Bản án số 84/2025/DS-PT ngày 17/03/2025 của TAND tỉnh Đắk Lắk về tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất

  • Thuộc tính
  • Nội dung
  • VB gốc
  • VB liên quan
  • Lược đồ
  • Đính chính
  • Án lệ
  • BA/QĐ cùng nội dung
  • Tải về
Tải văn bản
Báo lỗi
  • Gửi liên kết tới Email
  • Chia sẻ:
  • Chế độ xem: Sáng | Tối
  • Thay đổi cỡ chữ:
    17

Thuộc tính Bản án 84/2025/DS-PT

Tên Bản án: Bản án số 84/2025/DS-PT ngày 17/03/2025 của TAND tỉnh Đắk Lắk về tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất
Quan hệ pháp luật: Tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất
Cấp xét xử: Phúc thẩm
Tòa án xét xử: TAND tỉnh Đắk Lắk
Số hiệu: 84/2025/DS-PT
Loại văn bản: Bản án
Ngày ban hành: 17/03/2025
Lĩnh vực: Dân sự
Áp dụng án lệ:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Đính chính:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Thông tin về vụ/việc: Không chấp nhận đơn kháng cáo của bị đơn bà Nguyễn Thị Thu H. Giữ nguyên Bản án dân sự sơ thẩm số
Tóm tắt Bản án

Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!

Tải văn bản

TÒA ÁN NHÂN DÂN
TỈNH ĐẮK LẮK
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
Bản án số: 84/2025/DS-PT
Ngày 17 - 3 - 2025
V/v: “Tranh chấp HĐCN QSD đất,
yêu cầu tuyên bố HĐCN QSD đất vô hiệu
và yêu cầu tuyên bố HĐ thế chấp vô hiệu”
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỈNH ĐẮK LẮK
- Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ toạ phiên toà: Ông Nguyễn Duy Thuấn.
Các thẩm phán: Ông Bùi Quốc Hà; Bà Nguyễn Thị My My.
- Thư phiên toà: Nguyễn Thị Khánh Chi Thẩm tra viên Tòa án nhân
tỉnh Đắk Lắk.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân n tỉnh Đắk Lắk tham gia phiên tòa: Ông
Nguyễn Chí Hiếu - Kiểm sát viên.
Ngày 17 tháng 3 năm 2025, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Lắk xét xử phúc
thẩm công khai vụ án dân sự thụ số: 422/2024/DS-PT, ngày 11/12/2024 về việc:
“Tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất; yêu cầu tuyên bố hợp đồng
chuyển nhượng quyền sử dụng đất hiệu hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất
vô hiệu”.
Do Bản án dân sự thẩm: 291/2024/DS-ST, ngày 25/9/2024 của Tòa án nhân
thành phố B, tỉnh Đăk Lăk bị kháng cáo theo thủ tục phúc thẩm.
Theo Quyết định đưa ván ra xét xử phúc thẩm số: 10/2025/QĐ-PT, ngày 21
tháng 01 năm 2025, giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Th H T; địa ch: 83 Bùi HB, phường TA, thành ph B,
tnh Đắk Lk, vng mt.
Người đi din theo y quyn: Ông Nguyn Qg Cnh; địa ch: 56/8 Nguyn Th
Đ2, thành ph B, tnh Đắk Lk, vng mt.
2
- B đơn: Nguyn Th Thu H, ông Đinh Ngc Q; địa ch: 40/21A Lương Thế
Vinh, thành ph B, tnh Đắk Lk, vng mt.
Người đại din theo y quyn ca H: Ông Thế H1; địa ch: 03 Lê Dun,
thành ph B, tnh Đắk Lk, có mt.
- Người có quyn li nghĩa v liên Q:
+ Ông H Quang T1; địa ch: 83 Bùi HB, phường TA, thành ph B, tnh Đắk
Lk, vng mt.
Người đại din theo y quyn: Ông Nguyn Quang C1; địa ch: 56/8 Nguyn Th
Đ, thành ph B, tnh Đắk Lk, vng mt.
+ Ngân hàng TMCP Sài gòn thương tín phòng giao dch KP.
Người đại din theo pháp lut: Ông Kiu Quang T2 Chc v: Giám đốc phòng
giao dch KP, vng mt.
Địa ch: 269 GP, th trn PA, huyn KP, tnh Đắk Lk
+ Văn Phòng công chng ĐA.
Người đại din theo pháp lut: Ông Đỗ Văn C Chc v: Trưởng văn phòng.
Cùng địa ch: 38 Ngô Q1, thành ph B, tnh Đắk Lk, vng mt (vng mt).
- Người kháng cáo: Bị đơn bà Nguyễn Thị Thu H.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Nguyên đơn Thị Hạ T người được ủy quyền của nguyên đơn
Thị Hạ T, đồng thời là người được ủy quyền của người quyền lợi nghĩa vụ
liên Q ông Hồ Quang T1 là ông Nguyễn Quang C1 trình bày:
Giữa Võ Thị Hạ T (T) và bà Nguyễn Thị Thu H (bà H) có mối Q hệ là bạn
quen biết nhau, nên vào ngày 25 tháng 4 năm 2023, H vay của bà T số tiền
1.000.000.00(một tỷ đồng) để làm ăn buôn bán chi tiêu trong gia đình, ông Đinh
Ngọc Q biết nhưng không giấy vay. Để làm tin, hai bên lập với nhau 01 văn
bản thỏa thuận với nội dung như sau: H tài sản riêng là thửa đất giấy chứng
nhận QSD đất số: CV 616696, thửa số 110, tờ bản đồ 12, diện tích 239,6m
2
, tọa lạc tại
phường TT, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk. Do UBND thành phố B cấp ngày 10/9/2020
cho ông Nguyễn Văn M Lương Thị H2, đăng biến động (nguồn gốc tặng
cho) cho Nguyễn Thị Thu H, ngày 24/9/2020. H hợp đồng chuyển nhượng
3
QSD đất tài sản gắn liền trên đất nói trên với T tại Văn phòng công chứng
ĐAvào ngày 04/5/2023 nhưng sau đó hủy hợp đồng này ký Hợp đồng chuyển
nhượng quyền sử dụng đất, ngày 19/06/2023 giữa vợ chồng tôi với Nguyễn Thị
Thu H, được Văn phòng Công chứng ĐA; Địa chỉ: 38 Ngô Q1, thành phố B, tỉnh Đắk
Lắk chứng thực số: 08353, quyển số: 06/2023/TP/CC-SCC/HĐGD.
Hai bên thỏa thuận, trong thời hạn 02 tháng kể từ ngày ký hợp đồng công chứng
T không được mua bán, sang nhượng, tặng cho, thế chấp…cho bên thứ ba, ngược
lại H phải trả đủ số tiền gốc và lãi đã vay cho T sau đó scùng nhau ra Văn
phòng công chứng để hủy hợp đồng sang nhượng đã giữa hai bên. Trường hợp
H không thực hiện nghĩa vụ trả nợ thì T quyền làm các thủ tục sang tên giấy
chứng nhận QSD đất này theo thỏa thuận.
Sau đó H yêu cầu T đưa thêm số tiền 150.000.000 đồng thì mới đồng ý để
T sang tên giấy chứng nhận QSD đất, lỡ đã theo nên T đành phải chấp nhận.
Như vậy tổng cộng H đã nhận của T số tiền là 1.150.000.000đ (một tỷ một trăm
năm mươi triệu đồng), điều này được thể hiện tại giấy Xin gia hạn nợ ngày
20/6/2023”. Tại giấy xin gia hạn nợ ngày 20/6/2023, do không trả được nợ đúng hạn
nên bà H và chồng bà là ông Đinh Ngọc Q tiếp tục xin gia hạn thêm 03 tháng sẽ trả đ
cả gốc và lãi. Trường hợp không trả đủ thì phải trả tối thiểu 50% cả nợ gốc, lãi và xin
gia hạn thêm 03 tháng nữa để trả nốt phần còn lại. Vì là bạn bè nể nhau nên bà T đồng
ý cho gia hạn thêm, nhưng vì số tiền này T phải đi vay nóng để đưa cho H, nên
sau khi sang tên thửa đất này, bà T đã thế chấp cho Ngân hàng Thương mại Cổ phần
Sài Gòn TT CN Đăk Lăk –Phòng giao dịch KP để vay số tiền 950.000.000 đồng trả
nợ vào số tiền đã vay nóng, nên trong thời gian cho gia đình bà H trong căn nhà nói
trên thì phải trả lãi suất thay cho T tương đương số tiền T đã bỏ ra để mua tài
sản thì bà T mới đồng ý, hết thời hạn nói trên (hạn cuối cùng là vào ngày 20/12/2023)
H ông Q stự nguyện bàn giao tài sản cho T. Tuy nhiên đến hạn vẫn không
thực hiện nghĩa vụ bàn giao tài sản như thỏa thuận còn thách thức khởi kiện ra
Tòa án.
Để đảm bảo quyền và lợi ích chính đáng của bà T. Bà T đề nghị Tòa án nhân dân
thành phố B giải quyết các vấn đề sau:
1. Buộc bà Nguyễn Thị Thu H và ông Đinh Ngọc Q (là chồng bà H) có nghĩa vụ
phải bàn giao cho vchồng T, ông Toàn toàn bộ tài sản là: Quyền sử dụng đất và
tài sản gắn liền trên đất, đối với thửa đất có giấy chứng nhận QSD đất số: CV 616696,
thửa số 110, tờ bản đồ 12, diện tích 239,6m
2
, tọa lạc tại phường TT, thành phố B, tỉnh
4
Đắk Lắk. Do UBND thành phố B cấp ngày 10/9/2020, đăng biến động ngày
26/6/2023 cho bà Võ Thị Hạ T và ông Hồ Quang T1.
2. Buộc Nguyễn Thị Thu H ông Đinh Ngọc Q nghĩa vụ trả cho T số
tiền lãi như thỏa thuận (tương đương lãi suất 20% theo quy định của pháp luật) kể từ
ngày xin gia hạn vào ngày 20/6/2023 cho đến xét xử thẩm, ngày 25/09/2024.
Tương đương với: 1.150.000.000đồng x 20/%/năm x 06 tháng 25 ngày =
117.767.000đồng tiếp tục trả lãi theo quy định của pháp luật cho đến khi bàn giao
tài sản cho chúng tôi.
Đối với kết quả đo vẽ kết quả thẩm định, định giá thì nguyên đơn không ý
kiến gì. Trường hợp vợ chồng H, ông Q không tự nguyện giao nhà đất cho
ngun đơn thì qua kết quả đo đạc, thẩm đnh i sn tdiện tích đất vợ bà T mua thiếu
hơn 20m
2
lối đi của thửa đất hiện nay theo đồ không nhưng tại thời điểm
mua đất thì bà H, ông Q đều chỉ toàn bộ phần đất phía tớc và lối đi là chuyển nợng
cho Võ Thị Hạ T ông HQuang T1. Vậy T đề nghị Hội đồng xét xử buộc bà
H, ông Q phải mở đường đi cho T ông Toàn đường đi theo quy định. Nguyên đơn
không đồng ý với u cầu phản tố của bđơn.
Bị đơn Nguyễn Thị Thu H người được ủy quyền của bị đơn ông Thế
H1 trình bày:
Nguyễn Thị Thu H Thị Hạ T mối Q hệ quen biết nhau, do khó
khăn về tài chính nên vào ngày 25 tháng 4 năm 2023, H vay của Thị Hạ
T số tiền 1.000.000.000 đồng để làm ăn, lãi suất là 2.500 đồng/01 triệu/01 ngày ông Q
biết nhưng không giấy vay. Đlàm tin, H đưa cho T giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất số CV 616696, của thửa số 110; tờ bản đồ 12, diện tích 239,6m
2
;
tọa lạc tại phường TT, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk. Do UBND thành phố B cấp ngày
10/9/2020 cho ông Nguyễn n M Lương Thị H2, đăng biến động cho
Nguyễn Thị Thu H ngày 24/9/2020. Ngoài ra, hai bên còn lập Văn bản thỏa thuận.
Thể hiện bà H vay của bà T số tiền một tỷ đồng, thời hạn vay là 02 tháng. Để đảm bảo
nghĩa vụ trả nợ hai bên sẽ lập hợp đồng giả cách, bà H chuyển nhượng quyền sử dụng
đất nêu trên cho T. Sau hai tháng nếu H trả nợ gốc, nợ lãi cho bà T thì hai bên
sẽ hủy bỏ hợp đồng, nếu H không trả được nợ gốc, nợ lãi thì T quyền đăng
biến động quyền sử dụng đất sang tên mình. Sau khi, văn bản được kết, H
nhận tiền vay từ T. Đến ngày 04/05/2023, H lập hợp đồng giả cách chuyển
nhượng quyền sử dụng theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số CV 616696 cho
T. Được Văn phòng Công chứng ĐA công chứng nhưng sau đó hủy Hợp đồng này
Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất, ngày 19/06/2023 giữa Thị
5
Hạ T ông Hồ Quang T1 với Nguyễn Thị Thu H, được Văn phòng Công chứng
ĐA; Địa chỉ: 38 Ngô Q1, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk chứng thực số: 08353, quyển số:
06/2023/TP/CC-SCC/HĐGD.
Trước hạn trả nợ, do xác định hoàn cảnh khó khăn, không thể xoay sở tiền trả nợ
đúng hạn nên H trao đổi với T về việc này. Sau khi, bàn bạc T thống nhất
cho bà H ông Q gia hạn trả nợ đến ngày 20/12/2023. T yêu cầu H, ông Q phải
viết 01 Giấy xin gia hạn nợ nội dung H, ông Q nợ T số tiền 1.150.000.000
đồng, trong đó 1.000.000.000 đồng và 150.000.000 đồng là tiền lãi.
Tuy nhiên, chưa đến hạn trả nợ thì vào ngày 12/07/2023, bà T dùng quyền sử
dụng đất bà H đưa để làm tin đi thế chấp tại Ngân hàng Thương mại Cổ phần Sài Gòn
TT để vay số tiền 970.000.000 đồng là vi phạm nghĩa vụ giao kết. Vì về bản chất theo
thỏa thuận giữa hai bên thì T chỉ là người đứng tên trên giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất, còn đất vẫn thuộc quyền quản lý, sử dụng của H, T không quyền
thế chấp đối với tài sản này trước ngày 20/12/2023.
Nhận thấy, Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất, ngày 04/05/2023 giữa
H với T, được Văn phòng Công chứng ĐA chứng thực số: 05518, quyển số:
05/2023/TP/CC-SCC/HĐGD hiệu ngay tại thời điểm Công chứng chứng viên
Văn phòng Công chứng ĐA tiến hành công chứng. giao dịch này giao dịch giả
tạo, vi phạm Điều 124 của Bộ luật dân sự năm 2015.
Hơn nữa, việc cho T đứng tên trên quyền sử dụng là nhằm mục đích đảm bảo
nghĩa vụ trả nợ của bà H. Theo thỏa thuận T không quyền định đoạt, chuyển
nhượng hoặc tự ý thế chấp quyền sử dụng đất khi chưa đến hạn trả nợ. T tự ý thế
chấp quyền sử dụng đất của H tại Ngân hàng Thương Mại cổ phần Thương Tín
Chi nhánh KP mà không hỏi ý kiến H đã xâm phạm đến quyền và lợi ích hợp pháp
của H. Ngân hàng Thương mại Cổ phần Sài Gòn TT trong quá trình kết hợp
đồng tín dụng, hợp đồng thế chấp với T không tiến hành, thẩm định, định giá cũng
không phải là bên thứ ba ngay tình.
Vì vậy, nay bà H u cầu tòa án giải quyết vấn đề sau:
Tuyên Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất, ngày 04/05/2023 giữa
Nguyễn Thị Thu H với Thị Hạ T, được Văn phòng Công chứng ĐA; Địa chỉ:
38 Ngô Q1, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk chứng thực số: 05518, quyển số:
05/2023/TP/CC-SCC/HĐGD là vô hiệu.
Tuyên Hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất, ngày 12/07/2023 giữa Thị
Hạ T với Ngân hàng Thương mại Cổ phần Sài Gòn TT Chi nhánh Đắk Lắk - PGD
KP. được Văn phòng Công chứng TN; Địa chỉ: 139 GP, Tổ DP 10, thị trấn PA, huyện
6
KP, tỉnh Đắk Lắk chứng thực số: 004303, quyển số: 01/2023/TP/CC-SCC/HĐGD
vô hiệu.
Về hậu quả của giao dịch vô hiệu bà H không đề nghị Tòa án giải quyết trong vụ
án này mà sẽ có đơn khởi kiện sau khi có kết quả của việc giải quyết vụ án này.
Tại phiên tòa thẩm, bị đơn thay đổi yêu cầu phản tố yêu cầu tuyên Hợp
đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất, ngày 19/06/2023 giữa Thị Hạ T
ông Hồ Quang T1 với Nguyễn Thị Thu H, được Văn phòng Công chứng ĐA; Địa
chỉ: 38 Ngô Q1, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk chứng thực số: 08353, quyển số:
06/2023/TP/CC-SCC/HĐGD hiệu. Đồng thời, bị đơn xin rút một phần yêu cầu
phản tố đối với nội dung: Yêu cầu tuyên Hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất, ngày
12/07/2023 giữa bà Thị Hạ T với Ngân hàng Thương mại Cổ phần Sài Gòn TT
Chi nhánh Đắk Lắk - PGD KP được Văn phòng Công chứng TN; Địa chỉ: 139 GP, Tổ
DP 10, thị trấn PA, huyện KP, tỉnh Đắk Lắk chứng thực số: 004303, quyển số:
01/2023/TP/CC-SCC/HĐGD là vô hiệu.
Người quyền lợi nghĩa vụ liên quan ông Đinh Ngọc Q đã được Tòa án
tống đạt văn bản tố tụng hợp lnhiều lần, nhưng không tham gia tố tụng, không
nộp bản tự khai cho Tòa án.
Đại diện theo pháp luật người quyền lợi nghĩa vụ liên quan Ngân hàng
TMCP Sài Gòn Thương Tín- Phòng giao dịch KP ông Kiều Quang T2 trình bày:
Kể từ ngày 24/7/2024 Thị Hạ T đã không còn thế chấp tài sản Giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất số: CV 616696 tại Ngân hàng TMCP Sài Gòn Thương
Tín- Phòng giao dịch KP.
Người quyền lợi nghĩa vụ liên quan Văn phòng công chứng ĐA trình
bày:
Ngày 04/05/2023, Nguyễn Thị Thu H (bên chuyển nhượng) Thị Hạ
T (bên nhận chuyển nhượng) đã đến Văn phòng công chứng ĐA yêu cầu Văn phòng
công chứng việc chuyển nhượng quyền sử dụng đất đối với thửa đất theo Giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất quyền sở hnhà tài sản khác gắn liền với đất số: CV
616696, vào s sCH-18771 do Ủy ban nhân dân thành phố B, tỉnh Đăk Lăk cấp
ngày 10/09/2020, cập nhật thay đổi người sử dụng đất ngày 24/09/2020.
Đến ngày 19/06/2023, do mong muốn của hai bên thay đổi một số điều khoản
của Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất, số công chứng 05518, ngày
04/05/2023, nên hai bên đã yêu cầu Văn phòng công chứng ĐA chứng nhận Văn bản
hủy bỏ Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất nói trên. Cùng ngày, hai bên đã
yêu cầu chứng nhận Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất với bên chuyển
7
nhượng là bà Võ Thị Hạ T bên nhận chuyển nhượng ông Hồ Quang T1 cùng vợ
là bà Võ Thị Hạ T.
Sau khi kiểm tra đầy đủ thông tin nhân của cả hai bên thông tin về thửa
đất, đồng thời với việc kiểm tra thông tin về ngăn chặn tài sản, Văn phòng công
chứng ĐAthấy hồ yêu cầu công chứng của các bên đã đầy đủ, hợp lệ nên Văn
phòng công chứng ĐAđã chứng thực Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng
đất, ngày 19/06/2023 giữa Thị Hạ T ông Hồ Quang T1 với Nguyễn Thị
Thu H, được chứng thực số: 08353, quyển số: 06/2023/TP/CC-SCC/HĐGD là đúng
quy định nên đề nghị Tòa án giải quyết theo định pháp luật
Tại Bản án thẩm số: 291/2024/DS-ST, ngày 25/9/2024 của Tòa án nhân
thành phố B, tỉnh Đăk Lăk đã quyết định:
Căn cứ vào khoản 3 Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39,
khoản 1 Điều 147, Điều 161, Điều 266, Điều 271, Điều 273, Điều 277 của Bộ luật tố
tụng dân sự năm 2015;
Căn cứ Điều 122, Điều 124, Điều 131, Điều 357 khoản 2 Điều 468 của Bộ
luật dân sự năm 2015;
Căn cứ Điều 100 Luật đất đai năm 2013
Căn cứ khoản 2 Điều 26 của Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14, ngày
30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu,
nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Tuyên xử:
1. Chấp nhận một phần yêu cầu phản tố của bị đơn Nguyễn Thị Thu H về
việc:
- Tuyên bố Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất, ngày 19/06/2023 giữa
Nguyễn Thị Thu H với Thị HT ông Hồ Quang T1, được Văn phòng Công
chứng ĐA; Địa chỉ: 38 Ngô Q1, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk chứng thực số: 08353,
quyển số: 06/2023/TP/CC-SCC/HĐGD vô hiệu.
- Buộc bà Nguyễn Thị Thu H và ông Đinh Ngọc Q phải trả số tiền 1.000.000.000
đồng (Một tỷ đồng) vay ngày 25/4/2023 cho bà Võ Thị Hạ T và ông Hồ Quang T1.
- Bà Thị Hạ T ông Hồ Quang T1 trách nhiệm trả lại Bản gốc Giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất số CV 616696, thửa số 110, tờ bản đ12, diện tích
239,6m
2
; tọa lạc tại phường TT, Thành phố B, tỉnh Đắk Lắk do UBND Thành phố B
8
cấp ngày 10/9/2020 cho ông Nguyễn Văn M bà Lương Thị H2, đăng biến động
cho Nguyễn Thị Thu H ngày 24/9/2020 đăng ký biến động cho bà Võ Thị Hạ T
ông Hồ Quang T1 ngày 26/6/2023 cho bà Nguyễn Thị Thu H để chỉnh lý lại quyền sở
hữu theo quy định.
Nguyễn Thị Thu H được quyền liên hệ với quan thẩm quyền để chỉnh
lý đứng tên quyền sở hữu theo quy định.
2. Đình chỉ một phần yêu cầu phản tố của bị đơn Nguyễn Thị Thu H về việc:
Tuyên Hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất, ngày 12/07/2023 giữa Thị Hạ T
với Ngân hàng Thương mại Cổ phần Sài Gòn TT– Chi nhánh Đắk Lắk - PGD KP.
được Văn phòng Công chứng TN; Địa chỉ: 139 GP, Tổ DP 10, thị trấn PA, huyện KP,
tỉnh Đắk Lắk chứng thực số: 004303, quyển s: 01/2023/TP/CC-SCC/HĐGD
hiệu.
3. Không chp nhn yêu cầu khởi kiện của ngun đơn bà ThHạ T về việc:
- Buộc Nguyễn Thị Thu H và ông Đinh Ngọc Q nghĩa vụ phải bàn giao
cho vợ chồng bà T toàn bộ tài sản là; QSD đất và tài sản gắn liền trên đất, đối với thửa
đất giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số CV 616696, thửa số 110, tờ bản đồ 12,
diện tích 239,6m
2
, tọa lạc tại phường TT, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk do UBND thành
phố B cấp ngày 10/9/2020, đăng ký biến động ngày 26/6/2023 cho bà Võ Thị Hạ T và
ông Hồ Quang T1.
- Buộc Nguyễn Thị Thu H ông Đinh Ngọc Q phải trả số tiền lãi xuất trên
số tiền 1.150.000.000 đồng với lãi xuất 20%/năm, kể từ ngày 20/6/2023 đến ngày
25/9/2024 là: 288.138.887 đồng.
Ngoài ra, Tòa án cấp thẩm còn quyết định về chi phí tố tụng án phí, tuyên
về quyền kháng cáo cho các đương sự theo quy định của pháp luật.
Ngày 09/10/2024, bị đơn Nguyễn Thị Thu H kháng cáo bản án thẩm của
Tòa án nhân dân thành phố B với nội dung: Đề nghị cấp phúc thẩm sửa án sơ thẩm
theo hướng không buộc bị đơn phải trả cho nguyên đơn stiền 1.000.000.000đ án
phí dân sự sơ thẩm.
Tại phiên tòa nguyên đơn, người quyền lợi nghĩa vụ liên quan vắng mặt. Đại
diện của bị đơn vẫn giữ nguyên nội dung đơn kháng cáo.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đắk Lắk phát biểu quan điểm:
9
Về tố tụng: Thẩm phán, Hội đồng xét xử và các đương sự đã chấp hành đúng các
quy định của B luật tố tụng dân sự.
Về nội dung: Qua phân tích đánh giá các tài liệu, chứng cứ trong hồ vụ án
tranh tụng tại phiên tòa đại diện Viện kiểm sát đề nghị hội đồng xét xử căn cứ
khoản 1 Điều 308 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015; Không chấp nhận đơn kháng cáo
của bị đơn Nguyễn Thị Thu H - Giữ nguyên Bản án dân sự thẩm số:
291/2024/DS-ST, ngày 25/9/2024 của Tòa án nhân thành phố B, tỉnh Đăk Lăk.
Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu
lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo kháng nghị.
Căn cứ vào các tài liệu trong hồ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa, căn
cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa trên sở xem xét đầy đủ các tài liệu, chứng
cứ lời trình bày của các đương sự và ý kiến của Kiểm sát viên.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
[1] Về tố tụng: Đơn kháng o của bị đơn m trong hạn luật định đã nộp tiền
tạm ứng án phí phúc thẩm n được xem t, giải quyết theo trình tphúc thẩm.
[2] Về nội dung:
[2.1] Trên cơ sở tài liệu có trong hồ sơ, lời khai của các bên đương sự. Có căn cứ
xác định ngày 25/4/2023, bà H có vay ca bà Võ Thị Hạ T số tiền 1.000.000.000 đồng
để làm ăn. Để làm tin, H đưa cho T giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số CV
616696, của thửa số 110, tờ bản đồ 12, diện tích 239,6m
2
, tọa lạc tại phường TT,
thành phố B, tỉnh Đắk Lắk do UBND thành phố B cấp ngày 10/9/2020 cho ông
Nguyễn Văn M Lương Thị H2 (đã đăng biến động cho Nguyễn Thị Thu H
ngày 24/9/2020). Quá trình vay mượn, hai bên còn lập Văn bản thỏa thuận thể
hiện nội dung: H vay của T số tiền 1.000.000.000 đồng, thời hạn vay 02
tháng (bút lục 15). Để đảm bảo nghĩa vụ trả nợ hai H sẽ lập hợp đồng chuyển
nhượng quyền sử dụng đất nêu trên cho bà T theo Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử
dụng đất, ngày 19/06/2023 giữa bà Nguyễn Thị Thu H với bà Võ Thị Hạ T và ông Hồ
Quang T1, được Văn phòng Công chứng ĐA chứng thực số: 08353, quyển s:
06/2023/TP/CC-SCC/HĐGD. Sau hai tháng nếu H trả nợ gốc, nợ lãi cho T thì
hai bên sẽ hủy bỏ hợp đồng, nếu bà H không trả được nợ gốc, nợ lãi thì bà T có quyền
đăng ký biến động quyền sử dụng đất sang tên mình. Sau khi, văn bản được ký kết,
H nhận tiền vay từ bà T.
10
Sau khi Hợp đồng chuyển nhượng quyền s dụng đất ngày 19/6/2023 thì
ngày 20/6/2023 T H, ông Q “Giấy gia hạn nợ” cho H, ông Q theo đó:
Bà H và ông Q vẫn được ở lại trong căn nhà và gia hạn trả nợ số tiền đã vay trong
vòng 03 tháng. Nếu sau 03 tháng H, ông Q chưa trả đủ số nợ thì trả tối thiểu
50% số nợ và xin gia hạn tiếp 03 tháng nữa để hoàn thành. Sau khi hoàn thành trả
đủ gốc và lãi cho bà T thì bà T phải trả lại căn nhà cho bà H, ông Q. Toàn bộ thuế,
phí do bà H ông Q chịu. Bà H, ông Q cam kết tiếp tục đóng lãi đều đặn hàng tng
đúng ngày không T quyền đơn phương chấm dứt thỏa thuận là trước thời
hạn. Bà H, ông Q phải dọn ra khi nhà để bàn giao cho bà T (bút lục 14).
[2.2] V hình thc của hợp đồng chuyển nhượng: Hợp đồng chuyển nhượng đất
ngày 19/6/2023 giữa vợ chồng ông Q, H với T đã được lập thành văn bản
được công chứng, chứng thực theo đúng quy định của phạp luật. Bên chuyn nhượng
nhn chuyn nhượng cùng đim ch vào hp đồng. Tha đất trước khi m
th tc chuyn nhượng đã được UBND thành ph B cp Giy chng nhn quyn s
dng đất s CV 616696, ngày 10/9/2020. Vì vy đủ điu kin để chuyn nhượng
theo quy định ca lut đt đai.
[2.3] V ni dung hp đng: Quá trình giải quyết ván, các đương sự đều thừa
nhận việc chuyển nhượng quyền sử dụng đất theo hợp đồng công chứng 08353 quyển
số: 06/2023/TP/CC-SCC/HĐGD, ngày 19/6/2023 do Văn phòng công chứng ĐA
chứng thực không phải chuyển nhượng thực tế mà chỉ là hình thức nhằm che dấu việc
cầm cố, đảm bảo cho nghĩa vụ trả nợ cho khoản vay 1.000.000.000đ của H theo
hợp đồng vay 25/4/2023 giữa bà T H. Nhận thấy, Q hệ vay nợ giữa T
H thật, được các bên thừa nhận thỏa thuận theo Văn bản thỏa thuận đề
ngày 25/04/2023 Giấy gia hạn nợđề ngày 20/6/2023 giữa nguyên đơn bị
đơn. Bên cạnh đó, sau khi thực hiện hợp đồng chuyển nhượng đất thì bên bán là bà H
và ông Q vẫn quản lý, sử dụng thửa đất số 110; tờ bản đồ 12, diện tích 239,6m
2
và khi
kết hợp đồng chuyển nhượng các bên không giao nhận bất cứ một khoản tiền nào
từ nhau. vậy, căn cứ xác định, việc vay nợ tài sản giữa T H thật
và việc giao dịch chuyển nhượng theo Hợp đồng số công chứng 06/2023/TP/CC-
SCC/HĐGD, ngày 19/6/2023 do Văn phòng công chứng ĐA chứng thực giữa bên
chuyển nhượng vợ chồng ông Q, H bên nhận chuyển nhượng T giao
dịch giả tạo giữa hai bên nhằm đảm bảo nghĩa vụ trả nợ giữa giữa H với T
không phải chuyển nhượng thực tế. Cho nên giao dịch chuyển nhượng quyền sử
dụng đất nêu trên sẽ bị vô hiệu theo quy định tại Điều 124 của Bộ luật dân sự 2015.
11
[2.4] Về việc giải quyết hậu quả của hợp đồng vô hiệu: Quá trình giải quyết vụ
án nguyên đơn yêu cầu Tòa án tuyên tiếp tục thực hiện hợp đồng chuyển nhượng
quyền sử dụng đất giữa nguyên đơn và b đơn, bị đơn không đề nghị Tòa án giải quyết
hậu quả của hợp đồng. Như trên phân tích, việc chuyển nhượng quyền sử dụng đất
tài sản gắn liền với đất theo Hợp đồng số công chứng 06/2023/TP/CC-SCC/HĐGD,
ngày 19/6/2023 do Văn phòng công chứng ĐA chứng thực bị vô hiệu do giả tạo.
vậy, trong trường hợp này không phải xem xét giải quyết giải quyết hậu quả của hợp
đồng hiệu theo quy định tại Điều 131 của Bộ luật dân sự 2015. phải xem xét
Giao dịch gốc giữa hai bên (tức giao dịch vay tiền vào ngày 25/4/2023 giữa H
và bà T). Xét thấy, tính đến thời điểm hiện nay bị đơn chưa trả cho nguyên đơn khoản
nợ gốc nào, đồng thời nguyên đơn cũng không chứng minh được việc đã giao thêm
150.000.000 đồng (tiền ghi trong hợp đồng đồng chuyển nhượng) cho bị đơn. Do đó,
cấp thẩm buộc bị đơn Nguyễn Thị Thu H phải thanh toán cho T số tiền nợ
gốc 1.000.000.000đ theo giao dịch vay ngày 25/4/2023 căn cứ. Cho nên, kháng
cáo của bị đơn về nội dung này là không có cơ sở để xem xét.
[2.5] Xét kháng cáo của bị đơn về việc không đồng ý chịu án phí đối với khoản
tiền phải thực hiện nghĩa vụ với nguyên đơn, HĐXX thấy rằng: Việc cấp thẩm xác
định án phí dựa trên nghĩa vụ bị đơn phải thực hiện với nguyên đơn là phù hợp với
quy định tại Điều 147 của Bộ luật tố tụng dân sự khoản 2 Điều 26 của Nghị quyết
số 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy
định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. Do
đó, không có căn cứ để chấp nhận yêu cầu kháng cáo này của bị đơn.
[2.6] Xét thấy, quá trình giải quyết vụ án các đương sự thỏa thuận về lãi suất
trong giao địch vay mượn số tiền 1.000.000.000đ ngày 25/4/2023 giữa các bên, hiện
nay các bên đang tranh chấp về lãi suất. Việc cấp thẩm không chấp nhận yêu cầu
khởi kiện của nguyên đơn về lãi suất trên khoản tiền ngốc 1.000.000.000đ ngày
25/4/2023 là chưa chính xác. Tuy nhiên, sau khi xét xử sơ thẩm thì nguyên đơn không
kháng cáo. Do đó, cấp phúc thẩm không căn cứ giải quyết về nội dung này. Bên
cạnh đó, cấp thẩm không tuyên lãi suất trong giai đoạn thi hành án đối với khoản
tiền bị đơn phải thanh toán cho nguyên đơn là thiếu xót, cấp phúc thẩm cần sửa lại
cho đúng. Đề nghị cấp sơ thẩm phải nghiêm túc rút kinh nghiệm.
[3] Từ những nhận định trên Hội đồng xét xử phúc thẩm xét thấy: Không có căn
cứ để chấp nhận đơn kháng cáo của bị đơn Nguyễn Thị Thu H, cần giữ nguyên án
sơ thẩm là phù hợp.
12
[4] Về án phí dân sự phúc thẩm: Do không được chấp nhận kháng cáo nên bị đơn
bà Nguyễn ThThu H phải chịu án phí dân sự phúc thẩm.
[5] Các quyết định khác của bản án thẩm không kháng cáo, kháng nghị
hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo kháng nghị.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH:
[1] Căn cứ khoản 1 Điều 308 của B luật t tụng dân sự năm 2015; Điều 29 Nghị
quyết số: 326/2016/UBTVQH, ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy
định về án phí, lệ phí Tòa án;
Không chấp nhận đơn kháng cáo của bị đơn bà Nguyễn Thị Thu H.
Giữ nguyên Bản án dân sự sơ thẩm số: 291/2024/DS-ST, ngày 25/9/2024 của
Tòa án nhân thành phố B, tỉnh Đăk Lăk.
[2] Tuyên xử:
[2.1] Chấp nhận một phần yêu cầu phản tố của bị đơn Nguyễn Thị Thu H về
việc:
- Tuyên bố Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất, ngày 19/06/2023 giữa
Nguyễn Thị Thu H với Thị HT ông Hồ Quang T1, được Văn phòng Công
chứng ĐA; Địa chỉ: 38 Ngô Q1, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk chứng thực số: 08353,
quyển số: 06/2023/TP/CC-SCC/HĐGD hiệu.
- Buộc bà Nguyễn Thị Thu H và ông Đinh Ngọc Q phải trả số tiền 1.000.000.000
đồng (Một tỷ đồng) vay ngày 25/4/2023 cho bà Võ Thị Hạ T và ông Hồ Quang T1.
Kể từ ngày đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án cho đến khi
thi hành án xong, bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn
phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại Điều 357, Điều 468 của Bộ luật dân
sự 2015.
- Bà Thị Hạ T ông Hồ Quang T1 trách nhiệm trả lại Bản gốc Giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất số: CV 616696, thửa số 110, tờ bản đồ 12, diện tích
239,6m
2
; tọa lạc tại phường TT, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk do UBND thành phố B
cấp ngày 10/9/2020 cho ông Nguyễn Văn M bà Lương Thị H2, đăng biến động
cho Nguyễn Thị Thu H ngày 24/9/2020 đăng ký biến động cho bà Võ Thị Hạ T
ông Hồ Quang T1 ngày 26/6/2023 cho bà Nguyễn Thị Thu H để chỉnh lý lại quyền sử
13
dụng đất theo quy định.
- Buộc nguyên đơn Thị Hạ T và ông Hồ Quang T1 phải có nghĩa vụ phối hợp
với bị đơn Nguyễn Thị Thu H trong việc làm thủ tục chuyển quyền sử dụng đất.
Trong trường hợp nguyên đơn không phối hợp với bị đơn thì bị đơn Nguyễn Thị
Thu H được tự mình liên hệ với quyền có thẩm quyền để làm thủ tục chuyển quyền
sử dụng đất. Trong trường hợp nguyên đơn không phối hợp với bị đơn làm thủ tục
chuyển quyền sử dụng đất thì kiến nghị với UBND thành phố B hủy bỏ giá trị pháp lý
của GCN QSD đất số: CV 616696, thửa số 110, tờ bản đồ 12, diện tích 239,6m
2
; tọa
lạc tại phường TT, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk do UBND thành phố B để cấp lại GCN
QSD đất cho các bên đương sự theo quy định ca pháp luật.
[2.2] Đình chỉ một phần yêu cầu phản tố của bị đơn bà Nguyễn Thị Thu H về
việc: Tuyên Hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất, ngày 12/07/2023 giữa Thị
Hạ T với Ngân hàng Thương mại Cổ phần Sài Gòn TT Chi nhánh Đắk Lắk - PGD
KP. được Văn phòng Công chứng TN; Địa chỉ: 139 GP, Tổ DP 10, thị trấn PA, huyện
KP, tỉnh Đắk Lắk chứng thực số: 004303, quyển số 01/2023/TP/CC-SCC/HĐGD
vô hiệu.
[2.3] Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn Thị HT về
việc:
- Buộc Nguyễn Thị Thu H và ông Đinh Ngọc Q nghĩa vụ phải bàn giao
cho vợ chồng bà T toàn bộ tài sản là; QSD đất và tài sản gắn liền trên đất, đối với thửa
đất giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số: CV 616696, thửa số 110, tờ bản đồ 12,
diện tích 239,6m
2
, tọa lạc tại phường TT, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk do UBND thành
phố B cấp ngày 10/9/2020, đăng ký biến động ngày 26/6/2023 cho bà Võ Thị Hạ T và
ông Hồ Quang T1.
- Buộc Nguyễn Thị Thu H ông Đinh Ngọc Q phải trả số tiền lãi xuất trên
số tiền 1.150.000.000 đồng với lãi xuất 20%/năm, kể từ ngày 20/6/2023 đến ngày
25/9/2024 là: 288.138.887 đồng.
[4] Về án phí:
[4.1] Về án phí dân sự thẩm: Bị đơn bà Nguyn Th Thu H và ông Đinh Ngc
Q phi np 42.000.000 đồng án phí dân s sơ thm. Được khu tr vào s tin
600.000 đồng tm ng án phí H đã np ti Chi cc thi hành án dân s thành ph B
theo biên lai thu s: 0010038, ngày 13/5/2024. Nên Nguyn Th Thu H ông
Đinh Ngc Q còn phi np 41.400.000 án phí DSST.
14
Nguyên đơn Th H T phi chu án p300.000 đồng án phí không giá
ngch 14.407.000 đồng án pdân s giá ngch do b bác yêu cu. Được khu
tr vào s tin 3.244.175 đồng tm ng án phí bà T đã np ti Chi cc thi hành án dân
s thành ph B theo biên lai thu s 0005280, ngày 31/1/2024. Võ Th H T n
phi np s tin 11.462.825 đồng án phí DSST.
[4.2] Về án phí dân sự phúc thẩm: Nguyễn Thị Thu H phải chịu 300.000
đồng án phí dân sự phúc thẩm, được khấu trừ vào stiền 300.000 đồng tạm ứng án
phí dân s phúc thẩm do Thị Trâm  nộp thay theo biên lai số:
AA/2023/0013847, ngày 17/10/2024 tại Chi cục thi hành án dân sự thành phố B, tỉnh
Đắk Lắk.
[5] Các quyết định khác của bản án thẩm không kháng cáo, kháng nghị
hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo kháng nghị.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Nơi nhận:
- TANDCC;
- VKSND tỉnh Đắk Lắk;
- TAND thành phố B;
- Chi cục thành phố B;
- Các đương sự;
- Lưu: Hồ sơ vụ án.
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM
THẨM PHÁN - CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
Nguyễn Duy Thun
Tải về
Bản án số 84/2025/DS-PT Bản án số 84/2025/DS-PT

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án số 84/2025/DS-PT Bản án số 84/2025/DS-PT

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án/ Quyết định cùng đối tượng

Bản án cùng lĩnh vực

Bản án mới nhất