Bản án số 81/2022/KDTM-ST ngày 29/09/2022 của TAND Quận 10, TP. Hồ Chí Minh về tranh chấp về phân phối

  • Thuộc tính
  • Nội dung
  • VB gốc
  • VB liên quan
  • Lược đồ
  • Đính chính
  • Án lệ
  • BA/QĐ cùng nội dung
  • Tải về
Tải văn bản
Báo lỗi
  • Gửi liên kết tới Email
  • Chia sẻ:
  • Chế độ xem: Sáng | Tối
  • Thay đổi cỡ chữ:
    17

Thuộc tính Bản án 81/2022/KDTM-ST

Tên Bản án: Bản án số 81/2022/KDTM-ST ngày 29/09/2022 của TAND Quận 10, TP. Hồ Chí Minh về tranh chấp về phân phối
Quan hệ pháp luật: Tranh chấp về phân phối
Cấp xét xử: Sơ thẩm
Tòa án xét xử: TAND Quận 10 (TAND TP. Hồ Chí Minh)
Số hiệu: 81/2022/KDTM-ST
Loại văn bản: Bản án
Ngày ban hành: 29/09/2022
Lĩnh vực: Kinh doanh thương mại
Áp dụng án lệ:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Đính chính:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Thông tin về vụ/việc: chấp nhận
Tóm tắt Bản án

Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!

Tải văn bản

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN 10
THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
Bản án số: 81/2022/KDTM-ST
Ngày: 29-9-2022
Về việc: “Tranh chấp hợp đồng
đại lý phân phối độc quyền”.
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập – Tự do – Hạnh phúc
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN 10, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
- Thành phần Hội đồng xét xử sơ thẩm gồm:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa: Bà Trần Thanh Nhàn.
Các Hội thẩm nhân dân:
1. Bà Trần Thị Ngọc Thanh;
2. Bà Đàm Vân.
- Thư ký phiên tòa: Bà Phạm Ngọc Phương Thư ký Toà án, Toà án nhân dân
Quận 10, Thành phố Hồ Chí Minh.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân Quận 10 tham gia phiên tòa: Ông Phan Trần
Vĩnh Phúc Kiểm sát viên.
Ngày 29 tháng 9 m 2022 tại trụ sở Tòa án nhân dân Quận 10, Thành phố Hồ
Chí Minh, xét xử thẩm thụ số 52/2017/TLST-KDTM ngày 03 tháng 11 năm
2017 về tranh chấp hợp đồng đại phân phối độc quyền, theo Quyết định đưa vụ án
ra xét xử số 52/2022/QĐXXST-KDTM ngày 16 tháng 8 m 2022 Quyết định
hoãn phiên tòa số 197/2022/QĐST-DS ngày 12 tháng 9 năm 2022, giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Công ty TNHH Một Thành viên Q
Địa chỉ: Đường Nguyễn Chí Thanh, tổ 5, phường C, thành phố P, tỉnh G.
Người đại diện theo ủy quyền: Ông Cao Thanh T, sinh năm 1960 (có mặt)
Địa chỉ: 563/25 Nguyễn Đình Chiểu, Phường A, Quận D, Thành phH
(Theo Giấy ủy quyền ngày 12/5/2017 số công chứng 005451, quyển số
01.TP/CC-SCC/HĐGD của Văn phòng công chứng B)
- Bị đơn: Công ty cổ phần đầu tư và phát triển mạng lưới H.
Trụ sở: 45 đường 3/2, Phường E, Quận A, Thành phố H.
Người đại diện theo pháp luật: Ông Diệp Khắc C (vắng mặt)
Người đại diện theo ủy quyền:
Huỳnh Thị Bích T, sinh năm 1976 (có mặt)
Hoặc bà Phan Thị Mỹ N, sinh năm 1998 (có mặt)
Cùng địa chỉ: 291 Trần Phú, Phường Ư Quận Q, Thành phố H
(Theo Giấy y quyền số 318/UQ-FNC ngày 31/8/2022 của Công ty cphần
đầu tư và phát triển mạng lưới H)
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
Công ty cổ phần đầu tư và phát triển công nghệ T 21
Địa chỉ: 45 đường 3/2, Phường E, Quận A, Thành phố H.
Người đại diện theo pháp luật: Ông Trương Thanh B (vắng mặt)
2
Người đại diện theo ủy quyền: Ông Diệp Khắc C (vắng mặt)
(Theo Giấy y quyền số 02/2019/UQ ngày 04/11/2019 của Công ty cổ phần
đầu tư và phát triển công nghệ T 21)
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Theo đơn khởi kiện ngày 06/10/2017 quá trình tham gia tố tụng ti Toà án, ông
Cao Thanh T đại diện ủy quyền của Công ty TNHH MTV Q tnh y:
Ngày 26/8/2016, Công ty TNHH MTV Q do Phạm Thị Xuân H giám đốc (sau đây
gọi tắt Q) ký hợp đồng đại phân phối đc quyền sản phẩm 3S PP/FNC (sau
đây gọi tắt là Hợp đồng đại) với Công ty cổ phần đầu phát triển mạngới H (sau
đây gọi tắt FNC). Theo hợp đồng t Q đơn vị phân phối sản phẩm duy nhất của FNC
tại khu vực tỉnh Gia Lai - Kon Tum. Thực hiện hợp đồng Q đã chuyển khoản cho FNC số
tiền 800.000.000 đồng Q nhận được 315 sản phẩm tương đương với giá tiền
351.375.000 đồng, phần sản phẩm còn lại thì Q vẫn ca nhận. Ngay sau khi nhận được
sản phẩm Q tiến hành bán nhận được rất nhiều ý kiến khách hàng về sự không đồng b
của sản phẩm cũng như sản phẩm không hoạt động được. Ngoài những thông số kỹ thuật
của sản phẩm 3S không đạt tiêu chuẩn còn việc sản phẩm 3S của FNC lại sử dụng sim
không đăng ký là vi phạm quy định pháp luật. Nhận được phản ánh, Q nhanh cng ln
hệ FNC để giải quyết nng không được. Sau nhiều lần làm việc và gửi đơn t đến FNC
nhưng hain vẫn không đạt được thỏa thuận. Nguyên đơn đã nộp đơn khởi kiện yêu cầu
bị đơn thanh toán số tiền tương đương với số ng chưa giao là 448.625.000 đồng; s
ng đã nhận lại 315 sản phẩm tương đương 351.375.000 đồng cùng tiền lãi theo quy
định.
Tại phiên tòa hôm nay, đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn thay đổi yêu cầu
khởi kiện đề nghị tuyên bố hợp đồng đại lý phân phối độc quyền ký giữa Q và FNC là vô
hiệu vì:
- Do vi phạm điều cấm của pháp luật vì sản phẩm 3S đim với Sim đã được kích
hoạt sử dụng nhiều lần vi phạm Thông tư 04/2012/TT-BTTT ngày 13/4/2012 là lắp đặt
sim đã bcấm lưu nh.
- Do bị lừa dối vì sản phẩm 3S chưa được đăng chấtợng theo tiêu chuẩn công
bố của cơ quan chức năng thẩm quyền
Do hợp đồng hiệun đề ngh giải quyết hậu quả pháp lý là trả cho nhau những
đã nhận, kng yêu cầu tri với stiền chậm trả.
Đại diện theo ủy quyền của bị đơn FNC Huỳnh Thch T trình bày: Bị đơn
xác nhận vềi dụng ký kết hợp đồng đúng như nguyên đơn trình bày. Tuy nhiên, bị đơn
không đồng ý yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn quá trình thực hiện hợp đồng bị đơn
đã thực hiện đúng các nghĩa vụ của nh và không có lỗi. Việc nguyên đơn cho rằng sản
phẩm kng sử dụng được và yêu cầu trả lại sản phẩm không sở trong hợp
đồng hain đã quy định việc nguyên đơn trả tiền và bị đơn giaong. Việc mua bán này
của các n đã mua đứt n đoạn không việc trả lại ng cũng như b đơn không phải
đơn vị sản xuất hàng hóa nên nguyên đơn phải phản ánh cho nhà sản xuất khing hóa
bị lỗi. Mt kc, khi giao hàng b đơn đã kèm đủi liệu xuất xứ hàng hóang như phiếu
bảo nh sản phẩm cho nguyên đơn và nguyên đơn nhận sản phẩm ng không khiếu nại
gì. Liên quan đến hoạt động của Sim m theo sn phẩm 3S t đại diện b đơn kng
đồng ý với tnh bày của nguyên đơn vì:
3
n ng hóa sản phẩm mua bán giữa c bên ghi trên hợp đồng tại khoản 1.1
Điều 1 sản phẩm 3S chkhông phải sim. Tức đối tượng của Hợp đồng là sản phẩm
3S, không phải sim điện thoại.
Thành phần sản phẩm 3S theo như tờ rơi giới thiệu sản phẩm không sim.
Sản phẩm 3S hoạt động độc lập với sim, nguyên đơn có thể sử dụng sim điện thoại
khác thay thế mà kng nhất thiết phải sử dụng sim do bđơn tặng m theo.
Hợp đồng phân phối được ký kết giữa 2 bên không liên quan đến Thông
04/2012/TT-BTTTT ngày 13/04/2012 quy định về quản lý thuê bao di động trả trước bởi
lẽ Sim là sản phẩm khuyến i, sản phẩm của sim phthuộc nhà mạng chthuê bao,
quy định của pháp luật là áp dụng đối với mọi công dân, việc người tiêu dùng mua sim về
sử dụng sau đó không tiến hành việc đăng ký thuê bao theo quy định là mối quan hệ giữa
khách ng n mạng. như việc mua 1 sim điện thoại ngoài th trường hiện nay,
khách hàng mua sim tại cửa hàng điện thoại nếu khách hàng kng đăng ký thuê bao t
khách ng không đảm bảo chính chủ của sim không được đảm bảo theo quy định
của nhà mạng quy định của pháp luật. Mối quan hệ chính ở đây là giữa khách hàng
nhà mạng, không liên quan đến chủ cửa hàng bán sim. Hơn nữa Hợp đồng và thực tế mua
n đều thể hiện rõ bđơn kngn sim, màn sản phẩm 3S. Sim tặng kèm theo, hết
chương trình khuyến mãi thì không tặng m sim nữa.
Nguyên đơn cho rằng sản phẩm 3S chưa được đăng chất lượng theo quy định
n chưa được phép lưu thông ra thị trường nhưng b đơn vẫn bán sản phẩm vi phạm
pháp luật, lừa khách hàng. Tại Điều 5 Luật chất ợng sản phẩm m 2007, Điều 41 Luật
tiêu chuẩn quy chuẩn kỹ thuật năm 2006, Khoản 1 Điều 3 Thông tư 28/2012 ngày
12/12/2012 quy định về công bố hợp chuẩn, công bố hợp quy phương thức đánh g sự
phù hợp với tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật. Từ căn cứ trên có thể thấy dựa trên phiếu th
nghiệm mẫu (theo phương thức 1 của Điều 5 Thông tư này) thì nhà sản xuất sẽ tiến hành
việc ng bố hợp chuẩn để chịu trách nhiệm vsản phẩm do mình sản xuất, stự
nguyện nếu muốn thực hiện việc đăng hồng bố hợp chuẩn tại Chi cục Tu chuẩn
Đo lường Chất lượng tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương nơi tổ chức,nhân sản xuất
đăng ký doanh nghiệp. Bởi Điều 7 thông này cũng nêu rõ Công bố hợp chuẩn hoạt
động tnguyện, do đó việc nhà sản xuất chọn t chức đđánh giá sphù hợp của sản
phẩm với tiêu chuẩn công bố dưới nh thức thử nghiệm tự ng bsản phẩm, chịu
trách nhiệm về sản phẩm đủ sở để sản phẩm được u thông ra th trường. Trường
hợp sản phẩm có bảo hành thì trách nhiệm thuộc vnhà sản xuất.
Tại Điều 25 Luật chất ng sản phẩm, khoản 2 Điều 41 Luật tiêu chuẩn quy
chuẩn kỹ thuật nêu việc đánh giá sự p hợp với tiêu chuẩn được thực hiện tự nguyện
theo yêu cầu của tổ chức ới hình thức thử nghiệm, gm định, chứng nhận hợp chuẩn và
ng bố hợp chuẩn. Do đó nhà sản xuất chọn nh thức thnghiệm và thực hiện hoạt
động thử nghiệm theo quy định để cho kết quả đánh giá sự phù hợp của sản phẩm 3S và
tiến hành ng bđối với sản phẩm 3S khi lưu tng ra thtờng hoàn tn p hợp
theo luật định.
Từ những tnh bày và căn cpháp trên, đại diện bđơn không đồng ý với yêu
cầu khởi kiện của nguyên đơn yêu cầu tuyên vô hiệu hợp đồng phân phối ký kết giữa hai
n. Mặt khác, sau khi kiểm tra cho thấy nguyên đơn chưa chuyển tiền 800.000.000 đồng
cho bị đơn nên bị đơn cũng đề nghnguyên đơn giao trlại các hộp đen 3s đã nhận.
Đại diện theo ủy quyền của người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan Công ty cổ phần
đầu tư phát triển công nghT 21 (sau đây gọi tắt ng ty Thế Kỷ 21) ông Diệp
4
Khắc Cường là đại diện theo ủy quyền tại phiên tòa trình bày: Ông xác định công ty Thế
Kỷ 21 đơn vị sản xuất sản phẩm 3S đạt tiêu chuẩn được phép lưu hành trên thị
trường. Công ty Thế Kỷ 21 cũng đã ủy quyền cho FNC được quyền phân phối giới thiệu
sản phẩm hộp đen 3S nên việc FNC bán sản phẩm cho đơn vị thứ bao t đều đúng quy
định, công ty Thế Kỷ 21 không có ý kiến. Đối với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn do
không ln quan đến công ty Thế Kỷ 21 nên cũng không yêu cầu gì. Tuy nhiên, hiện
nay sản phẩm của công ty Thế Kỷ 21 về hộp đen 3S vẫn đang được sử dụng ng
không nhận được phản ánh o tkch hàng đại Đồng Nai do nguyên đơn phân
phối độc quyền. Nay, nguyên đơn khởi kiện bị đơn thì ng ty chúng tôi đề nghị Hội đồng
t xcăn cc quy định pp luật, tài liệu chứng cứ mà t xử đúng quy định.
Ý kiến của đại diện Viện kiểm sát nhân dân Quận 10 tham gia phiên tòa:
- Về việc tuân theo pháp luật của những người tiến hành tố tụng: Thẩm phán,
Hội đồng xét xử, Thư phiên tòa thực hiện đúng quy định của pháp luật tố tụng dân
sự. Tuy nhiên, Viện kiểm sát kiến nghị quá trình giải quyết vụ án Tòa án chậm đưa vụ
án ra xét xử.
- Về việc chấp hành pháp luật của những người tham gia tố tụng: Nguyên đơn,
bị đơn tham gia tố tụng chấp hành đúng quy định của pháp luật tố tụng dân sự.
Trong quá trình giải quyết vụ án Tòa án những vi phạm tố tụng sau: Ngày
20/8/2018, Tòa án ra quyết định tiếp tục giải quyết vụ án, thời hạn xét xử được tính lại
từ đầu với thời gian 02 tháng nhưng đến ngày 09/10/2019 mới có quyết định đưa vụ án
ra xét xử, trễ hạn hơn 11 tháng, vi phạm về thời hạn chuẩn bị xét xử theo Điều 203
BLTTDS 2015. Vì vậy, cần kiến nghị với Tòa án vi phạm này.
- Về nội dung giải quyết vụ án:
Căn cứ vào các tài liệu trong hồ gồm: Hợp đồng đại phân phối độc
quyền được kết bởi ông Diệp Khắc Cường, Chủ tịch Hội đồng quản trị Công ty CP
Đầu phát triển mạng lưới Hữu Nghị (FNC) với Công ty TNHH MTV Q do
Hồng đại diện. sở nhận định ông ờng, Hồng hợp đồng phân phối độc
quyền ngày 26/8/2016 trên s tự nguyện cùng hợp tác kinh doanh để thu lợi
nhuận.
Căn cứ khoản 2 Điều 6 của Thông số 30/2011/TT ngày 31/10/2011 của Bộ
Thông tin truyền thông quy định về chứng nhận hợp quy công bố hợp quy đối
với sản phẩm, hàng hóa chuyên ngành công nghệ thông tin về truyền thông, thì mọi
sản phẩm, dịch vụ liên quan đến công nghệ thông tin về truyền thông đều bắt buộc
chứng nhận và công bố hợp quy, trừ các sản phẩm, dịch vụ quy định tại Điều 7, Điều 8
của thông 30/2011/TT. Đối chiếu với quy định này, thì sản phm phải chứng nhận
công bố hợp quy. vậy, yêu cầu Công ty TNHH MTV Q yêu cầu Tòa án giải
quyết tuyên bố Hợp đồng đại phân phối độc quyền được kết bởi ông Diệp Khắc
Cường, Chủ tịch Hội đồng quản tr Công ty CP Đầu phát triển mạng ới Hữu
Nghị (FNC) với Công ty TNHH MTV Q vào ngày 26/8/2016 hiệu, là phù hợp pháp
luật nên chấp nhận.
Hậu quả pháp của giao dịch dân sự hiệu theo Điều 131 Bluật Dân sự
năm 2015: Quyền, nghĩa vụ của các bên không phát sinh kể từ thời điểm kết các
bên phải hoàn trả cho nhau những gì đã nhận theo quy định pháp luật.
NHẬN ĐỊNH CỦA TOÀ ÁN:
5
Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ vụ án được xem xét tại
phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà, Toà án nhận định:
[1] Về quan hệ pháp luật: Căn cứ vào hợp đồng đại phân phối độc quyền
các bên đã kết thực hiện nay phát sinh tranh chấp từ hợp đồng trên nên sở
xác định quan hệ tranh chấp “Tranh chấp hợp đồng đại phân phối độc quyền”
theo quy định tại khoản 1 Điều 30 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015.
[2] Về thẩm quyền giải quyết vụ án: Bị đơn FNC nơi trú tại Quận 10 nên
tranh chấp y thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân Quận 10 theo quy
định tại điểm b khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật tố tụng dân sự
năm 2015.
[3] Về tư cách tham gia tố tụng:
[3.1] Căn cứ Giấy chứng nhận đăng doanh nghiệp công ty trách nhiệm hữu
hạn số 5900637256 đăng lần đầu ngày 22/9/2009 đăng thay đổi lần thứ 1
ngày 06/10/2016 do Phòng đăng ký kinh doanh Sở kế hoạch và đầu tư tỉnh Gia Lai cấp
sở xác định Phạm Thị Xuân Hồng chủ Công ty TNHH MTV Q. Xét Giấy
ủy quyền ngày 12/5/2017 số công chứng 005451, quyển số 01.TP/CC-SCC/HĐGD
của Văn phòng công chứng Bến Thành hợp lệ nên ông Cao Thanh T đủ cách
đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn tham gia tố tụng.
[3.2] Căn cứ Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp công ty cổ phần số
0309869797 đăng lần đầu ngày 22/3/2010 đăng thay đổi lần thứ 5 ngày
28/8/2015 do Phòng đăng kinh doanh Sở kế hoạch đầu tư Thành phố Hồ Chí Minh
cấp cơ sở xác định ông Diệp Khắc Cường đại diện theo pháp luật của FNC. Xét
Giấy ủy quyền số 318/UQ-FNC ngày 31/8/2022 của Công ty cổ phần đầu phát
triển mạng ới H hợp lệ nên Huỳnh ThBích T Phạm Thị MNga đủ
cách là đại diện bị đơn tham gia tố tụng.
[3.3] Căn cứ giấy chứng nhận đăng doanh nghiệp công ty cổ phần số 03-
3764331 đăng ký lần đầu ngày 19/4/2016 có cơ sở xác định bà Chung Đỗ Quyên là đại
diện theo pháp luật của Công ty Thế K21. Xét giấy y quyền ngày 04/11/2019 của
Công ty cổ phần đầu tư và phát triển công nghệ T 21 hợp lệ nên ông Diệp Khắc Cường
đủ cách đại diện theo ủy quyền của người quyền lợi, nghĩa vụ liên quan
tham gia tố tụng.
[4] Về hình thức nội dung hợp đồng: Theo quy định tại Điều 385 Bộ luật Dân sự
thì Hợp đồng sự thỏa thuận của c bên v việc xác lập, thay đổi, chấm dứt quyền
nga vụ.n cứ hình thức Hợp đồng đại của các bên được xác lập theo đúng quy định
tại Điều 86 Bộ luậtn sự, Điều 168 Luật thương mại. Về nội dung giao kết hợp đồng đại
đảm bảo có đầy đủ nội dung quy định tại Mục 4 Chương V của Luật thương mại, do đó
hợp đồng đại lý m pt sinh quyền nghĩa vc bên.
[5] Về yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, Hội đồng xét xử phân tích n sau:
[5.1] Về yêu cầu tuyên bố hợp đồng phân phối độc quyền vô hiệu:
[5.1.1]Xét sản phẩm hộp đen 3S sn phẩm được sản xuất tại Công ty cphần
đầu và phát triển công ngh T 21 theo Bản ng b tiêu chuẩn sản phẩm
số:01:2018/TK21. Theo ng n s2366/KT3-KH ngày 22/8/2018 của Trung tâm kỹ
thuật tiêu chuẩn đo lường chất lượng 3 thuộc Tổng cục tiêu chuẩn đo ờng chất ợng
(sau đây gọi tắt Trung tâm 3) c định Trung tâm 3 đơn vphát nh phiếu kết qu
thnghiệm số KT3-0752DI6 hộp đen 3S do ng ty Thế Kỷ 21 yêu cầu và sản phẩm này
6
trungm chỉ kiểm định về chỉ tiêu an toàn không kiểm định vềnh năng sản phẩm chỉ
gtrị đối với mu được thử nghiệm. Theo bị đơn trình bày sản phẩm hộp đen 3S của
ng ty Thế Kỷ 21 nhưng do FNC ng ty phân phối độc quyền theo Giấy ủy quyền
không số ngày 20/6/2016 của công ty Thế Kỷ 21. Tại phiên tòa bị đơn người có quyền
lợi nghĩa vliên quan đều xác định sản phẩm 3S đã được đăng ký chất ợng theo tiêu
chuẩn công bcủa quan chức năng Việt Nam. Bị đơn căn cứ vào Luật tiêu chuẩn
quy chuẩn kỹ thuật ng như các quy định về Luật chất lượng sản phẩm để xác định chất
ợng sản phẩm nga được quản trên sở tu chuẩn công bố áp dụng đánh g
sự p hợp với tu chuẩn được thực hiện tnguyện theo u cầu của tổ chức ới hình
thức thử nghiệm. Tại Điều 7 Thông tư 28/2012/TT-BKHCN ngày 12/12/2012 quy định v
ng bố hợp chuẩn là hoạt động tự nguyện nên sản phẩm đã được Trung tâm 3 kiểm định
về độ an toàn và Điều 28 Luật chất lượng sản phẩm thì người sản xuất schịu trách nhiệm
về chất lượng do mình sản xuất. Tuy nhn, Hội đồng xét xử nhận thấy tại Hợp đồng độc
quyền hai bên ký kết phần căn cứ hoàn tn kng đề cập đến giấy ủy quyền quảng cáo
phân phối sản phẩm 3S của công ty Thế Kỷ 21 cho FNC. Tại phần định nghĩa hợp
đồng độc quyền nội dung “sản phẩm nghĩa là sản phẩm do FNC đăng chất lượng
theo tiêu chuẩn công bố của cơ quan chức ng Việt Nam”. Quá trình giải quyết ván
ng như lời trình bày của bị đơn vàng ty Thế Kỷ 21 đều thừa nhận sản phẩm 3S là do
ng ty Thế Kỷ 21 sản xuất đề nghị Trung tâm 3 kiểm định. Điều này hoàn toàn mâu
thuẫn với nội dung hợp đồng độc quyền FNC với nguyên đơn.
[5.1.2] t sản phẩm 3S tại bản kiến nghị của bị đơn trình bày đủ điều kiện và hợp
chuẩn lưu hành trên thị trường. Tuy nhiên, Trung tâm 3 chxác định bản công bố tiêu
chuẩn sản phẩm chỉ có giá trị đối với mẫu thử nghiệm. Mặc dù bị đơn cho rằng sản phẩm
3S đã được Trung tâm 3 kiểm định phù hợp với Điều 41 Luật tu chuẩn quy chuẩn kỹ
thuật năm 2006 ng như việc công bhợp chuẩn sản phẩm 3S hoạt động tự nguyện
của người sản xuất. Như vậy, căn cĐiều 28 Luật chất lượng sản phẩm ng hóa quy
định điều kiện bảo đảm chất lượng sản phẩm trong sản xuất trước khi đưa ra thtrường:
“a) Áp dụng hệ thống quản lý nhằm bảo đảm chất lượng sản phẩm do mình sản xuất phù
hợp với tiêu chuẩn ng bố áp dụng, quy chuẩn kỹ thuật tương ứng; b) Công bố tiêu
chuẩn áp dụng quy định tại Điều 23(ng bố tiêu chuẩn áp dụng: 1. Người sản xuất,
người nhập khẩu tự ng bố các đặc nh cơ bản, thông tin cảnh báo, số hiệu tiêu chuẩn
trên hàng a hoặc một trongc phương tiện sau đây: a) Bao bìng hóa;b) Nhãn hàng
a;c) Tài liệu m theo sản phẩm, hàng hóa. 2. Nội dung của tiêu chuẩn ng báp
dụng kng được ti với yêu cầu của quy chuẩn kỹ thuật do cơ quan quản lý nhà nước
thẩm quyền ban hành) của Luật này ghi nhãn theo quy định của pháp luật vnhãn hàng
a; c) Lựa chọn chứng nhận hợp chuẩn, ng bố hợp chuẩn đối với sản phẩm thuộc
nhóm 1; d) Tuân thủ các quy chuẩn kỹ thuật liên quan đến quá trình sản xuất, chứng nhận
hợp quy, công bố hợp quy theo quy chuẩn kỹ thuật tương ứng đối với sản phẩm thuộc
nhóm 2. Nhận thấy, việc công bố hợp chuẩn là hoạt động tự nguyện của người sản xuất
nhưng sản phẩm phải hợp chuẩn và hợp quy thì mới đủ điều kiện đưa ra thị trường. Quá
trình giải quyết vụ án a án đã tiến hành thông báo cho b đơn cũng như tại phiên tòa
ngày 05/11/2019 Hội đồng xét xyêu cầu ng ty Thế Kỷ 21 cung cấp tài liệu chứng cứ
chứng minh sản phẩm 3S đạt tiêu chuẩn lưu nh thtrường. Tuy nhiên, đến nay các n
vẫn không cung cấp thêm tài liệu nào khác ngoài bản công bố tiêu chuẩn sản phẩm số
01:2018/TK21 theo Quyết định số 01:2018/-TK21 ngày 22/3/2018 về xây dựng và
ng bố tiêu chuẩn áp dụng của ng ty Thế Kỷ 21. Cũng tại bản công bố tu chuẩn này
lại được đóng dấu của FNC không phải của Thế Kỷ 21 và đại diện ủy quyền của công ty
Thế Kỷ 21 khai tạia Quyết định này đánh máy nhầm năm 2018 chứ thực chất năm
7
2016. Thêm vào đó Quyết định số 01: 2018/-TK21 ngày 22/3/2018 tại phần n cứ
ng không có căn cứ vào kết quả thnghiệm của Trung tâm 3 như Thế Kỷ 21 khai tại
a là dựa vào kết quả trên mới ban hành Quyết định này. Như vậy, chứng cứ bị đơn xuất
trình để chứng minh sản phẩm 3S đã được công bhợp chuẩn ng nhiều mâu thuẫn
trong việc ban nh chứng từ chứng minh xuất xứ, tiêu chuẩn, chất lượngng hóa.
[5.1.3] Tại tờ i quảng cáo hộp đen 3S do chính FNC ban hành theo văn bản ủy
quyền của công ty Thế Kỷ 21 có nội dung hướng dẫn sử dụng, lắp đặt cùng những nh
ng của sản phẩm. Tuy nhiên, tại phiên a Thế Kỷ 21 cũng xác định sản phẩm 3S chỉ
chức năng báo động khi trộm n nếu muốn sử dụng hết công năng theo tờ quảng
o thì ngườing phải sử dụngm theo thẻ sim. Nhận thấy, tời quảng cáo hoàn tn
không có nội dung liên quan đến việc yêu cầu người tiêung phải lắp thẻ sim thì mới sử
dụng hết tính năng sản phẩm chnội dung thông báo giá sản phẩm kèm dòng ch
khuyến mãi sim card 1 năm th bao ng như kng đề cập tính năng duy nhất của bộ
sản phẩm 3S không bao gồm sim chng để o động.
[5.1.4] Tại tờ rơi quảng cáo u trên nội dung 3S được xem như chiếc điện
thoại tng minh sản phẩm phải bắt sóng hoặc phải nạp tm tiền cước... Nhưng theo
bản ng bố tiêu chuẩn ghi thành phần sản phẩm gồm: 1 hộp đen 3S H, 1 i o, 2
remote điều khiển, 1 apdater 220VAC sang 12VA1, 2 bộ sensor, ngoài ra sản phẩm còn
phkiện ăngten sóng. Như vậy, giữa vic công bố tu chuẩn việc quảng o sản
phẩm đã không mang tính đồng nhất dẫn đến người tiêu dùng nhầm lẫn khi sử dụng bộ
sản phẩm 3S (kng gồm sim) thì sẽ được hưởng đầy đủ những tính năng như quảng cáo.
Mặt khác tại phiên Tòa, ng ty Thế Kỷ 21 cũng khẳng định mỗi sản phẩm 3S khi giao
cho nguyên đơn đều được gắn sẵn 1 thẻ sim và tạii thẻ sim sẽ được dán một tem gọi
tem bảo hành. Tại phiếu thu mà bị đơn đã cung cấp cho Tòa khi bán sản phẩm thì người
mua nhận được phiếu thu với mặt sau là phiếu bảo nh. n cứ vào nội dung phiếu bảo
nh có ghi điều kiện bảo hành tem bảo nh n nguyên vẹn nhưng công ty Thế Kỷ
21 cho rằng người sdụng muốn thay sim của mình vào sản phẩm 3S phải gọi lên tổng
đài đợi hướng dẫn mới được thay sim khác o. Trường hợp tự ý thay sim khác thì sản
phẩm sẽ không được bảo hành nữa. Từ phânch này cho thấy bản tn sản phẩm 3S chưa
được quảng cáo đúng chức năng với 1 bộ sản phẩm đầy đủ theo bản ng btiêu chuẩn
vic người tiêu dùng muốn nhận được hết chc ng sản phẩm n quảng o thì s
ng sim điện thoại của mình thayo và việc này đồng nghĩa sản phẩm sẽ kngn giá
trị bảo nh nữa. Bản thân ng ty Thế Kỷ 21 cho rằng việc bảo hành sản phẩm chỉ được
tiếp nhận khi người sử dụng sản phẩm yêu cầu chứ không phải do nguyên đơn hay bị đơn
đề nghị là không đúng nên sẽ kng được giải quyết. Nng tại phiên tòa bị đơnng cho
rằng đã nhiều lần yêu cầu nguyên đơn cung cấp tng tin người tiêu dùng để bảo nh
nhưng nguyên đơn không đồng ý. Lời khai này ca bị đơn ng bất nhất với chứng cứ bảo
nh mà bị đơn xuất trình.
[5.1.5] n ckhoản 2 Điều 6 của Thông số 30/2011/TT ngày 31/10/2011
của Bộ Thông tin truyền thông quy định về chứng nhận hợp quy công bố hợp
quy đối với sản phẩm, hàng hóa chuyên ngành công nghệ thông tin về truyền thông,
thì mọi sản phẩm, dịch vụ liên quan đến công nghệ thông tin về truyền thông đều bắt
buộc chứng nhận công bố hợp quy. Như phân tích tại phần [5.4] thì sản phẩm an
ninh dân sự hộp đen 3S do Thế Kỷ 21 sản xuất thuộc trường hợp phải chứng nhận hợp
quy, phải công bố hợp quy theo Điều 7, Điều 8 của Thông y. Như vậy, cho đến
thời điểm hiện nay sản phẩm 3S vẫn chưa được điều kiện lưu hành theo quy định
pháp luật.
8
[5.1.6] Căn cứ hợp đồng đại phân phối độc quyền, bị đơn đã không xuất trình
giấy ủy quyền của công ty Thế Kỷ 21 cho FNC được quyền phân phối quảng cáo sản
phẩm điều này thể hiện tại phần n cứ hợp đồng không thhiện nội dung này. Tđó,
trong nội dung hợp đồng độc quyền và tờ rơi quảngo đều thể hiện FNC là n sản xuất
hộp đen 3S. Mặc khác, bđơn trình bày hợp đồng này thực tế hợp đồng mua bán ch
không phải là hợp đồng đại lý vì nguyên đơn giao tiền mua sản phẩm và bđơn đã giao
ng đúng cam kết mua đứt bán đoạn nên không sở chấp nhn yêu cầu nguyên
đơn. n cứ tại phần [4] lời khai của bị đơn cũng n tại khoản 2 Điều 34 Luật tơng
mại thì người bán phải nghĩa vgiao hàng, chứng từ liên quan theo quy định. Như
phân tích tại các phần trên thì bị đơn ch phiếu thu, phiếu kết quthử nghiệm của
Trung tâm 3 ngoài ra không tài liệu nào khác liên quan đến sản phẩm. Nguyên đơn
ng xác nhận chỉ nhận được sản phẩm chứ không nhận được chứng từ ln quan phù
hợp với tài liệu chứng cứ có trong h ván n sở xem xét lời khai nhận của
nguyên đơn vnội dung này.
[5.1.7] Đối với nội dung nguyên đơn cho rằng bị đơn ng thẻ sim đã được ch
hoạt nhiều lần gắn vào sản phẩm giao cho nguyên đơn là vi phạm Thông 04/2012/TT-
BTTTT ngày 13/4/2012. Tuy nhn, do sim thành phần được khuyến mại tặng thêm
không trong danh mục bộ sản phẩm 3S nên kng có sxem xét bị đơn đã dùng
ng hóa vi phạm điều cấm của pháp luật.
[5.1.8] Từ những phân tích trên có cơ sở c định tại thời điểm ký hợp đồng đại
phân phối độc quyền số 18/PP/FNC ngày 26/8/2016 thì FNC đã không đưa ra những
i liệu chứng minh xuất xứ chức ng đúng của sản phẩm n sở xem t yêu
cầu của nguyên đơn hợp đồng hiệu do lừa dối.
[5.1.9] Ngoài ra b đơn còn khai nhận hoàn toàn không nhận được số tiền
800.000.000 của nguyên đơn chuyển tiền mua hàng. Nguyên đơn c định đã đến ngân
ng nộp o tài khoản của bị đơn số tiền trên nhưng do thời gian quá u n kng gi
lại phiếu chuyển tiền này. Nhận thấy, theo nội dung hợp đồng đại tại khoản 2.3.3 Điều
2 quy định nguyên đơn phải đặt cọc 50% số tiền cho đơn đặt hàng đầu tiên. Theo lời trình
bày của b đơn thì bị đơn đã chuyển đủ hàng đợt 1 tại văn bản ngày 22/3/2017 bị đơn
c định đã nhận được 800.000.000 đồng và đã giao 315 thiết bị hộp đen cho nguyên đơn.
Do đó sở xác định b đơn đã nhận đủ số tiền theo hợp đồng.
[5.2] Đối với yêu cầu của nguyên đơn yêu cầu giải quyết hậu quả pháp lý của hợp
đồng vô hiệu, Hội đồng t xử phânch nsau:
[5.2.1] Tại thông báo ngày 22/3/2017 của đại diện pháp luật FNC đã có văn bản
c nhận đồng ý chấm dứt hợp đồng đại lý với nguyên đơn vào ngày 22/3/2017. Như vậy
sở c định hợp đồng độc quyền đã không có giá trị pháp luật sau ngày 22/3/2017
ng n không làm phát sinh quyền nga vụ của cácn trong hợp đồng này. Căn cứ
o ủy nhiệm chi ngày 13/9/2016 sở c định nguyên đơn đã chuyển cho bị đơn số
tiền 800.000.000 đồng bị đơn ng đã chuyển cho nguyên đơn tổng cộng 315 bộ sản
phẩm. Nguyên đơn khai nhận đã tr lại cho bị đơn 315 sản phẩm nhưng kng chứng
cứ chứng minh. Tại c bản khai của người làm chứng đều khai nhận việc nguyên đơn
đến trụ sở của FNC và đlại 05 thùng hàng do nguyên đơn và người làm chứng đóng
thùng 315 sản phẩm hộp đen 3S trả lại cho FNC. Lời khai nhận này của nguyên đơn
ng như người làm chứng không được bị đơn thừa nhận cũng n nguyên đơn không
xuất trình được chứng c nào khác về việc trả lại hàng. Do vậy, nguyên đơn chỉ còn gi
lại 10 bộ sản phẩm hộp đen 3S một số đã n cho c khách hàng nhưng kng sử
dụng được do lỗi sản phẩm ng như kháchng phản ánh và trả lại cho nguyên đơn. Tại
9
phiên tòa nguyên đơnng đồng ý việc bị đơn trả lại số tiền đã nhận 800.000.000 đồng
sau khi cấn trđi giá trị 315 sản phẩm hợp đen 3S thì số tiền nguyên đơn yêu cầu
448.625.000 đồng.
[5.2.2] Như phân ch tại phần [5.1.8] và căn cứ khoản 2 Điều 131 Bộ luật tố tụng
n sự thì giao dịch dân sự vô hiệu thì c bên khôi phục lại tình trạng ban đầu, hoàn tr
lại cho nhau những đã nhận. Như vậy, nguyên đơn nghĩa vụ trả lại cho bđơn 315
sản phẩm hộp đen 3S theo hợp đồng đã ký; bị đơn thanh toán lại cho nguyên đơn số tiền
đã nhận 800.000.000 đồng. Tuy nhiên, tại phiên a đại diện nguyên đơn xác định
không n lưu giữ sản phẩm nên thuộc trường hợp kng thể hoàn trả được bằng hiện vật
thì trị giá bằng tiền để hoàn tr tương ng với stiền 315 sản phẩm x 1.100.000 đồng =
351.375.000 đồng.
[6] Về án phí: Do yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn được chấp nhận nên bị đơn
phải chịu án phí theo quy định tại khoản 1 Điều 147 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm
2015 Điều 6, khoản 2 Điều 26 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 về quy định về
mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ vào khoản 3 Điu 26, điểm a khoản 1 Điều 35 điểm a khoản 1 Điu 39,
khon 1 Điều 147, Điều 271 và khoản 1 Điều 273 của Blut tố tụng n sm 2015;
Căn cứ các điều 357, 468, 584 và Điều 589 của Bộ luật Dân sự.
n cứ Điều 6, khoản 2 Điều 26 của Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 về quy
định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án ,
[1] Xử chấp nhận toàn bộ yêu cầu nguyên đơn:
[1.1] Tuyên b hợp đồng đại phân phối độc quyền sản phẩm 3S số
18/HĐPP/FNC ngày 26/8/2016 giữa Công ty TNHH MTV Q và Công ty cổ phần
đầu tư và phát triển mạng lưới H hiệu.
[1.2] Công ty cổ phần đầu phát triển mạng lưới H trả lại cho Công ty
TNHH MTV Q số tiền 448.625.000 đồng (bốn trăm bốn mươi tám triệu sáu trăm hai
mươi lăm ngàn) đồng.
Thi hành ngay sau khi bản án hiệu lực pháp luật, tại quan Thi hành án
Dân sự có thẩm quyền.
Kể từ ngày Bản án hiệu lực pháp luật đơn yêu cầu thi hành án, nếu
bên phải thi hành chưa thi hành khoản tiền trên, thì hàng tháng bên phải thi hành còn
phải chịu khoản tiền lãi theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 của Bộ luật
Dân sự 2015 tương ứng với thời gian chưa thi hành án.
[2] Án phí kinh doanh thương mại sơ thẩm là:
[2.1] Công ty cổ phần đầu tư phát triển mạng lưới H chịu án phí đối với yêu
cầu của nguyên đơn 21.945.000 (Hai mươi mốt triệu chín trăm bốn mươi m
nghìn) đồng.
[2.2] Công ty TNHH Một Thành viên Q không phải chịu án phí. Hoàn lại cho
Công ty TNHH Một Thành viên Q số tiền tạm ứng án phí đã nộp là 18.049.305 (Mười
tám triệu không trăm bốn mươi chín nghìn ba trăm linh m) đồng theo biên lại thu
10
tiền tạm ứng án phí số 0001898 ngày 24/10/2017 của Chi cục Thi hành án Dân sự
Quận 10, Thành phố Hồ Chí Minh.
Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân
sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự quyền thỏa
thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tnguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế
thi hành án theo quy định tại các Điều 6,7 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi
hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.
Các đương sự mặt tại phiên tòa quyền kháng cáo bản án này trong thời
hạn 15 (mười lăm) ngày, kể từ ngày tuyên án. Các đương sự vắng mặt tại phiên tòa
quyền kháng cáo bản án này trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày, tính từ ngày bản án
được giao hoặc được niêm yết./.
.
Nơi nhận:
- TAND TP.HCM,
- VKSND Q.10,
- Chi cục THADS Q.10,
- Các đương sự,
- Lưu VP, hồ sơ.
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ SƠ THẨM
THẨM PHÁN–CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
Trần Thanh Nhàn
Tải về
Bản án số 81/2022/KDTM-ST Bản án số 81/2022/KDTM-ST

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án/ Quyết định cùng đối tượng

Bản án cùng lĩnh vực

Bản án mới nhất