Bản án số 03/2023/KDTM-PT ngày 30/03/2023 của TAND tỉnh Long An về tranh chấp về phân phối
- Thuộc tính
- Nội dung
- VB gốc
- VB liên quan
- Lược đồ
- Đính chính
- Án lệ
- BA/QĐ cùng nội dung
- Tải về
Tải văn bản
-
Bản án số 03/2023/KDTM-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Báo lỗi
Thuộc tính Bản án 03/2023/KDTM-PT
| Tên Bản án: | Bản án số 03/2023/KDTM-PT ngày 30/03/2023 của TAND tỉnh Long An về tranh chấp về phân phối |
|---|---|
| Quan hệ pháp luật: | Tranh chấp về phân phối |
| Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
| Tòa án xét xử: | TAND tỉnh Long An |
| Số hiệu: | 03/2023/KDTM-PT |
| Loại văn bản: | Bản án |
| Ngày ban hành: | 30/03/2023 |
| Lĩnh vực: | Kinh doanh thương mại |
| Áp dụng án lệ: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
| Đính chính: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
| Thông tin về vụ/việc: | Công ty TNHH Sản xuất phân bón N "Tranh chấp hợp đồng phân phối, đòi tài sản" Nguyễn Văn N |
Tóm tắt Bản án
Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!
Tải văn bản

TÒA ÁN NHÂN DÂN
TỈNH LONG AN
Bản án số: 03/2023/KDTM-PT
Ngày 14-3-2023
V/v tranh chấp hợp đồng phân phối,
đòi tài sản
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập – Tự do – Hạnh phúc
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH LONG AN
- Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa: Ông Trần Tấn Quốc
Các Thẩm phán Ông Đặng Văn Những
Ông Trần Trọng Nhân
- Thư ký phiên tòa: Ông Nguyễn Thanh Sang – Thư ký Tòa án nhân dân
tỉnh Long An.
- Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân tỉnh Long An tham gia phiên tòa: Bà
Lê Thị Hồng Hạnh - Kiểm sát viên.
Ngày 14 tháng 3 năm 2023 tại trụ sở Toà án nhân dân tỉnh Long An tiến
hành xét xử phúc thẩm công khai vụ án thụ lý số 15/2022/TLPT-KDTM ngày 17
tháng 10 năm 2022 về việc “Tranh chấp hợp đồng phân phối, đòi tài sản”.
Do Bản án kinh doanh thương mại sơ thẩm số 02/2022/KDTM-ST ngày 15
tháng 8 năm 2022 của Toà án nhân dân huyện C bị kháng cáo.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 17/2022/QĐ-PT ngày 20 tháng 12
năm 2022, giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Công ty Trách nhiệm hữu hạn Sản xuất phân bón N. Địa chỉ
trụ sở chính: Số 829 đường H, phường P, Quận 7, Thành phố Hồ Chí Minh.
Người đại diện theo pháp luật của nguyên đơn: Ông Nguyễn Phương N –
Giám đốc (có mặt).
- Bị đơn: Ông Trần Văn N1, sinh năm 1956. Địa chỉ cư trú: Đường số 02,
khu T mở rộng, khu phố T, thị trấn C, huyện C, tỉnh Long An.
Người đại diện theo ủy quyền của bị đơn: Ông Trần Thanh B, sinh năm
1963. Địa chỉ cư trú: Ấp 5, xã A, huyện C, tỉnh Tiền Giang (theo Văn bản ủy
quyền ngày 06/4/2022).
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Ông Lê Minh Đ, sinh năm 1991.
Địa chỉ cư trú: Ấp Thông Lưu, xã Hòa Minh, huyện Châu Thành, tỉnh Trà Vinh.
2
- Người kháng cáo: Ông Trần Văn N1 là bị đơn.
(Ông N và ông B có mặt, ông Đ vắng mặt)
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Theo Đơn khởi kiện đề ngày 12/01/2022 và Đơn thay đổi yêu cầu khởi kiện
đề ngày 01/6/2022 của nguyên đơn Công ty Trách nhiệm hữu hạn Sản xuất phân
bón N (gọi tắt là Công ty N) và lời trình bày trong quá trình giải quyết vụ án tại
cấp sơ thẩm của ông Nguyễn Phú Vinh là người đại diện theo uỷ quyền có nội dung
như sau:
Ngày 10/02/2015, Công ty N ký kết hợp đồng phân phối với ông Trần Văn
N1. Theo Hợp đồng này thì Công ty N sản xuất cho ông N1 những mặt hàng
phân bón NPK theo đơn đặt hàng của ông N1. Lợi nhuận sẽ chia theo tỷ lệ 50:50
căn cứ theo bảng hàm lượng sản xuất và giá bán.
Căn cứ vào Giấy chốt nợ ngày 16/7/2015, ông N1 còn nợ nguyên đơn số
tiền 833.650.000đ. Từ khi chốt nợ đến nay, ông N1 không thanh toán khoản tiền
nào nên Công ty N khởi kiện. Theo nguyên đơn, Văn bản ghi nhận “kết quả sản
xuất kinh doanh” ngày 23/7/2015 không phải là giấy chốt nợ. Công ty N không
đồng ý đây là cơ sở xác định số tiền còn nợ. Trước đây, Công ty N đã nộp đơn
khởi kiện tại Tòa án với yêu cầu khởi kiện buộc ông N1 trả lại số tiền là
1.197.156.889đ, trong đó nợ vốn 642.251.550đ và tiền lãi 554.905.339đ. Căn cứ
để Công ty N nộp đơn khởi kiện là Văn bản ghi nhận “kết quả sản xuất kinh
doanh” ngày 23/7/2015 đã nộp cho Tòa án nhân dân huyện C, sau đó, vụ án đã
được thụ lý số 244/2021/TLST-DS ngày 17/12/2021, phía Công ty phát hiện có
sự nhầm lẫn nên đã rút đơn khởi kiện. Hiện tại Công ty N nộp đơn khởi kiện và
được Tòa án thụ lý số 01/2022/KDTM ngày 28/02/2022.
Từ ngày 16/7/2015 đến thời điểm hiện tại thì Công ty tạm ngừng mọi hoạt
động kinh doanh mua bán hàng hóa với ông N1 để chuyển qua giai đoạn thu hồi
nợ xấu nên từ đó đến nay công ty không có xác nhận công nợ nào khác với ông
N1.
Ông N1 yêu cầu áp dụng thời hiệu nhưng do các bên đã thực hiện hợp
đồng, các bên đã chốt nợ với nhau, đây là tài sản của phía nguyên đơn. Nguyên
đơn yêu cầu trả lại tài sản thuộc quyền sở hữu của nguyên đơn nên đề nghị Tòa
án không áp dụng thời hiệu.
Đối với ông Lê Minh Đ thì Công ty N xác định ông Đ và Công ty không
liên quan với nhau, ông Đ chỉ là người làm công của công ty. Công ty N yêu cầu
ông Trần Văn N1 trả nợ, vì khoản nợ là do ông N1 chốt với Công ty, không yêu
cầu bất kì ai cùng liên đới trả. Phía nguyên đơn trình bày nhìn bằng mắt thường
đối văn bản có tiêu đề “kết quả sản xuất kinh doanh” ngày 23/7/2015 là chữ ký
của ông Nguyễn Phương N - Giám đốc Công ty N, con dấu là của Công ty, tuy
nhiên đây chỉ là bản photo nên ông Nam không đồng ý nội dung Văn bản “kết
quả sản xuất kinh doanh” ngày 23/7/2015 này.
3
Theo đơn khởi kiện thì Công ty N yêu cầu Tòa án buộc ông N1 trả số tiền
là 833.650.000đ và tiền lãi chậm trả tính từ ngày 16/7/2015 đến khi Tòa án xét
xử sơ thẩm. Tạm tính số tiền lãi chậm trả là 770.292.600đ. Tổng cộng số tiền
yêu cầu ông N1 phải trả là 1.603.942.600đ.
Quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa sơ thẩm, nguyên đơn thay đổi
quan hệ pháp luật tranh chấp là đòi lại tài sản, cụ thể: Công ty N yêu cầu Tòa án
buộc ông N1 trả số tiền 833.650.000đ và tiền lãi chậm trả tính từ ngày 16/7/2015
đến khi Tòa án xét xử sơ thẩm. Tạm tính số tiền lãi chậm trả là 770.292.600đ.
Tổng cộng số tiền yêu cầu ông N1 phải trả là 1.603.942.600đ. Ông Vinh là
người đại diện theo uỷ quyền của Công ty N cho rằng nội dung Văn bản có tiêu
đề “kết quả sản xuất kinh doanh” ngày 23/7/2015 là không đúng, nhưng không
đúng về nội dung gì thì Công ty không cung cấp cho ông nên ông không xác
định được. Căn cứ vào Giấy chốt nợ ngày 16/7/2015, ông N1 đã thừa nhận chữ
ký trong giấy chốt nợ này là của ông. Do đó đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận
yêu cầu khởi kiện của Công ty N.
Bị đơn ông Trần Văn N1 do ông Trần Thanh B là người đại diện theo ủy
quyền trình bày trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa có nội dung
như sau:
Vào năm 2015, ông N1 có ký kết hợp đồng phân phối với Công ty N và đại
diện là ông Lê Minh Đ. Nội dung hợp đồng là Công ty N giao hàng cho ông N1,
ông N1 chịu trách nhiệm thu tiền công nợ, hàng hóa của khách hàng và trách
nhiệm về giao hàng và công nợ. Về ông Đ thì ông Đ đại diện cho ông N1 thực
hiện mọi hoạt động hợp tác với Công ty N. Về lợi nhuận sẽ chia theo tỷ lệ 50:50
căn cứ theo bảng hàm lượng sản xuất và giá bán.
Quá trình thực hiện hợp đồng giữa hai bên có công khai chi tiết công nợ
phải thu khách hàng lần đầu là 833.650.000đ, ông N1 có ký xác nhận ngày
16/7/2015. Đến lần thứ hai ngày 23/7/2015 là lần tất toán luôn cho lần trước
(ngày 16/7/2015) xác nhận còn nợ Công ty N là 642.251.550đ. Ông Lê Minh Đ
ký xác nhận nợ trong vòng 15 ngày kể từ ngày ký ông Đ trả công cho ông
Nguyễn Phương N - Giám đốc công ty Phương Nam trước 200.000.000đ; phần
còn lại ông Đ sẽ thanh toán dứt điểm cho Công ty N vào ngày 23/10/2015. Lời
cam kết nhận nợ và trả nợ của ông Đ có xác nhận của ông Nam và ông N1 ký
tên đồng ý với ý kiến của ông Đ. Căn cứ chứng minh lời trình bày của ông N1 là
dựa vào bản sao Văn bản “kết quả sản xuất kinh doanh” ngày 23/7/2015.
Như vậy nợ của ông N1, ông Đ và Công ty N đã được kê khai rõ ràng,
thống nhất giữa các bên. Nay Công ty N cắt khúc, lấy bảng kê công nợ lần đầu
ngày 16/7/2015 kiện yêu cầu Tòa án giải quyết là không phù hợp, ông N1 không
đồng ý vì ông và Công ty NPK không có số nợ nêu trên.
Ngày 28/3/2022, ông N1 yêu cầu Tòa án áp dụng thời hiệu theo quy định
của Bộ luật Dân sự để đình chỉ giải quyết vụ án. Trong tất cả các văn bản
nguyên đơn cung cấp không thể hiện trả lại tài sản thuộc quyền sở hữu của
nguyên đơn nên bị đơn vẫn giữ nguyên yêu cầu áp dụng thời hiệu.
4
Trong Hợp đồng phân phối ngày 10/02/2015 thể hiện ông Đ có vai trò là
người trực tiếp giao dịch với Công ty N; ông N1 không có tham gia giao dịch và
nếu phát sinh khoản nợ thì ông Đ sẽ trực tiếp chi trả cho Công ty N.
Ông N1 thừa nhận chữ ký và chữ viết Trần Văn N1 trong Hợp đồng phân
phối và Văn bản “kết quả sản xuất kinh doanh” ngày 23/7/2015 là của ông.
Trong Văn bản xác nhận công nợ ngày 16/7/2015 thì ông N1 không nhận ra có
phải chữ ký của mình hay không.
Tại phiên tòa sơ thẩm, ông Bình là người đại diện theo uỷ quyền của ông
N1 cho biết ngày 15/01/2015, với tư cách là Chủ tịch hội đồng quản trị kiêm giám
đốc Công ty Cổ phần Sản xuất NPK Ngọc Điền, ông Nguyễn Phương N đã ký
quyết định bổ nhiệm ông Lê Minh Đ giữ chức vụ trưởng phòng kinh doanh. Việc
Công ty cho rằng ông Đ không có liên quan với nhau là không có cơ sở.
Tòa án đã tiến hành hòa giải nhưng các đương sự không thỏa thuận được
với nhau về việc giải quyết toàn bộ vụ án nên quyết định đưa vụ án ra xét xử.
Tại Bản án dân sự sơ thẩm số 02/2022/KDTM-ST ngày 15/8/2022 của Toà
án nhân dân huyện C đã tuyên xử:
1. Đình chỉ một phần yêu cầu khởi kiện của Công ty Trách nhiệm hữu hạn
Sản xuất phân bón N đối với ông Trần Văn N1 về yêu cầu trả tiền lãi chậm trả
tính từ ngày 16/7/2015 đến khi Tòa án xét xử sơ thẩm.
2. Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của Công ty Trách nhiệm hữu
hạn Sản xuất phân bón N đối với ông Trần Văn N1 về việc trả số tiền vốn.
Buộc ông Trần Văn N1 trả cho Công ty Trách nhiệm hữu hạn Sản xuất
phân bón N số tiền vốn là 642.251.550đ (sáu trăm bốn mươi hai triệu hai trăm
năm mươi mốt nghìn năm trăm năm mươi đồng).
Ngoài ra, bản án sơ thẩm còn tuyên về nghĩa vụ chịu chi phí tố tụng, án phí,
quyền kháng cáo, quyền yêu cầu, nghĩa vụ và thời hiệu thi hành án.
Ngày 25/8/2022, Tòa án nhân dân huyện C nhận được đơn kháng cáo của
ông Trần Văn N1 kháng cáo bản án sơ thẩm, yêu cầu Tòa án cấp phúc thẩm xét
xử bác toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn và đề nghị xem xét về thời
hiệu khởi kiện.
Ngày 29/8/2022, Toà án nhân dân huyện C nhận được đơn kháng cáo của
ông Nguyễn Phú Vinh là người đại diện theo uỷ quyền của Công ty N kháng cáo
bản án sơ thẩm, yêu cầu Toà án cấp phúc thẩm xét xử chấp nhận toàn bộ yêu cầu
khởi kiện của nguyên đơn.
Tại phiên tòa phúc thẩm, nguyên đơn vẫn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện
nhưng xin rút yêu cầu kháng cáo, bị đơn vẫn giữ nguyên yêu cầu kháng cáo, các
đương sự không thỏa thuận được với nhau về việc giải quyết vụ án.
Ông Bình là người đại diện theo uỷ quyền của bị đơn trình bày: Về tố tụng,
đây là tranh chấp hợp đồng phân phối, không phải tranh chấp đòi tài sản nên tính
đến thời điểm nguyên đơn khởi kiện thì thời hiệu khởi kiện đã hết nên phải đình
5
chỉ giải quyết vụ án. Về nội dung, trong quá trình thực hiện hợp đồng, ông Đ là
người đại diện cho ông N1 ký nhận nợ với ông Nguyễn Phương N – Giám đốc
Công ty N nên ông Đ phải có trách nhiệm trả cho Công ty N chứ không phải ông
N1.
Ông Nam là người đại diện theo pháp luật của nguyên đơn trình bày: Giữa
Công ty N có ký Hợp đồng phân phối ngày 10/02/2015, ngày 23/7/2015, ông N1
đã ký nhận nợ với số tiền 642.251.550đ. Còn ông Đ là chỉ là người đại diện cho
ông N1 ký nhận nợ nên ông N1 phải có trách nhiệm trả nợ. Tại phiên toà, Công
ty N xin rút lại yêu cầu kháng cáo, đề nghị Hội đồng xét xử phúc thẩm giữ
nguyên bản án sơ thẩm.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Long An phát biểu ý kiến:
Về tính hợp lệ của kháng cáo: Đơn kháng cáo nằm trong hạn luật định nên
được xem xét theo trình tự phúc thẩm.
Về chấp hành pháp luật: Kể từ khi thụ lý vụ án cho đến trước thời điểm Hội
đồng xét xử nghị án Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa đã tuân thủ
đúng những quy định của Bộ luật tố tụng dân sự, những người tham gia tố tụng
đã chấp hành đúng pháp luật.
Về giải quyết yêu cầu kháng cáo: Tại phiên toà nguyên đơn rút yêu cầu
kháng cáo nên đề nghị đình chỉ xét xử phúc thẩm đối với yêu cầu kháng cáo của
nguyên đơn. Đối với kháng cáo của bị đơn đề nghị xem xét thời hiệu khởi kiện
thấy rằng do nguyên đơn khởi kiện yêu cầu đòi tài sản nên căn cứ khoản 2 Điều
155 Bộ luật Dân sự năm 2015, Toà án sơ thẩm không áp dụng thời hiệu đối với
yêu cầu của nguyên đơn về số tiền gốc, đình chỉ đối với yêu cầu về số tiền lãi do
đã hết thời hiệu là phù hợp. Xét kháng cáo của bị đơn về số tiền gốc
642.251.550đ, căn cứ văn bản “Kết quả sản xuất kinh doanh” ngày 23/7/2015 có
chữ ký của cả ông N1 và ông Nam, có đóng dấu của Công ty N nên án sơ thẩm
giải quyết căn cứ văn bản này buộc ông N1 trả cho Công ty N số tiền gốc
642.251.550đ là có căn cứ. Ông N1 kháng cáo nhưng không cung cấp được tài
liệu chứng cứ gì khác nên đề nghị Hội đồng xét xử phúc thẩm căn cứ khoản 1
Điều 308 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 không chấp nhận kháng cáo của ông
N1, giữ nguyên bản án sơ thẩm.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Về thủ tục tố tụng:
[1] Tòa án cấp sơ thẩm xác định thẩm quyền Tòa án giải quyết, quan hệ
pháp luật tranh chấp, người tham gia tố tụng và xét xử theo trình tự sơ thẩm là
phù hợp với quy định tại các Điều 26, 35, 39, 227, 228 Bộ luật Tố tụng dân sự
năm 2015.
[2] Tại phiên tòa phúc thẩm, những người được Tòa án triệu tập có mặt, có
đơn đề nghị xét xử vắng mặt, Tòa án tiến hành xét xử theo trình tự phúc thẩm là
phù hợp quy định tại Điều 296 Bộ luật Tố tụng dân sự.
6
[3] Về thời hiệu khởi kiện: Ông N1 cho rằng Công ty N tranh chấp hợp
đồng phân phối và tính đến thời điểm khởi kiện thì đã hết thời hiệu nên phải
đình chỉ giải quyết vụ án. Hội đồng xét xử xét thấy: Công ty N khởi kiện ông
Trần Văn N1 yêu cầu đòi tài sản là số tiền nợ gốc và tiền lãi phát sinh từ hợp
đồng phân phối. Đối với yêu cầu về số tiền lãi phát sinh tính từ ngày 16/7/2015,
thấy rằng tại thời điểm chốt nợ lần đầu ngày 16/7/2015 thì số tiền lãi này chưa
hình thành và không phải là tài sản của Công ty N, căn cứ quy định tại Điều 319
Luật Thương mại năm 2005 (sửa đổi, bổ sung năm 2019) về thời hiệu khởi kiện
đối với các tranh chấp thương mại là 02 năm kể từ thời điểm quyền và lợi ích
hợp pháp bị xâm phạm thì yêu cầu này đã hết thời hiệu nên Toà sơ thẩm đình
chỉ giải quyết đối với yêu cầu này của Công ty N là có căn cứ. Đối với yêu cầu
về số nợ gốc, căn cứ khoản 2 Điều 155 Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định
“Không áp dụng thời hiệu khởi kiện trong trường hợp yêu cầu bảo vệ quyền sở
hữu, trừ trường hợp Bộ luật này, luật khác có liên quan quy định khác…” nên
đối với yêu cầu này không áp dụng thời hiệu như án sơ thẩm nhận định là phù
hợp.
Về việc giải quyết yêu cầu kháng cáo:
[4] Công ty N kháng cáo đề nghị Toà án phúc thẩm chấp nhận toàn bộ yêu
cầu khởi kiện, cụ thể chấp nhận về số tiền nợ gốc theo Giấy chốt nợ ngày
16/7/2015 là 833.650.000đ và số tiền lãi phát sinh tính từ ngày 16/7/2015 đến
khi xét xử sơ thẩm ngày 15/8/2022 với số tiền 770.292.600đ. Xét thấy tại phiên
toà phúc thẩm, Công ty N rút toàn bộ kháng cáo, việc rút kháng cáo này là tự
nguyện và không trái quy định pháp luật nên căn cứ điểm b khoản 1 Điều 289,
Điều 298 và Điều 312 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015, Hội đồng xét xử đình
chỉ xét xử phúc thẩm đối với yêu cầu kháng cáo này.
[5] Ông Trần Văn N1 kháng cáo đề nghị Toà án phúc thẩm không chấp
nhận cầu khởi kiện của Công ty N về việc buộc ông N1 trả số tiền gốc
642.251.550đ. Hội đồng xét xử thấy rằng:
[6] Nguyên đơn và bị đơn thừa nhận: Ngày 10/02/2015 hai bên có ký kết
hợp đồng phân phối; trong quá trình thực hiện hợp đồng hai bên có công khai
chi tiết công nợ phải thu của khách hàng, ông N1 có ký tên xác nhận tại bản
“Chi tiết công nợ phải thu của khách hàng chú Nhọn” ngày 16/7/2015 là còn nợ
Công ty N số tiền 833.650.000đ; sau đó ngày 23/7/2015, ông N1 và ông Lê
Minh Đ có ký tên xác nhận vào văn bản thống kê “Kết quả sản xuất kinh doanh”
là còn nợ Công ty N số tiền 642.251.550đ.
[7] Công ty Phương Nam khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết buộc ông N1
trả số tiền nợ gốc 833.650.000đ và lãi phát sinh tính từ ngày 16/7/2022 căn cứ
vào bản “Chi tiết công nợ phải thu của khách hàng chú Nhọn” ngày 16/7/2015;
ông N1 cho rằng hai bên đã xác nhận chỉ còn nợ 642.251.550đ và ông Đ là
người có trách nhiệm trả nợ căn cứ văn bản thống kê “Kết quả sản xuất kinh
doanh” ngày 23/7/2015. Tòa sơ thẩm đã giải quyết chấp nhận một phần yêu cầu
khởi kiện của Công ty N buộc ông N1 trả số tiền nợ gốc 642.251.550đ. Công ty
N kháng cáo nhưng tại phiên tòa phúc thẩm đã rút đơn kháng cáo, ông N1 kháng
7
cáo không đồng ý trả nợ vì cho rằng ông Đ là người phải có trách nhiệm trả chứ
không phải ông. Do đó, Hội đồng xét xử phúc thẩm chỉ xem xét kháng cáo của
ông N1 để xác định ông N1 có trách nhiệm trả số tiền nợ gốc 642.251.550đ cho
Công ty N hay không.
[8] Tại văn bản thống kê “Kết quả sản xuất kinh doanh” ngày 23/7/2015,
ông Đ xác nhận“hôm nay ngày 23/7/2015, tôi và anh Nhọn đã xác nhận công
nợ với anh Nam (tức ông Nguyễn Phương N – Giám đốc Công ty N). Vậy số tiền
còn nợ anh Nam hiện tại là 642.251.550đ. Trong vòng 15 ngày kể từ ngày ký
xác nhận tôi sẽ trả cho anh Nam…”, ông N1 xác nhận “tôi đồng ý ý kiến của
ông Lê Minh Đ. Cho thấy ông Đ và ông N1 đã xác nhận công nợ với công ty,
ông N1 còn nợ 642.251.550đ, việc ông Đ xác nhận sẽ trả tiền cho công ty đây là
ý kiến của ông Đ, ông N1 đồng ý thì xem như là sự thỏa thuận của ông Đ và ông
N1.
[9] Tuy nhiên theo Hợp đồng phân phối ngày 10/02/2015 thì Công ty N
(bên A) có trách nhiệm sản xuất phân bón cho ông N1 (bên B), do ông N1 là
người mua hàng nên theo quy định tại khoản 1 Điều 440 Bộ luật Dân sự năm
2015 thì ông N1 phải có nghĩa vụ thanh toán tiền cho Công ty N. Hợp đồng
phân phối có nội dung “ông N1 hoàn toàn chịu trách nhiệm về anh Lê Minh Đ -
là đại diện của bên B về mọi hoạt động của hợp đồng này”, có nghĩa ông Đ chỉ
là đại diện của ông N1 chứ các bên không thỏa thuận trong hợp đồng là ông Đ sẽ
chịu trách nhiệm thanh toán tiền hàng cho Công ty N. Hơn nữa, Công ty N chỉ
khởi kiện yêu cầu ông N1 trả nợ chứ không yêu cầu ông Đ do đó ông N1 phải có
nghĩa vụ trả số tiền nợ gốc 642.251.550đ cho Công ty N như án sơ thẩm nhận
định là phù hợp. Ông N1 kháng cáo nhưng không cung cấp thêm được chứng cứ
nào khác để chứng minh cho yêu cầu kháng cáo nên không có căn cứ chấp nhận.
[10] Từ những nhận định trên, Hội đồng xét xử phúc thẩm căn cứ khoản 1,
khoản 5 Điều 308 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015: Không chấp nhận yêu
cầu kháng cáo của ông Trần Văn N1, đình chỉ xét xử phúc thẩm đối với yêu cầu
kháng cáo của Công ty N, giữ nguyên bản án sơ thẩm như đề nghị của Kiểm sát
viên tham gia phiên tòa.
[11] Về án phí: Theo quy định tại các Điều 12, 26 và 29 Nghị quyết
326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy
định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa
án: Ông N1 được miễn án phí sơ thẩm và phúc thẩm do là người cao tuổi. Công
ty N phải chịu 9.569.922đ án phí sơ thẩm đối với số tiền vốn không được chấp
nhận và phải chịu 2.000.000đ án phí phúc thẩm do rút kháng cáo tại phiên toà.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ khoản 5 Điều 308 và khoản 1 Điều 312 Bộ luật Tố tụng dân sự năm
2015.
8
Đình chỉ xét xử phúc thẩm đối với yêu cầu kháng cáo của Công ty Trách
nhiệm hữu hạn Sản xuất phân bón N.
Căn cứ khoản 1 Điều 308 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.
Không chấp nhận yêu cầu kháng cáo của ông Trần Văn N1.
Giữ nguyên Bản án sơ thẩm số 02/2022/KDTM-ST ngày 15 tháng 8 năm
2022 của Toà án nhân dân huyện C.
Căn cứ các Điều 30, 35, 39, 147, 148, 184, 217, 218, 227, 228, 244, 289,
298 và 483 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.
Áp dụng các Điều 155, 164, 166 và 440 Bộ luật Dân sự năm 2015; Điều 50
và Điều 319 Luật Thương mại năm 2005 (sửa đổi, bổ sung năm 2019); các Điều
12, 26 và 29 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban
thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử
dụng án phí và lệ phí Tòa án;
Tuyên xử:
1. Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của Công ty Trách nhiệm hữu
hạn Sản xuất phân bón N đối với ông Trần Văn N1 về việc trả số tiền nợ vốn.
Buộc ông Trần Văn N1 trả cho Công ty Trách nhiệm hữu hạn Sản xuất
phân bón N số tiền 642.251.550 đồng (sáu trăm bốn mươi hai triệu, hai trăm
năm mươi mốt nghìn, năm trăm năm mươi đồng).
Kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án (đối với
các khoản tiền phải trả cho người được thi hành án) cho đến khi thi hành án
xong, bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi
hành án theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 Bộ luật Dân sự năm
2015.
2. Đình chỉ một phần yêu cầu khởi kiện của Công ty Trách nhiệm hữu hạn
Sản xuất phân bón N đối với ông Trần Văn N1 về yêu cầu trả tiền lãi chậm trả
trên số tiền nợ gốc 833.650.000đ (tám trăm ba mươi ba triệu, sáu trăm năm
mươi nghìn đồng) tính từ ngày 16/7/2015 đến khi Tòa án xét xử sơ thẩm với số
tiền 770.292.600đ (bảy trăm bảy mươi triệu, hai trăm chín mươi hai nghìn, sáu
trăm đồng).
3. Về án phí dân sự sơ thẩm:
Ông Trần Văn N1 được miễn án phí dân sự sơ thẩm đối với tranh chấp về
kinh doanh, thương mại có giá ngạch.
Công ty Trách nhiệm hữu hạn Sản xuất phân bón N phải chịu 9.569.922đ
(chín triệu, năm trăm sáu mươi chín nghìn, chín trăm hai mươi hai đồng) án phí
dân sự sơ thẩm đối với tranh chấp về kinh doanh, thương mại có giá ngạch.
Khấu trừ số tiền tạm ứng án phí 30.059.000đ (ba mươi triệu, không trăm năm
mươi chín nghìn đồng) đã nộp theo Biên lai thu số 0013071 ngày 24/02/2022
của Chi cục Thi hành án dân sự huyện C nên hoàn trả lại cho Công ty Trách
9
nhiệm hữu hạn Sản xuất phân bón N số tiền 20.489.078đ (hai mươi triệu, bốn
trăm tám mươi chín nghìn, không trăm bảy mươi tám đồng).
4. Về án phí phúc thẩm:
Ông Trần Văn N1 được miễn án phí dân sự phúc thẩm đối với tranh chấp
về kinh doanh, thương mại.
Công ty Trách nhiệm hữu hạn Sản xuất phân bón N phải chịu 2.000.000đ
(hai triệu đồng) án phí dân sự phúc thẩm đối với tranh chấp về kinh doanh,
thương mại.
5. Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2
Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành
án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện
thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7, 7a và 9
Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại
Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.
6. Bản án phúc thẩm có hiệu lực thi hành kể từ ngày tuyên án./.
Nơi nhận:
- TANDCC tại Tp. Hồ Chí Minh;
- VKSND tỉnh Long An;
- TAND huyện C;
- Chi cục THADS huyện C;
- Đương sự;
- Lưu hồ sơ vụ án.
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM
THẨM PHÁN – CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
Trần Tấn Quốc
Tải về
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án/ Quyết định cùng đối tượng
1
Ban hành: 28/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
2
Bản án số 82/2024/KDTM-ST ngày 10/09/2024 của TAND Q. Đống Đa, TP. Hà Nội về tranh chấp về phân phối
Ban hành: 10/09/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
3
Ban hành: 27/08/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
4
Ban hành: 29/07/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
5
Ban hành: 02/07/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
6
Ban hành: 20/09/2023
Cấp xét xử: Phúc thẩm
7
Ban hành: 11/08/2023
Cấp xét xử: Phúc thẩm
8
Ban hành: 24/07/2023
Cấp xét xử: Phúc thẩm
9
Ban hành: 24/07/2023
Cấp xét xử: Phúc thẩm
10
Ban hành: 19/06/2023
Cấp xét xử: Phúc thẩm
11
Ban hành: 23/03/2023
Cấp xét xử: Phúc thẩm
12
Ban hành: 29/09/2022
Cấp xét xử: Phúc thẩm
13
Ban hành: 29/09/2022
Cấp xét xử: Phúc thẩm
14
Bản án số 03/2022/ ngày 15/08/2022 của TAND TP. Ninh Bình, tỉnh Ninh Bình về tranh chấp về phân phối
Ban hành: 15/08/2022
Cấp xét xử: Phúc thẩm
15
Ban hành: 15/08/2022
Cấp xét xử: Phúc thẩm
16
Ban hành: 26/07/2022
Cấp xét xử: Phúc thẩm
17
Ban hành: 26/07/2022
Cấp xét xử: Phúc thẩm
18
Ban hành: 24/05/2022
Cấp xét xử: Phúc thẩm
19
Ban hành: 19/04/2022
Cấp xét xử: Phúc thẩm