều 227 Bộ luật tố tụng dân sự tiến hành xét xử vắng mặt chị Th và người đại
diện theo ủy quyền của Công ty Viettel.
Về nội dung:
[3] Quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa, nguyên đơn bà Nguyễn Thị R, bị
đơn ông Lê Văn Th và người có quyền lợi nghĩa vụ liên anh Lê Quốc T1, chị Lê Thị
Kim Th đều thống nhất: Bà Nguyễn Thị R và ông Lê Văn Th ly hôn từ năm 2012, khi ly
hôn hai bên không yêu cầu giải quyết về tài sản chung mà tự thỏa thuận với nhau chia
thửa đất có diện tích khoảng 7,7ha tọa lạc tại Thôn A, xã B , huyện c, tỉnh Bình Phước
thành 02 phần; bà R được quản lý, sử dụng phần đất có diện tích khoảng 3,3 ha có vị trí
từ đường liên thôn trở xuống còn ông Th được quản lý, sử dụng phần đất có diện tích
khoảng 4,1ha có vị trí từ đường liên thôn trở lên. Thời điểm này đất chưa được cấp giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất. Sau khi phân chia quyền sử dụng đất xong thì ông Th và
bà R tự quản lý, sử dụng phần đất được chia ổn định không ai tranh chấp.
[4] Tuy nhiên, theo bà R thì các bên còn thỏa thuận nội dung các con chung ai ở
với người nào thì được người đó chia cho 01ha và quá trình sử dụng không được tự ý
chuyển nhượng đất cho người khác. Tuy nhiên, vào ngày 28/5/2015 ông Th tự ý chuyển
nhượng cho bà Biện Thị Ch một phần đất có diện tích 1.500m
2
nằm trong phần đất ông
Th được chia là không đúng theo thỏa thuận nên bà R mới khởi kiện yêu cầu Hủy hợp
đồng chuyển nhượng này giữa ông Th với bà Ch.
[5] Xét lời trình bày của các bên đương sự thấy rằng: Phần diện tích đất mà bà R
đang khởi kiện có diện tích thực tế là 1.546,1m
2
nằm một phần trong thửa đất có diện
tích khoảng 4,1ha (diện tích đo đạc thực tế là 41.664m
2
) trong phần đất có diện tích
khoảng 7,7 ha là tài sản chung của bà R và ông Th tạo dựng trong thời kỳ hôn nhân.
Ngày 06/9/2012, bà R và ông Th ly hôn theo Quyết định công nhận thuận tình ly hôn và
sự thỏa thuận của các đương sự số 84/2012/QĐST- HNGĐ ngày 06/9/2012 của Tòa án
nhân dân huyện Bù Đăng. Khi ly hôn các bên không yêu cầu giải quyết về phần tài sản
mà tự thỏa thuận miệng chia thửa đất có diện tích khoảng 7,7ha nêu trên thành 02 phần;
bà R được quản lý, sử dụng phần đất có diện tích khoảng 3,3 ha có vị trí từ đường liên
thôn trở xuống còn ông Th được quản lý, sử dụng phần đất có diện tích khoảng 4,1ha có
vị trí từ đường liên thôn trở lên. Sau khi phân chia quyền sử dụng đất xong thì ông Th
và bà R quản lý, sử dụng phần đất được chia ổn định không ai tranh chấp. Đều này được
các bên đương sự thừa nhận nên căn cứ Điều 192 Bộ luật tố tụng dân sự đây là tình tiết
không phải chứng minh.
[6] Quá trình sử dụng đất, thửa đất mà bà R quản lý, sử dụng đã được UBND
huyện Bù Đăng cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số vào sổ cấp CH 02853 ngày
28/9/2020 cho bà R và ông Lê Văn Th có số thửa 162, tờ bản đồ số 6 với diện tích
32.300m
2
. Theo lời trình bày của bà R thì lý do ông Th đứng tên trên sổ đất là do ông Th
phải cùng đứng tên thì mới làm được Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất nên sau đó,

8
ông Th đã làm thủ tục sang tên lại cho bà R (theo thủ tục phân chia tài sản chung sau ly
hôn). Sau đó, bà R được Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh Bình Phước cấp Giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất vào sổ cấp GCN: CS04317 ngày 08/9/2022; Tới ngày 19/9/2022,
bà R làm thủ tục tặng cho anh Lê Văn Thái diện tích đất 15.259,8m
2
trong thửa đất số
162 này. Anh T1 đã được Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh Bình Phước cấp Giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất số vào sổ cấp GCN: CS04439 ngày 17/10/2022 đối với thửa đất
số 693 (diện tích đất đã được bà R tặng cho), phần diện tích đất còn lại là 17.040,2m
2
của bà R tách thành thửa 694. Ngày 16/10/2023, bà R và anh T1 đã chuyển nhượng thửa
đất số 693 và 694 này cho ông Nguyễn Văn Dương và bà Nguyễn Thị Thanh. Sau khi
chuyển nhượng thì bà R và anh T1 chuyển về tỉnh Tây Ninh sinh sống cho tới nay. Còn
phần diện tích đất ông Th quản lý, sử dụng thì cho tới thời điểm này bà R không có yêu
cầu công nhận hay chia tài sản chung đối với thửa đất này.
[7] Như vậy, mặc dù thỏa thuận phân chia tài sản chung là diện tích đất 7,7 ha
giữa bà R và ông Th không lập thành văn bản nhưng giữa hai bên đã thực hiện phân chia
trên thực tế và quản lý, sử dụng phần đất được chia mà không bên nào có ý kiến hay
tranh chấp; bà R đã được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, đã tặng cho anh Lê
Quốc T1 một phần và chuyển nhượng phần còn lại cho người khác và tự sử dụng số tiền
chuyển nhượng này. Do đó, có cơ sở xác định thửa đất có diện tích đo đạc thực tế là
41.664m
2
(thửa số 150, tờ bản đồ số 6), tọa lạc tại Thôn A, xã B , huyện c là quyền sử
dụng đất đã được phân chia theo thỏa thuận của vợ chồng (ông Th và bà R) sau khi ly
hôn. Tại Văn bản số 1739/UBND – NC ngày 19/7/2024 của UBND huyện Bù Đăng thì
thửa đất này có thể được xem xét cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Do đó, yêu
cầu của ông Th về việc công nhận quyền sử dụng đối với thửa đất này là có căn cứ chấp
nhận.
[8] Xét hợp đồng chuyển nhượng chuyển nhượng quyền sử dụng đất theo giấy Sang
nhượng đất rẫy viết tay đề ngày 28/5/2015 giữa ông Lê Văn Th và bà Biện Thị Ch:
[8.1] Về hình thức của hợp đồng: Tại thời điểm chuyển nhượng quyền sử dụng
đất, đất chưa được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất; hợp đồng chuyển nhượng
giữa hai bên được lập văn bản bằng giấy viết tay nhưng không có công chứng chứng
thực theo quy định là vi phạm quy định tại Điều 689 Bộ luật dân sự 2005, Điều 502 Bộ
luật dân sự năm 2015, Điều 167 luật đất đai năm 2013.
[8.2] Về nội dung: Mặc dù thời điểm bà Ch nhận chuyển nhượng thì đất chưa
được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đứng tên ông Th là vi phạm về nội dung.
Tuy nhiên, thửa đất này đã được xác định là tài sản của ông Th được chia theo thỏa
thuận phân chia tài sản giữa ông Thành và bà R. Tại Văn bản số 1739/UBND – NC ngày
19/7/2024 của UBND huyện Bù Đăng thì thửa đất này có thể được xem xét cấp Giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất. Phần đất chuyển nhượng có diện tích 1.546,1m
2
có diện
tích đủ hạn mức tách thửa theo quy định tại Điều 5 Quyết định 27/2020/QĐ-UBND ngày
16/10/2020 của UBND tỉnh Bình Phước. Sau khi nhận chuyển nhượng quyền sử dụng
đất bà Ch đã nhận đất từ năm 2015 và quản lý, sử dụng ổn định, trồng cây lâu năm mà
không có ai tranh chấp. Bà R là người sinh sống và quản lý phần đất đối diện có biết việc
này nhưng không có ý kiến phản đối. Căn cứ điểm b.3 tiểu mục mục 2.3 Nghị quyết số
02/2004 ngày 10/8/2004 của hội đồng thẩm phán tòa án nhân dân tối cao quy định: “Đối
với hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất vi phạm điều kiện được hướng dẫn tại
điểm a.4 và điểm a.6 tiểu mục 2.3, mục 2 nếu sau khi thực hiện hợp đồng chuyển nhượng,

9
bên nhận chuyển nhượng đã trồng cây lâu năm, làm nhà kiên cố... và bên nhận chuyển
nhượng không phản đối và cũng không bị cơ quan nhà nước có thẩm quyền xử lý vi phạm
hành chính theo thủ tục quy định của nhà nước về xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh
vực đất đai, thì Tòa án công nhận hợp đồng”. Mặt khác, theo quy định khoản 2 Điều 129
Bộ luật dân sự 2015 thì “Giao dịch dân sự đã được xác lập bằng văn bản nhưng vi phạm
quy định bắt buộc về công chứng, chứng thực mà một bên hoặc các bên đã thực hiện ít
nhất hai phần ba nghĩa vụ trong giao dịch thì theo yêu cầu của một bên hoặc các bên,
Tòa án ra quyết định công nhận hiệu lực của giao dịch đó. Trong trường hợp này, các
bên không phải thực hiện việc công chứng, chứng thực.” Bà Ch đã trả cho ông Th số tiền
70.000.000 đồng là đã thực hiện hơn 2/3 nghĩa vụ trong giao dịch.
[9] Từ những phân tích trên cần công nhận hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất theo
Giấy sang nhượng đất rẫy viết tay đề ngày 28/5/2015 giữa ông Lê Văn Th và bà Biện
Thị Ch đối với diện tích đất 1.546,1m
2
. Do đó, cần chấp nhận yêu cầu độc lập của bà Ch
nên yêu cầu khởi kiện của bà R đề nghị hủy hợp đồng chuyển nhượng này không được
chấp nhận.
[10] Về án phí dân sự sơ thẩm: Bà Nguyễn Thị R, ông Lê Văn Th và bà Biện Thị
Ch không phải chịu do đều là người cao tuổi theo quy định. Hoàn trả cho bà R số tiền
tạm ứng án phí đã nộp 300.000 đồng theo Biên lai thu số 015662 ngày 08/10/2020 của
Chi cục thi hành án dân sự huyện Bù Đăng.
[11] Về chi phí xem xét thẩm định tại chỗ là 3.000.000 đồng và chi phí đo đạc là
10.780.000đồng (trong đó bà R nộp 3.780.000 đồng, ông Th nộp 7.000.000 đồng), tổng
là 13.780.000 đồng. Do yêu cầu khởi kiện của bà R không được chấp nhận nên bà R phải
chịu số tiền này. Do ông Th đã nộp 7.000.000 tiền đo đạc nên bà R phải có nghĩa vụ
hoàn trả cho ông Th số tiền này.
[12] Quan điểm của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Bù Đăng tại phiên tòa
là có căn cứ nên được chấp nhận.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ khoản 2, 3 Điều 26, Điều 35, Điều 39, Điều 147, Điều 227, Điều 273
của Bộ luật Tố tụng dân sự;
Áp dụng Điều 689 Bộ luật dân sự 2005; Điều 129, Điểu 502 Bộ luật dân sự
năm 2015, Điều 101, 167 luật đất đai năm 2013;
Nghị quyết 326/2016/NQ-UBNTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường
vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ
phí Tòa án,
1. Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà Nguyễn Thị R đối với
yêu cầu hủy Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất theo Giấy sang nhượng đất rẫy viết
tay đề ngày 28/5/2015 giữa ông Lê Văn Th và bà Biện Thị Ch.
2. Chấp nhận yêu cầu phản tố của ông Lê Văn Th: Công nhận phần đất có diện
tích 41,664m
2
tọa lạc tại Thôn A, xã B , huyện c, tỉnh Bình Phước thuộc quyền quản lý,
sử dụng của Lê Văn Th. (Đất có số thửa số 150 và tứ cận theo sơ đồ đo đạc ngày
15/3/2024 của Công ty TNHH MTV đo đạc bản đồ và trắc địa công trình 401 kèm theo
bản án).

10
3. Chấp nhận yêu cầu phản tố của bà Biện Thị Ch: Công nhận hợp đồng chuyển
hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất theo Giấy sang nhượng đất rẫy viết tay đề ngày
28/5/2015 giữa ông Lê Văn Th và bà Biện Thị Ch đối với diện tích 1546,1m
2
tọa lạc tại
Thôn A, xã B , huyện c, tỉnh Bình Phước; Bà Ch được quyền sử dụng diện tích đất
1546,1m
2
(thửa số 01) nằm một phần trong thửa đất số 150, tờ bản đồ số 06; có vị trí và
tứ cận: Phía Bắc và Tây giáp phần đất còn lại của thửa đất số 150 của ông Lê Văn Th;
phía Nam giáp thửa số 166 của ông Nguyễn Văn Bình; phía Đông giáp đường nhựa (có
vị trí bao gồm các điểm a, b, 3, 4, 5 theo sơ đồ đo đạc ngày 15/3/2024 của Công ty TNHH
MTV đo đạc bản đồ và trắc địa công trình 401 kèm theo bản án)
Ông Th và bà Ch có quyền liên hệ với cơ quan nhà nước có thẩm quyền để làm
thủ tục cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng theo quy định.
4. Về án phí: Bà Nguyễn Thị R, ông Lê Văn Th và bà Biện Thị Ch không phải
chịu. Hoàn trả cho bà R số tiền tạm ứng án phí đã nộp 300.000 đồng (Ba trăm nghìn
đồng) theo Biên lai thu số 015662 ngày 08/10/2020 của Chi cục thi hành án dân sự huyện
Bù Đăng.
5. Về chi phí xem xét thẩm định tại chỗ và đo đạc: Bà Nguyễn Thị R phải chịu
13.780.000đồng (Mười ba triệu bảy trăm tám mươi nghìn đồng). Do ông Lê Văn Th đã
nộp 7.000.000 đồng (Bảy triệu đồng) tiền chi phí đo đạc nên bà R phải có nghĩa vụ hoàn
trả cho ông Th số tiền 7.000.000 đồng (Bảy triệu đồng).
6. Quyền kháng cáo: Đương sự có mặt tại phiên toàn được quyền kháng cáo bản
án này trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Đương sự vắng mặt tại phiên tòa
được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc
bản án được niêm yết theo quy định.
Nơi nhận: TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ
- TAND tỉnh Bình Phước; Thẩm phán – Chủ tọa phiên tòa
- TAND huyện Bù Đăng;
- VKSND huyện Bù Đăng;
- Chi cục THADS huyện Bù Đăng;
- Các đương sự;
- Lưu.
Trương Thị Đào
11
THÀNH VIÊN HỘI ĐỒNG XÉT XỬ
Trần Đức Hòa Lê Thị Thận
THẨM PHÁN – CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
Trương Thị Đào

12
TÒA ÁN NHÂN DÂN
HUYỆN BÙ ĐĂNG
TỈNH BÌNH PHƯỚC
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
BIÊN BẢN NGHỊ ÁN
Vào hồi giờ phút, ngày 30 tháng 9 năm 2022
Tại:
Trụ sở Tòa án nhân dân huyện Bù Đăng, tỉnh Bình Phước.

13
Với Hội đồng xét xử
sơ thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa: Bà Trương Thị Đào
Các Hội thẩm nhân dân: Ông Trần Đức Hòa và bà Lê Thị Thận
Tiến hành nghị án vụ án dân sự thụ lý số: 17/2021/ TLST- DS ngày 28 tháng 01 năm
2021 về việc “Tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất; yêu cầu tuyên
hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất vô hiệu; yêu cầu hủy Giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất” giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Ông Nguyễn Tiến Mạnh, sinh năm 1972
Địa chỉ: Số 58 Lê Hồng Phong, khu Đức Lập, thị trấn Đức Phong, huyện Bù Đăng, tỉnh
Bình Phước.
- Bị đơn: Ông Lê Đức Dũng, sinh năm 1973
Địa chỉ: Thôn 3, xã Đoàn Kết, huyện Bù Đăng, tỉnh Bình Phước. .
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
+ Bà Trần Thị Mỹ Phượng, sinh năm 1978
Địa chỉ: Thôn 3, xã Đoàn Kết, huyện Bù Đăng, tỉnh Bình Phước. .
+ Bà Nguyễn Thị Trịnh, sinh năm 1980
Địa chỉ: Số 58 Lê Hồng Phong, khu Đức Lập, thị trấn Đức Phong, huyện Bù Đăng, tỉnh
Bình Phước. .
+ Ông Phan Ngọc Phu, sinh năm 1960 và bà Trần Thị Hải, sinh năm 1963
Cùng địa chỉ: Khu Đức Hòa, thị trấn Đức Phong, huyện Bù Đăng, tỉnh Bình
Phước. .
+ Sở Tài nguyên và môi trường tỉnh Bình Phước.
Địa chỉ: Quốc lộ 14, phường Tân Bình, thành phố Đồng Xoài, tỉnh Bình Phước.
Người đại diện theo ủy quyền: Ông Hồ Quý Chiến - Giám đốc Chi nhánh Văn phòng
đăng ký đất đai huyện Bù Đăng.
Căn cứ vào tài liệu, chứng cứ đã được xem xét tại phiên tòa, kết quả tranh tụng tại phiên
tòa, các quy định của pháp luật.
HỘI ĐỒNG XÉT XỬ THẢO LUẬN, BIỂU QUYẾT,
QUYẾT ĐỊNH CÁC VẤN ĐỀ CỦA VỤ ÁN NHƯ SAU
[1] Về điều luật áp dụng:
Căn cứ khoản 3 Điều 26, Điều 35, Điều 39, Điều 147, Điều 227, Điều 273 của Bộ luật
Tố tụng dân sự;
Áp dụng Điều 122, Điều 123, Điều 131, Điều 166 Bộ luật Dân sự năm 2015;
Áp dụng Điều 166, Điều 167 Luật đất đai 2013;
Nghị quyết 326/2016/NQ-UBNTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường
vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ
phí Tòa án,
Kết quả biểu quyết: 03/03
[2] Về nội dung:
14
Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn ông Nguyễn Tiến Mạnh về việc yêu
cầu tiếp tục thực hiện hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất ngày 13/10/2017 giữa
ông Nguyễn Tiến Mạnh với ông Lê Đức Dũng.
Chấp nhận yêu cầu độc lập của bà Trần Thị Mỹ Phượng:
Tuyên hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất lập ngày 13/10/2017 giữa ông
Nguyễn Tiến Mạnh với ông Lê Đức Dũng là vô hiệu.
Buộc ông Lê Đức Dũng có trách nhiệm trả cho ông Nguyễn Tiến Mạnh, bà Nguyễn Thị
Trịnh tổng số tiền 612.633.750 đồng (Sáu trăm mười hai triệu sáu trăm ba mươi ba nghìn
bảy trăm năm mươi đồng).
Công nhận phần đất có diện tích 398,2m
2
tọa lạc tại khu Đức Lập, thị trấn Đức Phong,
huyện Bù Đăng, tỉnh Bình Phước nằm trong Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số CS
03692 ngày 10/12/2021 đối với thửa đất số 677 tờ bản đồ số 3 do Sở Tài nguyên và Môi
trường tỉnh Bình Phước cấp cho hộ ông Phan Ngọc Phu thuộc quyền quản lý, sử dụng
của ông Lê Đức Dũng và bà Trần Thị Mỹ Phượng. (Đất có số thửa là 999 và tứ cận theo
sơ đồ đo đạc ngày 08/6/2022 của Công ty TNHH MTV đo đạc bản đồ và trắc địa công
trình 401 kèm theo bản án).
Các đương sự có quyền liên hệ với cơ quan nhà nước có thẩm quyền để làm thủ tục điều
chỉnh lại Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất phù hợp với diện tích đất thực tế sử dụng.
Kiến nghị cơ quan nhà nước có thẩm quyền quản lý đất đai điều chỉnh lại Giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất số vào sổ CS 03692 do Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh Bình
Phước cấp cho hộ ông Phan Ngọc Phu ngày 10/12/2021 đối với thửa đất số 677 tờ bản
đồ số 3, tọa lạc tại khu Đức Lập, thị trấn Đức Phong, huyện Bù Đăng, tỉnh Bình Phước.
Kết quả biểu quyết: 03/03
3. Về án phí và các vấn đề khác:
Về án phí dân sự sơ thẩm: Ông Nguyễn Tiến Mạnh phải chịu 300.000 đồng (ba
trăm nghìn đồng), được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp là 300.000 đồng (ba
trăm nghìn đồng) theo Biên lai thu số 015978 ngày 28/01/2021 của Chi cục thi hành án
dân sự huyện Bù Đăng, tỉnh Bình Phước.
Ông Lê Đức Dũng phải chịu 28.505.350 đồng (hai mươi tám triệu năm trăm lẻ
năm nghìn ba trăm năm mươi đồng).
Bà Trần Thị Mỹ Phượng không phải chịu, hoàn trả cho bà Phượng số tiền tạm ứng
án phí đã nộp 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng) theo Biên lai thu tiền số 0000590 ngày
22/8/2022 của Chi cục thi hành án dân sự huyện Bù Đăng, tỉnh Bình Phước.
Về chi phí xem xét thẩm định tại chỗ và đo đạc: Ông Nguyễn Tiến Mạnh phải chịu
4.270.000đồng (bốn triệu hai trăm bảy mươi nghìn đồng).
Quyền kháng cáo: Đương sự có mặt tại phiên toàn được quyền kháng cáo bản án
này trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Đương sự vắng mặt tại phiên tòa được
quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản
án được niêm yết theo quy định.
Kết quả biểu quyết 03/03
Nghị án kết thúc vào hồi giờ phút cùng ngày
15
Biên bản nghị án đã được đọc lại cho tất cả thành viên Hội đồng xét xử cùng nghe và ký
tên dưới đây.
THÀNH VIÊN HỘI ĐỒNG XÉT XỬ
Trần Đức Hòa Lê Thị Thận
THẨM PHÁN – CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
Trương Thị Đào
Tải về
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án/ Quyết định cùng đối tượng
1
Ban hành: 13/02/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
2
Ban hành: 13/02/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
3
Ban hành: 30/01/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
4
Ban hành: 24/01/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
5
Ban hành: 24/01/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
6
Ban hành: 22/01/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
7
Ban hành: 21/01/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
8
Ban hành: 21/01/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
9
Ban hành: 21/01/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
10
Ban hành: 20/01/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
11
Ban hành: 20/01/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
12
Ban hành: 20/01/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
13
Ban hành: 20/01/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
14
Ban hành: 17/01/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
15
Ban hành: 17/01/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
16
Ban hành: 17/01/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
17
Ban hành: 17/01/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
18
Ban hành: 16/01/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
19
Ban hành: 16/01/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
20
Ban hành: 16/01/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm