Bản án số 05/2022/KDTM-PT ngày 26/07/2022 của TAND tỉnh Bạc Liêu về tranh chấp về phân phối
- Thuộc tính
- Nội dung
- VB gốc
- VB liên quan
- Lược đồ
- Đính chính
- Án lệ
- BA/QĐ cùng nội dung
- Tải về
Tải văn bản
-
Bản án số 05/2022/KDTM-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Báo lỗi
Thuộc tính Bản án 05/2022/KDTM-PT
| Tên Bản án: | Bản án số 05/2022/KDTM-PT ngày 26/07/2022 của TAND tỉnh Bạc Liêu về tranh chấp về phân phối |
|---|---|
| Quan hệ pháp luật: | Tranh chấp về phân phối |
| Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
| Tòa án xét xử: | TAND tỉnh Bạc Liêu |
| Số hiệu: | 05/2022/KDTM-PT |
| Loại văn bản: | Bản án |
| Ngày ban hành: | 26/07/2022 |
| Lĩnh vực: | Kinh doanh thương mại |
| Áp dụng án lệ: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
| Đính chính: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
| Thông tin về vụ/việc: | Công ty yêu cầu ông Thế A trả số tiền nợ gốc là 24.842.407.019 đồng, tiền lãi do chậm thanh toán từ ngày 01/4/2021 đến ngày 24/01/2022 với mức lãi suất 16%/năm là 3.245.167.032 đồng, tiền phạt vi phạm hợp đồng là 1.987.392.562 đồng, tổng số tiền yêu cầu ông Thế A trả tính đến ngày 24/01/2022 là 30.074.966.612 đồng. |
Tóm tắt Bản án
Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!
Tải văn bản

TÒA ÁN NHÂN DÂN CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TỈNH BẠC LIÊU Độc lập – Tự do – Hạnh phúc
Bản án số: 05/2022/KDTM-PT
Ngày 26 - 7 - 2022
V/v tranh chấp hợp đồng
phân phối hàng hóa
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH BẠC LIÊU
- Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:
Thẩm phán – Chủ tọa phiên tòa: Bà Nguyễn Lệ Kiều
Các Thẩm phán: Ông Trương Thanh Dũng
Ông Lê Thanh Hùng
- Thư ký phiên tòa: Bà Võ Minh Thu – Thư ký Tòa án nhân dân tỉnh Bạc Liêu.
- Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân tỉnh Bạc Liêu tham gia phiên tòa: Ông
Trịnh Út Mười - Kiểm sát viên.
Ngày 26 tháng 7 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Bạc Liêu xét xử
phúc thẩm công khai vụ án kinh doanh thương mại thụ lý số 03/2022/TLPT-
KDTM ngày 12 tháng 4 năm 2022, về việc tranh chấp hợp đồng phân phối hàng
hóa.
Do Bản án kinh doanh thương mại sơ thẩm số 01/2022/KDTM-ST ngày 25
tháng 01 năm 2022 của Tòa án nhân dân Thành phố B, tỉnh Bạc Liêu bị kháng cáo.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số 02/2022/QĐ-PT ngày 24
tháng 5 năm 2022, giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Công ty Trách nhiệm hữu hạn G. Địa chỉ: Số 1, đường 6A,
Khu công nghiệp Biên Hòa 2, phường L, thành phố B, tỉnh Đồng Nai.
Người đại diện theo pháp luật: Ông Phạm Hải Văn – Chức vụ: Tổng giám đốc.
Người đại diện theo ủy quyền: Bà Phí Thị H, sinh năm 1987 và bà Lê Lê Thanh T,
sinh năm 1995. Địa chỉ liên hệ: Phòng 2002, Tầng 20, Tòa nhà Centec, 72-74,
Nguyễn Thị Minh K, phường Võ Thị S, Quận 3, Thành phố Hồ Chí Minh. (Bà H có
mặt, bà Trà vắng mặt)
Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nguyên đơn: Ông Dương
Hoàng T, sinh năm 1992 và bà Dương Thị Cẩm C, sinh năm 1993 – Luật sư thuộc
Công ty Luật TNHH Dentons Luật Việt. Địa chỉ liên hệ: Phòng 2002, Tầng 20,
Tòa nhà Centec, 72-74, Nguyễn Thị Minh K, phường V, Quận 3, Thành phố Hồ
Chí Minh. (Bà C có mặt, ông T có đơn xin vắng mặt).
2
- Bị đơn: Ông Triệu Thế A – Chủ hộ kinh doanh T. Địa chỉ: Số 2/504, ấp K,
xã V, Thành phố B, tỉnh Bạc Liêu. (Đơn xin vắng mặt).
Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của ông Anh: Ông Nguyễn Duy S –
Luật sư của Công ty Luật Trách nhiệm hữu hạn Một Thành viên T. (Vắng mặt).
- Người kháng cáo: Nguyên đơn Công ty Trách nhiệm hữu hạn G và bị đơn
ông Triệu Thế A – Chủ hộ kinh doanh T.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Theo đơn khởi kiện, quá trình tố tụng và tại phiên tòa người đại diện theo
ủy quyền của nguyên đơn bà Lê Lê Thanh T trình bày:
Ngày 02/01/2020 Công ty Trách nhiệm hữu hạn G (gọi tắt là Công ty) và
ông Triệu Thế A - Chủ hộ kinh doanh T có ký kết hợp đồng phân phối thức ăn
tôm số 01 GR, LD, VI, BE-GLF/BAL 2020, Hợp đồng phân phối sản phẩm lặp lại
và sửa đổi số 10015802-LF/BAL 1_01.2021 ngày 01/11/2020 cùng các phụ lục
đính kèm. Theo đó, công ty đồng ý giao cho ông Thế A làm nhà phân phối cấp I
để phân phối sản phẩm thức ăn tôm nhãn hiệu Grobest Group No.0, Grobest
Group No.1S, Vannamei No.0, Vannamei No.1S, Leader Vanamei, Vista Eco,
The Best, Vista Sú, Grobest của G.
Theo quy định tại Điều 3.1 của Hợp đồng năm 2021 và Phụ lục 4 kèm theo
Hợp đồng 2021 quy định: Bên B (ông Thế A) sẽ thanh toán toàn bộ sản phẩm theo
mỗi đơn đặt hàng ngay trước khi sản phẩm được giao. Điều 4.2.a của Hợp đồng
năm 2021 quy định: Địa điểm giao hàng tại kho Biên Hòa, địa chỉ số 1, đường 6A,
khu công nghiệp Biên Hòa 2, TP. Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai hoặc kho của G tại Bạc
Liêu.
Ngày 29/12/2020 ông Thế A có thư cam kết sẽ thanh toán đúng hạn, trong
trường hợp không thực hiện thì Công ty được quyền xử lý toàn bộ tài sản thuộc sở
hữu của ông Thế A để thanh toán cho khoản nợ tiền hàng theo hợp đồng.
Ngày 31/3/2021 Grobest và ông Thế A ký kết bảng đối chiếu công nợ, theo
đó ông Thế A xác nhận tổng số nợ đối với G tính đến ngày 31/3/2021 là
24.842.407.019 đồng. Công ty đã nhiều lần nhắc nhở yêu cầu ông Thế A thanh
toán nợ dứt điểm khoản nợ nêu trên nhưng đến nay vẫn không thanh toán. Nay
Công ty yêu cầu ông Thế A trả số tiền nợ gốc là 24.842.407.019 đồng, tiền lãi do
chậm thanh toán từ ngày 01/4/2021 đến ngày 24/01/2022 với mức lãi suất
16%/năm là 3.245.167.032 đồng, tiền phạt vi phạm hợp đồng là 1.987.392.562
đồng, tổng số tiền yêu cầu ông Thế A trả tính đến ngày 24/01/2022 là
30.074.966.612 đồng.
* Bị đơn ông Triệu Thế A trình bày:
Ông thống nhất thời điểm ký hợp đồng và ký xác nhận đối chiếu công nợ với
công ty Grobest như công ty trình bày. Từ ngày 30/3/2021 Công ty không thực
hiện cung cấp sản phẩm theo đơn đặt hàng cho ông nên Công ty đã vi phạm nghĩa
vụ giao hàng tại Điều 6.1 Hợp đồng lặp lại và Công ty không điều chỉnh tiền chiết

3
khấu thương mại vào công nợ mua sản phẩm cho T. Mặt khác, Công ty còn bán
trực tiếp sản phẩm vào các đại lý cấp dưới của T dẫn đến gây thiệt hại cho T. Nay
ông không đồng ý thanh toán số tiền nợ gốc, nợ lãi và phạt vi phạm hợp đồng theo
yêu cầu của công ty.
Từ nội dung nêu trên, tại Bản án kinh doanh thương mại sơ thẩm số
01/2022/KDTM-ST ngày 25 tháng 01 năm 2022 của Tòa án nhân dân Thành phố
B, tỉnh Bạc Liêu đã quyết định:
Căn cứ vào: Khoản 1 Điều 30; khoản 1 Điều 35; khoản 1 Điều 39 Bộ luật Tố
tụng dân sự năm 2015; Điều 357 Bộ luật Dân sự năm 2015; Điều 50, Điều 300,
Điều 301, Điều 306 Luật thương mại; Khoản 4 Điều 26 Nghị quyết số
326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu,
nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Tuyên xử:
1. Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của Công ty Trách nhiệm hữu hạn
G đối với ông Triệu Thế A – Chủ hộ kinh doanh T. Buộc ông Triệu Thế A có
nghĩa vụ thanh toán cho Công ty Trách nhiệm hữu hạn G số tiền mua hàng
hóa còn nợ theo hợp đồng phân phối thức ăn tôm số 01 GR, LD, VI, BE-GLF/BAL
2020, Hợp đồng phân phối sản phẩm lặp lại và sửa đổi số 10015802-LF/BAL
1_01.2021 ngày 01/11/2020 cùng các phụ lục đính kèm tổng cộng là
28.087.574.050 đồng (Bằng chữ: Hai mươi tám tỷ, không trăm tám mươi bảy triệu,
năm trăm bảy mươi bốn nghìn, không trăm năm mươi đồng) bao gồm các khoản
sau:
Nợ gốc: 24. 842.407.019 đồng (Bằng chữ: Hai mươi bốn tỷ, tám trăm bốn
mươi hai triệu, bốn trăm lẻ bảy nghìn, không trăm mười chín đồng).
Nợ lãi: 3.245.167.032 đồng. (Bằng chữ: Ba tỷ, hai trăm bốn mươi lăm triệu,
một trăm sáu mươi bảy nghìn, không trăm ba mươi hai đồng).
2. Kể từ ngày 25/01/2022 ông Triệu Thế A còn phải chịu khoản tiền lãi của số
tiền nợ gốc chưa thanh toán theo mức lãi suất quy định tại Điều 357 Bộ luật dân sự
năm 2015 cho đến khi thanh toán xong khoản nợ gốc.
3. Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Công ty Trách nhiệm hữu hạn G
buộc ông Triệu Thế A thanh toán tiền phạt vi phạm 1.987.392.562 đồng.
Ngoài ra, Bản án sơ thẩm còn tuyên về án phí, quyền yêu cầu thi hành án và
quyền kháng cáo của các đương sự theo quy định của pháp luật.
Ngày 09 tháng 02 năm 2022, ông Triệu Thế A - Chủ hộ kinh doanh T kháng
cáo yêu cầu xem xét việc cấn trừ chiết khấu thương mại theo thỏa thuận hợp đồng
và thông lệ hợp tác giữa nguyên đơn và bị đơn vào số tiền nợ gốc, đưa các đại lý
cấp 2 của bị đơn tham gia vụ án với tư cách người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan
và bị đơn được quyền phản tố yêu cầu nguyên đơn bồi thường thiệt hại do vi phạm
nghĩa vụ giao hàng và đơn phương chấm dứt hợp đồng không có căn cứ.
4
Ngày 11 tháng 02 năm 2022, Công ty Trách nhiệm hữu hạn G kháng cáo
yêu cầu sửa một phần bản án sơ thẩm, chấp nhận yêu cầu khởi kiện của công ty
buộc ông Triệu Thế A – Chủ hộ kinh doanh T phải thanh toán tiền phạt vi phạm là
1.987.392.562 đồng. Đồng thời kiến nghị chuyển hồ sơ vụ án cho Cơ quan cảnh sát
điều tra cấp có thẩm quyền để yêu cầu làm rõ về hành vi phạm tội “Lạm dụng tín
nhiệm chiếm đoạt tài sản”, “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” của ông Triệu Thế A.
Xem xét áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời phong tỏa các tài sản là quyền sử
dụng đất của ông Triệu Thế A theo công văn số 376/CNVPĐKĐĐTPBL ngày
09/11/2021 của Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai Thành phố B.
Ngày 05 tháng 5 năm 2022, Công ty Trách nhiệm hữu hạn G rút lại yêu cầu
kháng cáo xem xét áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời “phong tỏa các tài sản” là
quyền sử dụng đất của ông Triệu Thế A và yêu cầu chuyển hồ sơ vụ án sang Cơ
quan cảnh sát điều tra cấp có thẩm quyền để yêu cầu làm rõ về hành vi phạm tội
“Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản” và “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”.
Tại phiên tòa phúc thẩm, người đại diện của Công ty Trách nhiệm hữu hạn
G vẫn giữ nguyên yêu cầu rút lại một phần yêu cầu kháng cáo nêu trên.
Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị đơn trình bày: Theo quy
định tại điều 3.1 của hợp đồng về điều khoản và điều kiện thanh toán thì ông Triệu
Thế A đã vi phạm nghĩa vụ thanh toán. Tòa án cấp sơ thẩm không chấp nhận yêu
cầu phạt vi phạm là không đúng. Tại điều 9.2 của Hợp đồng có ghi nếu vi phạm
hợp đồng thì phải chịu phạt vi phạm, điều này phù hợp với Luật Thương mại và
phù hợp với Án lệ số 09, cụ thể là phải chịu tiền lãi và phạt hợp đồng. Án sơ thẩm
nhận định Công ty Grobest đã chấp nhận cho ông Triệu Thế A nhiều lần thanh toán
chậm nên không có việc vi phạm là nhận định không khách quan. Do đó, đề nghị
Hội đồng xét xử chấp nhận kháng cáo của công ty Grobest, buộc ông Triệu Thế A
thanh toán tiền phạt vi phạm hợp đồng 1.987.392.562 đồng.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bạc Liêu phát biểu ý kiến:
Về thủ tục tố tụng: Thông qua kiểm sát việc giải quyết vụ án từ khi thụ lý vụ
án đến trước khi Hội đồng xét xử vào phòng nghị án, Thẩm phán, Hội đồng xét xử,
Thư ký và các đương sự đã chấp hành đúng quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự.
Về nội dung: Đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ khoản 1 Điều 308 của Bộ luật
Tố tụng dân sự năm 2015, giữ nguyên bản án kinh doanh thương mại sơ thẩm số
01/2022/KDTM-ST ngày 25 tháng 01 năm 2022 của Tòa án nhân dân Thành phố
B, tỉnh Bạc Liêu.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
[1] Sau khi nghiên cứu toàn bộ các tài liệu chứng cứ có lưu trong hồ sơ vụ
án đã được thẩm tra tại phiên tòa, nghe ý kiến tranh luận của các đương sự và ý
kiến phát biểu của đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bạc Liêu, sau khi thảo
luận, nghị án, Hội đồng xét xử nhận định:
5
[2] Xét đơn kháng cáo của Công ty Trách nhiệm hữu hạn G và ông Triệu
Thế A nộp trong hạn luật định và nộp tiền tạm ứng án phí phúc thẩm đúng quy
định. Căn cứ vào Điều 273 và Điều 276 của Bộ luật Tố tụng dân sự, được chấp
nhận xét xử theo thủ tục phúc thẩm.
[3] Xét kháng cáo của các đương sự, xét thấy:
[3.1] Các đương sự thống nhất giữa ông Triệu Thế A và Công ty Trách
nhiệm hữu hạn G đã ký kết hợp đồng phân phối thức ăn tôm số 01 GR, LD, VI,
BE-GLF/BAL 2020, Hợp đồng phân phối sản phẩm lặp lại và sửa đổi số
10015802-LF/BAL 1_01.2021 ngày 01/11/2020 cùng các phụ lục đính kèm. Nội
dung thỏa thuận thể hiện Công ty đồng ý giao cho ông Triệu Thế A làm nhà phân
phối cấp I để phân phối sản phẩm thức ăn tôm nhãn hiệu Grobest Group No.0,
Grobest Group No.1S, Vannamei No.0, Vannamei No.1S, Leader Vanamei, Vista
Eco, The Best, Vista Sú, Grobest của G. Theo bảng đối chiếu công nợ từ ngày
01/3/2021 đến ngày 31/3/2021, ông Thế A xác nhận khoản nợ đối với Công ty là
24.842.407.019 đồng. Tuy nhiên, từ khi đối chiếu công nợ đến khi phát sinh tranh
chấp, ông Triệu Thế A chưa thanh toán tiền hàng cho Công ty Trách nhiệm hữu
hạn G, do đó Tòa án cấp sơ thẩm chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn buộc ông
Triệu Thế A phải thanh toán nợ gốc 24.842.407.019 đồng và tiền lãi chậm thanh
toán từ ngày 01/4/2021 đến ngày xét xử sơ thẩm 3.245.167.032 đồng là có căn cứ.
[3.2] Xét kháng cáo của Công ty Trách nhiệm hữu hạn G yêu cầu ông Triệu
Thế A có nghĩa vụ thanh toán tiền phạt vi phạm với số tiền 1.987.392.562 đồng.
Công ty Trách nhiệm hữu hạn G xác định phía ông Thế A chỉ vi phạm nghĩa vụ
chậm trả tiền mua hàng và không còn vi phạm nào khác đối với hợp đồng đã ký
kết. Hội đồng xét xử xét thấy, theo quy định tại khoản 3.1 Điều 3 của Hợp đồng và
Điều 1 của Phụ lục 4 “Bên B sẽ thanh toán toàn bộ cho sản phẩm theo mỗi đơn đặt
hàng ngay trước khi sản phẩm được giao”. Mặc dù giữa Công ty và ông Triệu Thế
A thỏa thuận ông Triệu Thế A sẽ thanh toán tiền hàng cho Công ty theo mỗi đơn
đặt hàng ngay trước khi sản phẩm được giao. Tuy nhiên, nhiều lần Công ty giao
hàng cho ông Triệu Thế A, ông Anh không thanh toán tiền hàng đúng thời gian
thỏa thuận nhưng Công ty vẫn tiếp tục giao hàng cho ông Anh. Đến ngày
31/3/2021, hai bên mới tiến hành đối chiếu công nợ đều xác định không có việc
phạt vi phạm. Ngoài ra, theo khoản 3.4 Điều 3 của Hợp đồng phân phối sản phẩm
lặp lại và sửa đổi hai bên thống nhất “Nếu quá thời hạn thanh toán quy định mà
Bên B vẫn chưa thanh toán đầy đủ cho Bên A thì Bên B có nghĩa vụ thanh toán cho
Bên A tiền lãi chậm thanh toán theo mức lãi suất nợ quá hạn do Ngân hàng
Thương mại cổ phần Ngoại thương Việt Nam tại trụ sở chính của Bên A được công
bố tại thời điểm thanh toán”. Thỏa thuận này phù hợp quy định tại Điều 306 Luật
Thương mại, vì vậy việc thỏa thuận của các bên phù hợp quy định pháp luật. Do
đó, việc Công ty cho rằng ông Triệu Thế A vi phạm thời hạn thanh toán tiền hàng
quy định trong hợp đồng nên phải chịu phạt vi phạm là chưa có cơ sở chấp nhận.
[3.3] Xét kháng cáo của ông Triệu Thế A yêu cầu đối trừ tiền chiết khấu,
Hội đồng xét xử xét thấy khi ông Triệu Thế A ký xác nhận đối chiếu công nợ với

6
Công ty, ông Anh đã xác nhận dư nợ là 24.842.407.019, không có ý kiến nào thể
hiện số dư nợ này chưa đối trừ tiền chiết khấu. Ngoài ra, ông Triệu Thế A kháng
cáo yêu cầu đưa các đại lý cấp 2 của Hộ kinh doanh T tham gia tố tụng với tư cách
người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan. Xét thấy, thỏa thuận theo hợp đồng giữa
ông Triệu Thế A và Công ty không có điều khoản nào thể hiện Công ty không
được phân phối hàng hóa cho đại lý cấp 2 của Hộ kinh doanh T. Hơn nữa, theo quy
định tại Điều 200 của Bộ luật Tố tụng dân sự, yêu cầu của ông Triệu Thế A phải
đưa ra trước thời điểm mở phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai
chứng cứ và hòa giải. Quá trình giải quyết vụ án, ông Triệu Thế A không có đơn
yêu cầu phản tố yêu cầu đối trừ tiền chiết khấu cũng như yêu cầu Công ty bồi
thường thiệt hại do vi phạm nghĩa vụ giao hàng và đơn phương chấm dứt hợp đồng
không có căn cứ, ông Triệu Thế A cũng không cung cấp thêm tài liệu, chứng cứ
chứng minh. Do đó, Tòa cấp phúc thẩm không có căn cứ để xem xét yêu cầu của
ông Triệu Thế A ở nội dung này.
[4] Từ những phân tích nêu trên, không có căn cứ chấp nhận kháng cáo của
Công ty Trách nhiệm hữu hạn G và của ông Triệu Thế A – Chủ hộ kinh doanh T;
chấp nhận đề nghị của Kiểm sát viên, giữ nguyên bản án kinh doanh thương mại sơ
thẩm số 01/2022/KDTM-ST ngày 25 tháng 01 năm 2022 của Tòa án nhân dân
Thành phố B.
[5] Các phần khác của bản án sơ thẩm không bị kháng cáo, kháng nghị đã có
hiệu lực pháp luật, được giữ nguyên.
[6] Về án phí kinh doanh thương mại phúc thẩm: Công ty Trách nhiệm hữu
hạn G và ông Triệu Thế A – Chủ hộ kinh doanh T phải chịu theo quy định của
pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ khoản 1 Điều 308 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.
Không chấp nhận kháng cáo của Công ty Trách nhiệm hữu hạn G và kháng
cáo của ông Triệu Thế A. Giữ nguyên Bản án kinh doanh thương mại sơ thẩm số
01/2022/KDTM-ST ngày 25 tháng 01 năm 2022 của Tòa án nhân dân Thành phố
B, tỉnh Bạc Liêu.
Căn cứ khoản 1 Điều 30; khoản 1 Điều 35; khoản 1 Điều 39 Bộ luật Tố tụng
dân sự năm 2015; Điều 357 Bộ luật Dân sự năm 2015; Điều 50, Điều 300, Điều
301, Điều 306 Luật thương mại; Khoản 4 Điều 26 Nghị quyết số
326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu,
nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Tuyên xử:
1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Công ty Trách nhiệm hữu hạn G đối với
ông Triệu Thế A – Chủ hộ kinh doanh T. Buộc ông Triệu Thế A có nghĩa vụ
thanh toán cho Công ty Trách nhiệm hữu hạn G số tiền mua hàng hóa còn nợ

7
theo hợp đồng phân phối thức ăn tôm số 01 GR, LD, VI, BE-GLF/BAL 2020, Hợp
đồng phân phối sản phẩm lặp lại và sửa đổi số 10015802-LF/BAL 1_01.2021
ngày 01/11/2020 cùng các phụ lục đính kèm tổng cộng là 28.087.574.050 đồng
(Bằng chữ: Hai mươi tám tỷ, không trăm tám mươi bảy triệu, năm trăm bảy mươi
bốn nghìn, không trăm năm mươi đồng) bao gồm các khoản sau: Nợ gốc: 24.
842.407.019 đồng (Bằng chữ: Hai mươi bốn tỷ, tám trăm bốn mươi hai triệu, bốn
trăm lẻ bảy nghìn, không trăm mười chín đồng). Nợ lãi: 3.245.167.032 đồng.
(Bằng chữ: Ba tỷ, hai trăm bốn mươi lăm triệu, một trăm sáu mươi bảy nghìn,
không trăm ba mươi hai đồng) và tiền phạt vi phạm 1.987.392.562 đồng (Một
tỷ, chín trăm tám mươi bảy triệu, ba trăm chín mươi hai nghìn, năm trăm sáu mươi
hai đồng).
2. Kể từ ngày 25 tháng 01 năm 2022, ông Triệu Thế A còn phải chịu khoản
tiền lãi của số tiền nợ gốc chưa thanh toán theo mức lãi suất quy định tại Điều 357
Bộ luật dân sự năm 2015 cho đến khi thanh toán xong khoản nợ gốc.
3. Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Công ty Trách nhiệm hữu hạn G
buộc ông Triệu Thế A thanh toán tiền phạt vi phạm 1.987.392.562 đồng.
4. Đình chỉ xét xử phúc thẩm đối với kháng cáo của Công ty Trách nhiệm
hữu hạn G về yêu cầu xem xét áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời “phong tỏa
các tài sản” là quyền sử dụng đất của ông Triệu Thế A và yêu cầu chuyển hồ sơ vụ
án sang Cơ quan cảnh sát điều tra cấp có thẩm quyền để yêu cầu làm rõ về hành vi
phạm tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản” và “Lừa đảo chiếm đoạt tài
sản”, do Công ty Trách nhiệm hữu hạn G rút kháng cáo.
5. Về án phí:
5.1 Án phí kinh doanh thương mại sơ thẩm: Công ty Trách nhiệm hữu hạn G
phải chịu số tiền 71.621.776 đồng (Bảy mươi mốt triệu, sáu trăm hai mươi mốt
nghìn, bảy trăm bảy mươi sáu đồng). Công ty Trách nhiệm hữu hạn G đã nộp
67.742.000 đồng (Sáu mươi bảy triệu, bảy trăm bốn mươi hai nghìn đồng) tiền tạm
ứng án phí tại biên lai thu số 0006940 ngày 05 tháng 7 năm 2021 tại Chi cục Thi
hành án dân sự Thành phố B, nay Công ty Trách nhiệm hữu hạn G phải nộp thêm
số tiền 3.879.776 đồng (Ba triệu, tám trăm bảy mươi chín nghìn, bảy trăm bảy
mươi sáu đồng) tại Chi cục thi hành án dân sự Thành phố B, tỉnh Bạc Liêu.
Ông Triệu Thế A – Chủ hộ kinh doanh T phải chịu số tiền 136.087.574 đồng
(Một trăm ba mươi sáu triệu, không trăm tám mươi bảy nghìn, năm trăm bảy mươi
bốn đồng), nộp tại Chi cục thi hành án dân sự Thành phố B, tỉnh Bạc Liêu.
5.2. Án phí kinh doanh thương mại phúc thẩm:
Công ty Trách nhiệm hữu hạn G phải chịu 2.000.000 đồng (Hai triệu đồng).
Công ty đã nộp tạm ứng 2.000.000 đồng (Hai triệu đồng) theo Biên lai thu tạm
ứng số 0007341 ngày 15/02/2022 của Chi cục Thi hành án dân sự Thành phố B
được chuyển thu.
8
Ông Triệu Thế A – chủ hộ kinh doanh T phải chịu 2.000.000 đồng (Hai triệu
đồng). Ông Triệu Thế A đã nộp tạm ứng 2.000.000 đồng (Hai triệu đồng) theo
Biên lai thu tạm ứng số 0007317 ngày 14/02/2022 của Chi cục Thi hành án dân sự
Thành phố B được chuyển thu.
6. Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành
án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có
quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án
hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 9 Luật Thi hành
án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi
hành án dân sự.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Nơi nhận: TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM
- TANDCC tại TP. Hồ Chí Minh; THẨM PHÁN – CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
- VKSND tỉnh Bạc Liêu;
- TAND Thành phố B;
- CCTHADS Thành phố B;
- Đương sự;
- Lưu, Tổ HCTP.
Nguyễn Lệ Kiều
Tải về
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án/ Quyết định cùng đối tượng
1
Ban hành: 28/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
2
Bản án số 82/2024/KDTM-ST ngày 10/09/2024 của TAND Q. Đống Đa, TP. Hà Nội về tranh chấp về phân phối
Ban hành: 10/09/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
3
Ban hành: 27/08/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
4
Ban hành: 29/07/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
5
Ban hành: 02/07/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
6
Ban hành: 20/09/2023
Cấp xét xử: Phúc thẩm
7
Ban hành: 11/08/2023
Cấp xét xử: Phúc thẩm
8
Ban hành: 24/07/2023
Cấp xét xử: Phúc thẩm
9
Ban hành: 24/07/2023
Cấp xét xử: Phúc thẩm
10
Ban hành: 19/06/2023
Cấp xét xử: Phúc thẩm
11
Ban hành: 30/03/2023
Cấp xét xử: Phúc thẩm
12
Ban hành: 23/03/2023
Cấp xét xử: Phúc thẩm
13
Ban hành: 29/09/2022
Cấp xét xử: Phúc thẩm
14
Ban hành: 29/09/2022
Cấp xét xử: Phúc thẩm
15
Bản án số 03/2022/ ngày 15/08/2022 của TAND TP. Ninh Bình, tỉnh Ninh Bình về tranh chấp về phân phối
Ban hành: 15/08/2022
Cấp xét xử: Phúc thẩm
16
Ban hành: 15/08/2022
Cấp xét xử: Phúc thẩm
17
Ban hành: 26/07/2022
Cấp xét xử: Phúc thẩm
18
Ban hành: 24/05/2022
Cấp xét xử: Phúc thẩm
19
Ban hành: 19/04/2022
Cấp xét xử: Phúc thẩm