Bản án số 85/2018/HS-PT ngày 11/09/2018 của TAND tỉnh Bình Dương
- Thuộc tính
- Nội dung
- VB gốc
- VB liên quan
- Lược đồ
- Đính chính
- Án lệ
- BA/QĐ cùng tội danh
- Tải về
-
Bản án số 85/2018/HS-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Thuộc tính Bản án 85/2018/HS-PT
Tên Bản án: | Bản án số 85/2018/HS-PT ngày 11/09/2018 của TAND tỉnh Bình Dương |
---|---|
Tội danh: | |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Tòa án xét xử: | TAND tỉnh Bình Dương |
Số hiệu: | 85/2018/HS-PT |
Loại văn bản: | Bản án |
Ngày ban hành: | 11/09/2018 |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Áp dụng án lệ: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Đính chính: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Thông tin về vụ án: |
Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!
Tải văn bản
TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH BÌNH DƯƠNG
BẢN ÁN 85/2018/HS-PT NGÀY 11/09/2018 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Ngày 11 tháng 9 năm 2018, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Bình Dương mở phiên toà xét xử công khai vụ án hình sự phúc thẩm thụ lý số 107/2018/TLPT-HS ngày 31 tháng 7 năm 2018 đối với bị cáo Phạm Quang Đ. Do có kháng cáo của bị cáo Phạm Quang Đ đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 84/2018/HS-ST ngày 27 tháng 6 năm 2018 của Tòa án nhân dân thị xã B, tỉnh Bình Dương.
- Bị cáo có kháng cáo:
Phạm Quang Đ, sinh năm 1979, tại thành phố Hải Phòng; nơi cư trú: Tổ 2, cụm 3, phường A, quận C, thành phố Hải Phòng; chỗ ở: Đường DF5, khu phố 5, phường D, thị xã B, tỉnh Bình Dương; nghề nghiệp: Làm thuê; trình độ học vấn: 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; con ông Phạm Hồng Đ1, sinh năm 1952 và bà Trần Thị Y, sinh năm 1952; bị cáo có vợ là Bùi Thị N, sinh năm 1985 và có 01 con sinh năm 2012; tiền án, tiền sự: Không; nhân thân: Ngày 20/5/2008, bị Tòa án nhân dân quận C, thành phố Hải Phòng xử phạt 24 tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” (hiện nay đã được xóa án tích); ngày 29/8/2013, bị Ủy ban nhân dân huyện B (nay là thị xã B), tỉnh Bình Dương ra Quyết định áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở chữa bệnh số 3484/QĐ-UBND trong thời gian 24 tháng về hành vi “Sử dụng trái phép chất ma túy” (bị cáo đã chấp hành được 17 tháng và ngày 11/02/2015 được miễn chấp hành phần thời gian còn lại). bị bắt tạm giữ và tạm giam từ ngày 25/01/2018 cho đến nay; bị cáo có mặt tại phiên toà.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Vào lúc 12 giờ 40 phút, ngày 25/01/2018 tại kiốt số 3 nhà trọ E thuộc đường NF5 giao nhau với đường DF5, khu phố 5, phường D, thị xã B, tỉnh Bình Dương, Đội Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy Công an thị xã B phối hợp cùng Công an phường D bắt quả tang Phạm Quang Đ cất giấu một túi nylon miệng kéo dính hàn kín, bên trong chứa chất màu trắng dạng tinh thể và 07 (bảy) túi nylon hàn kín, bên trong chứa chất màu trắng dạng tinh thể trong một hộp đèn ngủ màu xanh– trắng để dưới bàn inox đặt trên gác của kiốt nên tiến hành bắt giữ Phạm Quang Đ và niêm phong thu giữ vật chứng gồm:
- 01 (một) túi nylon miệng kéo dính hàn kín chứa chất màu trắng dạng tinh thể;
- 07 (bảy) túi nylon hàn kín chứa chất màu trắng dạng tinh thể;
- 09 (chín) đoạn ống hút thủy tinh;
- 01 (một) hộp đèn ngủ màu xanh – trắng.
Quá trình điều tra, Phạm Quang Đ khai nhận: Trưa ngày 24/01/2018, Phạm Quang Đ thuê xe mô tô đi từ phòng trọ của mình tại kiốt số 3 nhà trọ E đến khu vực phường F, thị xã G, tỉnh Bình Dương gặp một người đàn ông (không rõ nhân thân, lai lịch) để mua ma túy đá với giá 3.000.000 đồng (ba triệu đồng), người đàn ông đưa cho Phạm Quang Đ 01 (một) túi ma túy miệng kéo dính và 07 (bảy) túi ma túy hàn kín. Phạm Quang Đ đem ma túy về phòng trọ cất giấu bên trong hộp đèn ngủ màu xanh – trắng để dưới bàn inox đặt trên gác, mục đích để sử dụng.
Khoảng 21 giờ, ngày 24/01/2018, Phạm Đông P là bạn quen biết, làm bảo vệ giữ xe nơi Phạm Quang Đ làm việc và cũng nghiện ma túy đến phòng trọ của Phạm Quang Đ để lấy quần áo. Phạm Quang Đ lấy một ít ma túy trong túi miệng kéo dính gói vào tờ giấy cho Phạm Đông P sử dụng, sau đó Phạm Đông P đi về.
Khoảng 09 giờ, ngày 25/01/2018, Phạm Quang Đ lấy một ít ma túy trong túi miệng kéo dính ra sử dụng rồi cất túi ma túy vào vị trí cũ. Đến khoảng 12 giờ cùng ngày, Phạm Quang Đ vừa bước ra phía trước kiốt thì bị lực lượng Công an bắt quả tang.
Theo Kết luận giám định số 94/MT-PC54 ngày 01/02/2018 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bình Dương kết luận: Mẫu tinh thể gửi giám định là ma túy, loại Methamphetamine. 07 (bảy) túi nylon hàn kín có trọng lượng 1,2071 gam (M1) và 01 (một) túi nylon miệng kéo dính hàn kín có trọng lượng 5,0693 gam (M2), tổng trọng lượng là 6,2764 gam. Mẫu vật sau giám định được niêm phong, có trọng lượng 1,1252 gam (M1); 4,8559 gam (M2), tổng trọng lượng sau giám định là 5,9811 gam.
Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 84/2018/HSST ngày 27/6/2018 của Toà án nhân dân thị xã B, tỉnh Bình Dương đã quyết định:
Áp dụng điểm g khoản 2 Điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự 2015;
Tuyên bố bị cáo Phạm Quang Đ phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.
Về hình phạt: Xử phạt bị cáo Phạm Quang Đ 06 (sáu) năm tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 25/01/2018.
Án sơ thẩm còn tuyên về xử lý vật chứng, án phí, quyền kháng cáo theo quy định.
Ngày 02/7/2018, bị cáo Phạm Quang Đ làm đơn kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt. Tại phiên tòa, bị cáo Phạm Quang Đ không đưa ra được các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự mới theo quy định pháp luật nhưng vẫn giữ nguyên yêu cầu kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bình Dương tham gia phiên tòa trình bày quan điểm giải quyết vụ án: Về thời hạn kháng cáo, đơn kháng cáo của bị cáo Phạm Quang Đ đúng theo thời hạn luật định. Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo Phạm Quang Đ hoàn toàn nhận tội, Tòa án cấp sơ thẩm xét xử bị cáo tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm g khoản 2, Điều 249 Bộ luật Hình sự là có căn cứ, đúng người, đúng tội. Tòa án cấp sơ thẩm xử phạt bị cáo 06 (sáu) năm tù là phù hợp. Bị cáo kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt nhưng không cung cấp tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự mới nên không có cơ sở chấp nhận, đề nghị Hội đồng xét xử giữ nguyên bản án sơ thẩm về hình phạt đối với bị cáo.
Trong lời nói sau cùng, bị cáo mong Hội đồng xét xử xem xét các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo Phạm Quang Đ đã khai nhận hành vi phạm tội phù hợp với lời khai của bị cáo trong quá trình điều tra, bản cáo trạng và tại phiên tòa sơ thẩm như sau: Khoảng 12 giờ 40 phút, ngày 25/01/2018, tại kiốt số 3, nhà trọ E trên đường NF5-DF5, phường D, thị xã B, tỉnh Bình Dương, bị cáo Phạm Quang Đ đã có hành vi cất giấu bên trong hộp đèn ngủ màu xanh – trắng để dưới bàn inox đặt trên gác của kiốt số 3, gồm: 01 (một) túi nylon miệng kéo dính hàn kín và 07 (bảy) túi nylon hàn kín, bên trong chứa ma túy loại Methamphetamine, có tổng trọng lượng 6,2746 gam. Do vậy, Tòa án cấp sơ thẩm xử phạt bị cáo về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm g khoản 2 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) là đúng người, đúng tội, đúng quy định của pháp luật.
[2] Xét kháng cáo của bị cáo về việc xin giảm nhẹ hình phạt: Hội đồng xét xử xét thấy, hành vi phạm tội của bị cáo Phạm Quang Đ là nguy hiểm cho xã hội. Methamphetamine là chất ma túy nằm trong danh mục các chất ma túy được dùng hạn chế trong phân tích, kiểm nghiệm, nghiên cứu khoa học, điều tra tội phạm hoặc trong lĩnh vực y tế theo quy định của nhà nước. Ma túy không chỉ huỷ hoại sức khoẻ con người mà còn là nguyên nhân làm phát sinh các tội phạm, tệ nạn xã hội khác. Do đó, hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy của bị cáo là hết sức nguy hiểm, không những xâm phạm chính sách quản lý độc quyền của nhà nước đối với chất ma tuý mà còn ảnh hưởng đến tình hình an ninh, trật tự công cộng tại địa phương. Bị cáo nhận thức rõ hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy là trái pháp luật, khi bị phát hiện sẽ bị trừng trị một cách nghiêm khắc nhưng bị cáo vẫn cố ý thực hiện tội phạm cho thấy bị cáo bất chấp hậu quả và xem thường pháp luật.
Khi quyết định hình phạt đối với bị cáo, Tòa án sơ thẩm đã xem xét đầy đủ các tình tiết như: Bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; bà nội bị cáo là mẹ Việt Nam anh hùng để áp dụng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) và căn cứ vào nhân thân của bị cáo để xử phạt bị cáo Phạm Quang Đ mức án 06 (sáu) năm tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” là tương xứng với mức độ, tính chất của hành vi phạm tội của bị cáo.
Bị cáo Phạm Quang Đ kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt nhưng không cung cấp được tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự nào mới. Do đó, Hội đồng xét xử không chấp nhận kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt của bị cáo.
[3] Ý kiến của đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bình Dương về việc giải quyết vụ án là phù hợp nên Hội đồng xét xử chấp nhận.
[4] Các phần khác của quyết định án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật.
[5] Án phí hình sự phúc thẩm: Bị cáo Phạm Quang Đ phải nộp theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 355 và Điều 356 Bộ luật Tố tụng hình sự;
1/ Không chấp nhận kháng cáo của bị cáo Phạm Quang Đ; giữ nguyên quyết định của Bản án hình sự sơ thẩm số 84/2018/HSST ngày 27/6/2018 của Toà án nhân dân thị xã B, tỉnh Bình Dương.
Áp dụng điểm g khoản 2 Điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017)
Xử phạt bị cáo Phạm Quang Đ 06 (sáu) năm tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 25/01/2018.
2/ Về án phí hình sự phúc thẩm: Áp dụng Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án:
Bị cáo Phạm Quang Đ phải nộp 200.000 đồng.
3/ Các phần khác của quyết định án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án./.
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!