Bản án số 13/2023/KDTM-PT ngày 24/07/2023 của TAND TP. Đà Nẵng về tranh chấp về phân phối

  • Thuộc tính
  • Nội dung
  • VB gốc
  • VB liên quan
  • Lược đồ
  • Đính chính
  • Án lệ
  • BA/QĐ cùng nội dung
  • Tải về
Tải văn bản
Báo lỗi
  • Gửi liên kết tới Email
  • Chia sẻ:
  • Chế độ xem: Sáng | Tối
  • Thay đổi cỡ chữ:
    17

Thuộc tính Bản án 13/2023/KDTM-PT

Tên Bản án: Bản án số 13/2023/KDTM-PT ngày 24/07/2023 của TAND TP. Đà Nẵng về tranh chấp về phân phối
Quan hệ pháp luật: Tranh chấp về phân phối
Cấp xét xử: Phúc thẩm
Tòa án xét xử: TAND TP. Đà Nẵng
Số hiệu: 13/2023/KDTM-PT
Loại văn bản: Bản án
Ngày ban hành: 24/07/2023
Lĩnh vực: Kinh doanh thương mại
Áp dụng án lệ:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Đính chính:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Thông tin về vụ/việc: nghị Tòa án giải quyết buộc Công ty TNHH G trao toàn bộ quyền phân phối độc quyền 127 căn nhà của Dự án B cho Công ty TNHH Đầu tư H để Công ty TNHH Đầu tư H phân phối trong thời hạn 01 năm kể từ ngày Dự án B đủ điều kiện để bán theo quy định pháp luật.
Tóm tắt Bản án

Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!

Tải văn bản

1
TÒA ÁN NHÂN DÂN CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG Độc lập - Tự do - Hạnh Phúc
Bản án số: 13/2023/KDTM-PT
Ngày 30 62023
V/v “Tranh chấp hợp đồng hợp tác đầu tư”
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG
Thành phần Hội đồng xét xPhúc thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa: Ông Lê Tự Sinh
Các Thẩm phán: Ông Cao Văn Hiếu
Bà Trần Thị Thanh Mai
Thư ký phiên tòa: Bà Ngô Thị Kiều Trang - Thư ký Tòa án nhân dân thành
phố Đà Nẵng.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Đà Nẵng tham gia phiên tòa:
Ông Trần Quang Nớp - Kiểm sát viên.
Ngày 30-6-2023, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Đà Nẵng, xét xử Phúc
thẩm công khai vụ án kinh doanh thương mại thụ số 02/2023/TLPT-KDTM ngày
21-02-2023 về việc “Tranh chấp hợp đồng hợp tác đầu tư”.
Do Bản án kinh doanh thương mại thẩm số 01/2023/KDTM-ST ngày 10-
01-2023 của Tòa án nhân dân quận Thanh Khê, thành phố Đà Nẵng bị kháng cáo.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử Phúc thẩm số 60/2023/QĐ-PT ngày 21-
4-2023; Quyết định hoãn phiên toà Phúc thẩm số 93/2023/TLPT-DS ngày 19-6-
2023; giữa các đương sự:
* Nguyên đơn: Công ty TNHH Đầu tư H
Địa chỉ trụ sở: Toà nhà Bxx B, số 1xx đường K, phường C, quận D, thành
phố Đà Nẵng. Địa chỉ liên hệ: Tầng x, tn2xx đường T, phường E, quận F,
thành phố Đà Nẵng.
Người đại diện theo pháp luật: Ông Trần Văn P, chức danh: Chủ tịch HĐTV
và ông Nguyễn Ngọc Đ, chức danh: Giám đốc.
Người đại diện theo uỷ quyền: Ông Nguyễn Hải A; CCCD số 001076026xxx
do Cục CS QLHC về TTXH cấp ngày 07/01/2020 (theo Giấy ủy quyền ngày
18/5/2023);
* Bị đơn: Công ty TNHH G
2
Địa chỉ trụ sở: 1xx đường K, phường C, quận D, thành phố Đà Nẵng. Địa
chỉ liên hệ: Số 3x đường I, phường N, quận F, thành phố Đà Nẵng.
Người đại diện theo pháp luật: Ông Trần Minh H1- chức danh: Giám đốc;
* Người kháng cáo: Công ty TNHH Đầu tư H là nguyên đơn.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Tại đơn khởi kiện, trong quá trình giải quyết vụ án tại cấp thẩm tại
phiên tòa phúc thẩm, đại diện nguyên đơn Công ty TNHH Đầu tư H trình bày:
Dự án B do Công ty TNHH G (gọi tắt là Công ty G) làm chủ đầu tư từ năm
2016, đã được Uỷ ban nhân dân thành phố Đà Nẵng chấp thuận chủ trương đầu tư
dự án Khu nhà G vào ngày 03/02/2017 tại văn bản số X/UBND-SXD. Đến đầu
năm 2018, khi dự án đang được xây dựng dở dang tCông ty G không bố trí được
nguồn tài chính để tiếp tục thực hiện. Cụ thể, tại thời điểm đó, dự án thiếu nguồn
kinh phí để tiếp tục xây dựng Khu C, hoàn thiện các khu nhà đang xây thô chưa
xong, thanh toán các khoản nợ với nthầu làm nghĩa vụ tài chính với N
nước. Tính đến tháng 12/2017, tổng số công nợ cần phải chi trả của dự án lên tới
200 tỷ đồng. Ngày 10/01/2018, Công ty G và Công ty TNHH Đầu tư H (gọi tắt
Công ty H) đã ký kết Hợp đồng Hợp tác đầu tư số X/2018/HĐHT với mong muốn
Công ty H thu xếp nguồn vốn thực hiện các công việc nêu trên. Đổi lại, Công ty G
trao quyền phân phối các sản phẩm thuộc dự án cho Công ty H với các điều kiện,
điều khoản của Hợp đồng số X/2018/HĐHT nêu trên để thu hồi vốn.
Tại các điều 1, 3 và 6 của Hợp đồng sX/2018/HTÐT ngày 10/01/2018, hai
bên thỏa thuận:
- Công ty H cam kết huy động 200 tđồng trước ngày 31/5/2018 để Công
ty G sử dụng cho Dự án; Ðổi lại Công ty G ủy quyền cho phép Công ty H sử
dụng quyền sử dụng đất, giá trị xây dựng dở dang quyền sở hữu dự án B để làm
căn cứ mời hợp tác đầu tư dưới hình thức huy động vốn bên thứ ba theo nội dung
Điều 3; Điều 4 Hợp đồng này;
- Khi Công ty H thực hiện đúng điểm 1.3 và các nội dung khác có liên quan
đến điểm 1.3 quy định tại Hợp đồng này, Công ty G trao độc quyền phân phối Dự
án và độc quyền mời hợp tác đầu tư với bên thứ ba cho Công ty H;
- Công ty H cam kết huy động 200 tđồng trước ngày 31/5/2018 để Công
ty G sử dụng vào việc hoàn thiện Dự án, chi trả công nợ và thanh toán toàn bộ các
nghĩa vụ tài chính với Nhà nước liên quan đến Dự án;
- Sau khi Công ty H chuyển đủ cho Công ty G số tiền 200 tỷ đồng theo quy
định tại điểm 3.1 Hợp đồng này, mọi giao dịch giữa Công ty H với bên thứ ba liên
quan đến việc mời gọi hợp tác đầu dưới hình thức góp vốn hay bán sản phẩm
(nếu đủ điều kiện) sẽ do Công ty H quyết định dựa trên nguyên tắc quy định của
Hợp đồng này;
3
Theo tinh thần thỏa thuận như đã trích dẫn ở trên, có thể hiểu Hợp đồng số
X/2018/HĐHT dạng hợp đồng song vụ, tức là, Công ty H phải huy động vốn
được 200 tỷ trước ngày 31/5/2018 đCông ty G sdụng phục vụ phát triển
hoàn thiện dự án; đổi lại, Công ty H được trao quyền độc quyền phân phối dự án
và độc quyền mời hợp tác với bên thứ ba để thu hồi vốn và có lãi.
Trong quá trình thực hiện Hợp đồng, do tình hình thực tế nên các bên đã có
các văn bản gia hạn thêm thời gian chuyển giao số tiền 200 tỷ (Biên bản làm việc
số 3/2018 ngày 26/5/2018, Biên bản làm việc số 4/2018 ngày 05/7/2018, Biên bản
làm việc số 5/2018 ngày 29/11/2018, Công văn số 25/CV-HVP2018 ngày
31/12/2018 của Công ty H Công văn số 02/CV ngày 07/01/2019 của ng ty
G). Đến ngày 17/11/2018, khi Công ty H huy động được đến 238 tỷ đồng, sẵn sàng
chuyển giao 200 tỷ cho Công ty G thì Công ty G văn bản đề nghị Công ty H giữ
lại, chưa chuyển giao.
Trên sở các hợp đồng đã ký, Công ty H đã tự sử dụng nguồn vốn tự có,
kết hợp với huy động vốn từ bên thứ 3 thông qua hình thức hợp đồng góp vốn
để tiền chuyển cho Công ty G tiếp tục thi công dự án. Tuy nhiên, do dự án thi
công chậm tiến độ nên Công ty G chưa cần thanh toán cho nhà thầu thi công, nên
cũng chưa thông báo cho Công ty H chuyển tiền cho Công ty G một số yếu
tố khách quan khác. Thời gian chuyển đủ số tiền 200 tỷ đồng được gia hạn đến
ngày 18/3/2019 và điều này đã được sự thống nhất của hai bên, cụ thể tại các văn
bản sau: Biên bản làm việc số 02/2018 ngày 17/4/2018; Biên bản làm việc số
03/2018 ngày 26/5/2018; Biên bản làm việc số 05/2018 ngày 29/11/2018; Công
văn số 24/CV ngày 7/12/2018; Công văn số 02/CV ngày 7/01/2019.
Như vậy, thời điểm ngày 18/3/2019 là ngày mà Công ty H đã chuyển đủ số
tiền theo hợp đồng trên cơ sở sự thống nhất của hai bên, do đó Công ty H đã hoàn
thành nghĩa vụ về phần mình, cho nên Công ty G phải trao độc quyền phân phối
Dự án cho Công ty H như là phần nghĩa vụ đối ứng.
Do trong quá trình thực hiện hợp đồng, Công ty G và Công ty H ký Phụ lục
số 03/PLHĐBT ngày 17/11/2018, gia hạn hiệu lực Hợp đồng đến ngày 15/5/2019
vẫn giữ nguyên giá phân phối độc quyền. Đồng thời, Công ty H cam kết chuyển
cho Công ty G đủ số tiền đến 490 tỷ đồng trước ngày 15/8/2019, tức phải chuyển
thêm 290 tỷ đồng nữa. Nếu sau ngày 15/8/2019, Công ty H không chuyn được số
tiền nêu trên, hai bên chốt số sản phẩm còn lại, chưa Hợp đồng góp vốn với bên
thứ ba:
- Những sản phẩm nào đã Hợp đồng góp vốn thì hai bên tiếp tục thực
hiện theo đúng cam kết giữa Công ty H và bên thứ ba;
- Những sản phẩm nào chưa Hợp đồng với bên thứ ba thì Công ty G
quyền điều chỉnh giá, với hàm ý là Công ty H vẫn được quyền phân phối với mức
giá mới do Công ty G quyết định.
Ngày 09/8/2019, Công ty G công văn số 30/CV-PGC căn cứ Hợp đồng
bao tiêu đyêu cầu Công ty H chuyển stiền 9.000.000.000 đồng Công ty H đã
4
đáp ứng. Tiếp đến, ngày 15/8/2019 Công ty G công văn số 32/CV-PGC yêu cầu
Công ty H chuyển số tiền 270 tỷ không nêu do. Tuy nhiên, nhận thấy tình
hình phát sinh nhiều rủi ro lúc này dự án đang bị quan Cảnh sát điều tra Bộ
Công an điều tra; số tiền thực hiện nghĩa vụ tài chính với Nhà nước ước tính quá
cao, nếu chuyển đủ 270 tỷ cho Công ty G bị sử dụng hết thì không còn nguồn
để thanh toán cho Nhà nước; không đảm bảo quyền lợi của người dân. Do đó, Công
ty H đã công văn số 34/2019/CV-HVP ngày 15/8/2019 đnói rõ quan điểm của
mình. Theo đó, Công ty H cho rằng “270 tỷ là số tiền góp vốn của các nhà đầu tư
vào từng căn hộ thuộc Dự án B. Với mức gđất của Dự án theo Quyết định số
3387/QĐ-UBND ngày 02/8/2019, theo ước tính của ng ty H, hầu hết số tiền nêu
trên, cộng với các khoản còn phải thu từ nhà đầu chỉ đủ để làm nghĩa vụ tài chính
cho Nhà nước hoàn tất các thủ tục pháp cho dự án. Do đó, chúng tôi không
thể tùy tiện chuyển số tiền nêu trên cho Quý Công ty G nếu không biết mục đích
sử dụng của nó”
Tuy nhiên, sau đó, Công ty G không hề văn bản giải thích mục đích sử
dụng số tiền 270 tỷ chỉ liên tục thúc ép Công ty H phải chuyển tiền. Do đó,
Công ty H từ chối yêu cầu của ng ty G, mặc dù toàn bộ số tiền 270 tỷ vẫn được
Công ty H chuẩn bị sẵn sàng.
Từ trước đến nay, Công ty H đã kêu gọi hợp tác đầu tư với hơn 100 bên thứ
ba. Tuy nhiên, ý kiến cho rằng với do việc kêu gọi góp vốn nêu trên
hiệu do được thực hiện khi Chủ đầu thiếu Thông báo đủ điều kiện được góp
vốn của Sở Xây dựng” và chưa được Ngân hàng thương mại có đủ năng lực bảo
lãnh tài chính”. Dự án cũng chưa đủ điều kiện để mở bán cũng hai do nêu
trên. Công ty H khẳng định rằng, nếu như bất cứ người góp vốn nào muốn tuyên
Hợp đồng góp vốn vô hiệu, ng ty H sẵn sàng trả lại tiền cho họ, nhận lại căn h
yêu cầu Tòa án xử hậu quả của Hợp đồng hiệu theo đúng quy định của
pháp luật. Trong mọi trường hợp, Công ty H vẫn đảm bảo thực hiện đúng nghĩa vụ
đóng góp đủ 200 tỷ cho Công ty G theo Hợp đồng số X/2018/HTÐT giữa các bên
đã ký kết để giữ quyền độc quyền phân phối sản phẩm của dự án.
Về cam kết chuyển đủ 490 tỷ trước ngày 15/8/2019, Công ty H khẳng định
đã, đang và sẽ thực hiện đúng quy định tại Phụ lục số 03/PLHĐBT ngày
17/11/2018. Theo đó, công ty H chấp nhận chưa chuyển cho Công ty G số tiền 270
tỷ đồng đbảo vệ quyền lợi của người dân/nhà đầu tư, đảm bảo việc thực hiện
nghiêm chỉnh nghĩa vụ đối với Nhà nước; chấp nhận trả cho Công ty G lãi suất quy
định tại điểm 1.2 Điều 1 và áp dụng chế tài tại điểm 1.3 Điều 1 Phụ lục Hợp đồng,
trừ trường hợp quý Tòa có phán quyết khác.
Để ràng hơn, theo tính toán của Công ty H, tổng số tiền mà Công ty G
ước tính phải nộp cho Nhà nước khoảng 450 tỷ đồng, gần như ngang bằng với số
tiền mà ng ty H n giữ (270 tỷ đồng) và số tiền còn phải thu của các Nhà đầu
tư khác (khoảng 200 tỷ đồng). Công ty H không phải giữ tiền để chiếm đoạt hoặc
sử dụng để bảo đảm việc thực hiện nghĩa vụ cho Nhà nước. Tuy nhiên, nếu q
5
Tòa hoặc bất cứ cơ quan có thẩm quyền nào có quyết định bằng văn bản, Công ty
H sẵn sàng chuyển ngay lập tức số tiền trên cho Công ty G. Khi đó, Công ty H
không chịu trách nhiệm nếu như Dự án không có nguồn kinh phí làm nghĩa vụ tài
chính với Nhà nước.
Ngày 23/11/2020, Công ty G Thông báo s66/TB-PGC chấm dứt Hợp
đồng hợp tác đầu tư số 1001 với Công ty G và có yêu cầu những người đã ký Hợp
đồng với Công ty H phải hủy hợp đồng với Công ty H để lại với Công ty G.
Công ty H thấy rằng:
- Phần nghĩa vụ của Công ty H đã được thực hiện một cách đầy đủ theo cam
kết. Do đó, quyền đối ứng - quyền phân phối độc quyền của Công ty H sphát sinh
để đảm bảo lợi ích cho Công ty H;
- Lỗi khiến cho việc Công ty H chưa thể thực hiện được quyền đối ứng hoàn
toàn thuộc về Chủ đầu tư. Do đó, Công ty G không thể nêu ra lý do Hợp đồng hết
hạn để tước đoạt quyền đối ứng của Công ty H trong một Hợp đồng song vụ;
- Công ty H chưa thực hiện cam kết chuyển đủ 490 tỷ cho Công ty G trước
ngày 15/8/2019 vì có do khách quan; hơn nữa, theo thỏa thuận của các bên, việc
vi phạm cam kết này không dẫn đến hậu quả áp dụng chế tài hủy bỏ/chấm dứt
hiệu lực Hợp đồng;
Công ty TNHH Đầu tư H khởi kiện đề nghị Tòa án giải quyết buộc Công ty
TNHH G trao toàn bộ quyền phân phối độc quyền 127 căn nhà của Dự án B cho
Công ty TNHH Đầu tư H để Công ty TNHH Đầu tư H phân phối trong thời hạn 01
năm kể từ ngày Dự án B đủ điều kiện để bán theo quy định pháp luật.
Đối với yêu cầu phản tố của Công ty TNHH G thì Công ty TNHH Đầu tư H
không đồng ý, cụ thể:
1) Hợp đồng số X/2018/HĐHT ngày 10/01/2018, Hợp đồng bao tiêu sản
phẩm s01/2018 HĐBT ngày 05/03/2018 các phụ lục kèm theo giữa Công ty
G và Công ty H chưa thể chấm dứt, bởi lẽ:
Hợp đồng số X/2018/HĐHT ngày 10/01/2018 một hợp đồng song vụ
trong đó nghĩa vụ của Công ty H là: Huy động đủ 200 tỷ đồng trước ngày
31/05/2018 để Công ty G sử dụng phục vụ phát triển hoàn thiện Dự án; nghĩa
vụ của ng ty G là: trao quyền độc quyền phân phối dự án độc quyền mời hợp
tác với bên thứ ba cho Công ty H để thu hồi vốn và có lãi.
Trong quá trình thực hiện Hợp đồng, giữa Công ty H Công ty G đã trao
đổi, thống nhất bằng các biên bản làm việc, công văn về việc gia hạn thời gian
chuyển giao và việc Công ty G đề nghị Công ty H giữ lại chưa chuyển giao số tiền
200 tỷ đồng. Về phía ng ty H, tính đến ngày 17/11/2018, đã huy động được 238
tỷ đồng để sẵn sàng chuyển giao cho Công ty G. Đến ngày 18/03/2019, Công ty H
thực tế đã chuyển giao đủ số tiền mà hai bên thống nhất. Như vậy, Công ty H đã
thực hiện đầy đủ nghĩa vụ huy động tài chính theo Hợp đồng. Do đó, Công ty G
phải trao độc quyền phân phối Dự án cho Công ty H nlà phần nghĩa vđối ứng.
Tuy nhiên Công ty G chưa thực hiện nghĩa vụ này đối với Công ty H mà đã chấm
6
dứt Hợp đồng như yêu cầu phản tố của bị đơn sẽ gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến
quyền và lợi ích hợp pháp của nguyên đơn.
2) Số tiền 270.000.000.000 đồng và tiền lãi 88.619.000.000 đồng Công
ty G yêu cầu Công ty H chuyển giao chưa phản ánh đúng nội dung thỏa thuận của
các bên trong Phụ lục số 03/PLHĐBT ngày 17/11/2018. Cụ thể:
2.1. Theo Phụ lục số 03/PLHĐBT ngày 17/11/2018, tại Điều 1.2, Công ty G
Công ty H đã thống nhất: Công ty H cam kết chuyển cho Công ty G 490 tỷ đồng
trước ngày 15/05/2019 (tức chuyển thêm 290 tỷ đồng). Quá ngày 15/05/2019,
nếu Công ty H chưa chuyển đủ số tiền nêu trên thì Công ty H phải chịu lãi suất,
tính theo ngày trên số tiền chậm trả với lãi suất cố định là 10% một năm nhưng
không quá ngày 15/08/2019. Quá thời hạn nêu trên, nếu ng ty H không thực hiện
đầy đủ, đúng quy định tại Điều 1.2 thì hai bên sẽ chốt số sản phẩm còn lại và chưa
tiếp Hợp đồng với bên thứ ba. Khi đó, những sản phẩm đã Hợp đồng góp
vốn thai bên tiếp tục thực hiện theo đúng cam kết giữa Công ty H bên thứ ba;
và những sản phẩm nào chưa ký Hợp đồng với bên thứ ba thì Công ty G có quyền
điều chỉnh giá (tức Công ty H vẫn sẽ tiếp tục được quyền phân phối với mức g
mới do Công ty G quyết định).
Như vậy, việc yêu cầu của Công ty G về việc đòi 88.619.000.000 đồng
không sở. Công ty H đồng ý thanh toán số tiền 7.048.219.178 đồng tương
ứng với 03 tháng tiền lãi dựa trên phát sinh công nợ còn lại theo đúng thỏa thuận
của các bên.
2.2. Về yêu cầu chuyển giao số tiền 270 tỷ đồng, ng ty H khẳng định hoàn
toàn không muốn giữ số tiền 270 tỷ đồng và rất muốn chuyển giao cho ng ty G.
Tuy nhiên, Công ty H cũng rất băn khoăn bởi lẽ đây là số tiền góp vốn của các nhà
đầu vào từng căn hộ thuộc Dự án B. Cho đến thời điểm hiện tại, ng ty G chưa
có bất kỳ đảm bảo nào về việc hoàn thiện thủ tục hồ pháp lý cũng như nghĩa vụ
tài chính để Dự án đủ điều kiện chào bán được cấp giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất cho nhà đầu tư. Một khi số tiền 270 tỷ được chuyển hết cho Công ty G
không được đảm bảo sử dụng đúng mc đích tquyền lợi ca toàn bộ hơn 100
nhà đầu tư sẽ bị ảnh hưởng nghiêm trọng. Do vậy, Công ty H đã gửi văn bản cho
Công ty G (Công văn số 34/2019/CV-HVP ngày 15/08/2019) để nêu lý do của
việc chưa chuyển số tiền 270 tỷ cho đến khi Công ty G có lời giải thích rõ ràng về
mục đích sử dụng số tiền này nhưng không được Công ty G hồi đáp.
Nếu Tòa án có phán quyết rằng Công ty H cần phải chuyển giao số tiền này
cho Công ty G thì Công ty H sẵn sàng thực hiện ngay lập tức.
Như vậy, có thể thấy ng ty H đã thực hiện đầy đủ phần nghĩa vụ theo như
cam kết tại Hợp đồng số X/2018/HĐHT ngày 10/01/2018 Phụ lục số
03/PLHĐBT ngày 17/11/2018. Công ty G nghĩa vụ trao quyền phân phối độc
quyền Dự án cho Công ty H nhưng Công ty G chưa thực hiện nghĩa vụ này. Việc
Công ty H chưa chuyển số tiền 270 tỷ cho Công ty G trước ngày 15/08/2019 có lý
do khách quan để bảo vệ quyền lợi của các nhà đầu tư. Ngoài ra, theo thỏa thuận
7
của các bên, việc Công ty H chưa chuyển giao số tiền nói trên cho Công ty G không
thể dẫn tới hậu quả là bị buộc phải chấm dứt Hợp đồng. Trái lại, theo quy định tại
Điều 7.1 của Hợp đồng X/2018/HĐHT, khi xét thấy Hợp đồng chưa hoàn tất
tiếp tục cần gia hạn thì hai bên sẽ xem xét, gia hạn Hợp đồng trên nguyên tắc đồng
thuận.
Trong quá trình giải quyết vụ án tại cấp thẩm tại phiên tòa Phúc
thẩm, đại diện bị đơn Công ty TNHH G trình bày:
Công ty TNHH G (gọi tắt Công ty G) chủ đầu Dự án B tại số 1xx
đường K, phường C, quận D, thành phố Đà Nẵng. Trong quá trình đầu xây dựng
dự án, do Công ty TNHH Đầu H (gọi tắt là Công ty H) muốn bao tiêu sản phẩm
của dự án này nên vào ngày 10/01/2018 ngày 05/3/2018, giữa Công ty G
Công ty H ký kết hợp đồng hợp tác đầu tư số X/2018/HTĐT và hợp đồng bao tiêu
sản phẩm s01/2018/HĐBT kèm theo các Phụ lục hợp đồng số 01/PLHĐBT,
01/PLHĐBT cùng ngày 05/3/2018. Theo nội dung của hợp đồng 02 phụ lục hợp
đồng kèm theo tCông ty H được bao tiêu 127 căn nhà thuộc Dự án B với tổng
giá trị là 706.161.772.833đ.
Đến ngày 17/11/2018, Công ty G và Công ty H tiếp tục ký kết Phụ lục hợp
đồng số 03/PLHĐBT. Theo đó, phía Công ty H phải chuyển đủ số tiền 490 tỷ cho
Công ty G trước ngày 15/5/2019; tuy nhiên Công ty G đã nhiều lần nhắc nhở, đôn
đốc nhưng Công ty H đưa ra nhiều do để thoái thác không chuyển đủ số tiền 490
tỷ như đã cam kết. Nhận thấy Công ty H vi phạm nghiêm trọng nội dung hợp đồng
đã kết nên ngày 23/11/2020, Công ty G đã gửi Thông báo số 66/TB-PGC v/v
đơn phương chấm dứt hợp đồng hợp tác đầu số X/2018/HTĐT ngày 10/01/2018
và hợp đồng bao tiêu sản phẩm số 01/2018/HĐBT ngày 05/3/2018 và các Phụ lục
kèm theo.
Do đó, việc Công ty H khởi kiện yêu cầu Công ty G trao toàn bộ quyền phân
phối độc quyền 127 căn nhà của Dự án B cho Công ty H để Công ty H phân phối
trong thời hạn 01 năm kể từ ngày Dự án G Compound đủ điều kiện để bán theo
quy định pháp luật trong khi Công ty H chưa thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ theo
quy định của hợp đồng là ảnh hưởng nghiêm trọng đến quyền và lợi ích hợp pháp
của Công ty G.
Công ty G vẫn giữ nguyên yêu cầu phản tố đề nghị Tòa án giải quyết:
- Tuyên bố Hợp đồng Hợp tác đầu số X/2018/HTĐT ngày 10.01.2018;
Hợp đồng bao tiêu sản phẩm số 01/2018/HĐBT ngày 05.3.2018 các phụ lục
kèm theo giữa Công ty TNHH G và Công ty TNHH Đầu tư H chấm dứt kể từ ngày
23.11.2020;
- Buộc Công ty TNHH Đầu H chuyển giao ngay cho Công ty TNHH G
số tiền 270.000.000.000 đồng Công ty TNHH Đầu H đang chiếm giữ và tiền
lãi tạm tính là 88.619.000.000đ.
8
Trong quá trình giải quyết vụ án, ngày 28.11.2022 bị đơn Công ty G có đơn
rút một phần yêu cầu phản tố, cụ thể rút yêu cầu phản tố đối với nội dung: “Tuyên
bố Hợp đồng Hợp tác đầu số X/2018/HTĐT ngày 10.01.2018; Hợp đồng bao
tiêu sản phẩm số 01/2018/HĐBT ngày 05.3.2018 các phụ lục kèm theo giữa
Công ty TNHH G và Công ty TNHH Đầu tư H chấm dứt kể từ ngày 23.11.2020”.
Chỉ yêu cầu Công ty TNHH Đầu tư H chuyển giao ngay cho Công ty TNHH G số
tiền 270.000.000.000đ Công ty TNHH Đầu H đang chiếm giữ tiền lãi tạm
tính là 88.619.000.000đ.
* Tại phiên tòa thẩm, đại diện Viện kiểm sát nhân dân quận Thanh Khê,
thành phố Đà Nẵng phát biểu ý kiến:
+ Thống nhất về việc tuân theo pháp luật của Thẩm phán và Hội đồng xét xử
cũng như việc chấp hành pháp luật của người tham gia tố tụng đã thực hiện theo
quy định của Bộ luật tố tụng dân sự.
+ Ý kiến về việc giải quyết vụ án: Đề nghị Hội đồng xét xử:
- Căn cứ các Điều 117, Điều 401, 403 Bộ luật dân sự để chấp nhận yêu cầu
khởi kiện của nguyên đơn, buộc bị đơn phải tiếp tục thực hiện Hợp đồng hợp tác
đầu tư số X/2018/HTĐT Hợp đồng bao tiêu sản phẩm số 01/2018/HĐBT
kèm theo các Phụ lục hợp đồng số 01/PLHĐBT, 02/PLHĐBT cùng ngày 05/3/2018
Phụ lục hợp đồng số 03/PLHĐBT ngày 17/11/2018. Theo đó Công ty H Công
ty G phải tuân thủ thực hiện đúng các điều khoản theo quy định của hợp đồng
các phụ lục hợp đồng kèm theo.
- Chấp nhận yêu cầu phản tố của bị đơn buộc nguyên đơn Công ty H phải
thanh toán cho bị đơn Công ty G số tiền gốc 270 tỷ đồng và tiền lãi phát sinh với
mức lãi suất 10%/năm tương đương số tiền 6.805.000.000đ.
- Buộc nguyên đơn Công ty H phải trả số tiền lãi chậm thanh toán kể từ ngày
16/8/2019 đến ngày xét xthẩm 10/01/2023 trên số tiền 270 tỷ đồng với mức
lãi suất nợ quá hạn trung bình trên thị trường bằng mức lãi suất nợ quá hạn trung
bình của ít nhất ba ngân hàng tại địa phương tại thời điểm xét xử thẩm ngày
10/01/2023. Nếu mức lãi suất trung bình của 03 ngân hàng cao hơn mức lãi suất
10% (mức lãi suất bị đơn yêu cầu) thì chấp nhận mức lãi suất của bị đơn yêu cầu.
Nếu thấp hơn mức lãi suất 10% thì chấp nhận một phần yêu cầu phản tố của bị đơn
theo mức lãi suất trung bình của 03 ngân hàng theo quy định tại Điều 306 Luật
Thương mại năm 2005.
- Đối với yêu cầu tiền lãi theo mức lãi suất không kỳ hạn 0,5%/năm của
nguyên đơn không phù hợp với thỏa thuận của các bên trong hợp đồng không
được bị đơn đồng ý nên không có cơ sở để chấp nhận.
* Tòa án nhân dân quận Thanh Khê, thành phố Đà Nng đã xét xử tại Bản án
dân sự sơ thẩm số 01/2023/KDTM-ST ngày 10-01-2023 như sau:
Căn cứ Điều 117, Điều 401, 403 Bộ luật Dân sự;
Căn cứ Điều 306 Luật Thương mại;
9
Căn cứ Điều 11 Nghị quyết số 01/2019/NQ-HĐTP ngày 11.01.2019 của Hội
đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao;
Căn cứ Án lệ số 09/2016/AL được Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối
cao thông qua ngày 17/10/2016
Căn cứ Nghị quyết quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử
dụng án phí và lệ phí Tòa án;
Tuyên xử:
1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện về việc “Tranh chấp hợp đồng hợp tác đầu
tư” của Công ty TNHH Đầu tư H đối với Công ty TNHH G.
1.1: Công ty TNHH Đầu H Công ty TNHH G tiếp tục thực hiện Hợp
đồng hợp tác đầu sX/2018/HTĐT ngày 10.01.2018; Hợp đồng bao tiêu sản
phẩm số 01/2018/HĐBT ngày 05.3.2018 kèm theo các Phụ lục hợp đồng số
01/PLHĐBT, 02/PLHĐBT cùng ngày 05.3.2018 Phụ lục hợp đồng s
03/PLHĐBT ngày 17.11.2018.
1.2: Công ty TNHH Đầu tư H được quyền phân phối 13 căn hộ tại Dự án B
trong tổng số 127 căn hộ (đã phân phối 114 căn hộ); giá trị các căn hộ phân phối
các bên phải tuân thủ các cam kết tại Điều 1 Phụ lục Hợp đồng số 03/PLHĐBT
ngày 17.11.2018 cũng như thực hiện đúng các điều khoản theo cam kết trong các
hợp đồng và các phụ lục hợp đồng kèm theo.
2. Chấp nhận yêu cầu phản tố của Công ty TNHH G về việc yêu cầu trả tiền
đối với Công ty TNHH Đầu tư H.
Buộc Công ty TNHH Đầu tư H phải chuyển trả số tiền 368.728.287.671đ (ba
trăm sáu mươi tám tỷ bảy trăm hai mươi tám triệu hai trăm tám mươi bảy ngàn sáu
trăm bảy mươi mốt đồng) cho Công ty TNHH G, trong đó 270.000.000.000đ (Hai
trăm bảy mươi tỷ đồng) tiền gốc 98.728.287.671đ (chín mươi tám tỷ bảy trăm
hai mươi tám triệu hai trămm mươi bảy ngàn sáu trăm bảy mươi mốt đồng) tiền
lãi.
Kể từ ngày đơn yêu cầu thi hành án, bên phải thi hành án còn phải chịu
tiền lãi theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 Bộ luật Dân sự tương ứng
thời gian và số tiền phải thi hành án.
3. Đình chỉ một phần yêu cầu phản tố của bị đơn đối với yêu cầu “Tuyên bố
Hợp đồng Hợp tác đầu số 1001/2018/HTĐT ngày 10.01.2018; Hợp đồng bao
tiêu sản phẩm số 01/2018/HĐBT ngày 05.3.2018 các phụ lục kèm theo giữa
Công ty TNHH G và Công ty TNHH Đầu tư H chấm dứt kể từ ngày 23.11.2020”.
4. Công ty TNHH G trách nhiệm làm các thủ tục theo quy định của Nhà
nước để được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài
sản khác gắn liền với đất cho Công ty TNHH Đầu tư H để hoàn thiện thủ tục pháp
lý về chủ quyền tài sản cho các khách hàng góp vốn tại Dự án B.
Ngoài ra, bản án sơ thẩm n quyết định về án phí kinh doanh thương mại sơ
thẩm, quyền kháng cáo bản án sơ thẩm và thi hành bản án có hiệu lực pháp luật.
10
* Ngày 16-01-2023, nguyên đơn Công ty TNHH Đầu tư H có Đơn kháng cáo
toàn bộ bản án sơ thẩm với nội dung:
- Trong quá trình tố tụng trước khi xét xtại phiên toà sơ thẩm, Công ty
TNHH Đầu H đã đơn đề nghị bổ sung 114 nhà đầu đã tham gia góp vốn
cùng với Công ty TNHH Đầu tư H để đầu tư vào dự án B vào tham gia tố tụng với
cách người quyền lợi, nghĩa vliên quan trong vụ án; Đề nghị tiến hành
xem xét thẩm định đối với 13 căn nhà số A1x, A3x, A3x, B1x, B2x, B3x, B3x,
B3x, B4x, B4x, C2x, C3x, C4x những căn Công ty TNHH G chuyển nhượng
hoặc giao cho chiếm giữ, hoàn thiện nội thất, quản sử dụng đưa 13 người
đang quản lý, sdụng những căn nnày vào tham gia tố tụng với cách người
quyền lợi, nghĩa vliên quan trong vụ án để đảm bảo quyền, lợi ích của họ,
nhưng Toà cấp sơ thẩm không chấp nhận vi phạm nghiêm trọng về thủ tục tố
tụng, làm ảnh hưởng trực tiếp tới quyền lợi của 114 nhà đầu nhà đầu 13
người đang chiếm hữu, sdụng 13 căn nhà nói trên cũng như quyền và lợi ích hợp
pháp của Công ty TNHH Đầu tư H.
- Bản án sơ thẩm đã không xác định cụ thể, ràng về thời hạn, cách thức,
phương án Công ty TNHH G phải thực hiện để bàn giao 13 căn nhà nói trên
cho Công ty TNHH Đầu tư H tiếp tục thực hiện quyền phân phối; Kng xác định
ràng trách nhiệm, thời hạn của Công ty TNHH G trong việc hoàn thành h
pháp lý Dự án, hoàn thành GCNQSD đất để trao trả lại cho các nhà đầu tư.
- Bản án sơ thẩm tuyên mức lãi suất quá cao, không phù hợp đối với số tiền
mà Công ty TNHH Đầu tư H chưa thanh toán cho Công ty TNHH G.
* Tại phiên tòa Phúc thẩm:
Đại diện hợp pháp của Công ty H giữ nguyên nội dung kháng cáo, đề nghị
HĐXX hủy bản án thẩm do vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng, làm ảnh
hưởng trực tiếp tới quyền lợi của 114 nhà đầu tư và 13 người chiếm hữu, sử dụng
13 căn nhà do Công ty G giao, cũng như quyền lợi ích hợp pháp của Công ty
TNHH Đầu tư H.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Đà Nẵng phát biểu ý kiến:
Vviệc tuân theo pháp luật của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên
tòa của người tham gia tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án ở giai đoạn phúc
thẩm là đảm bảo các quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự.
Về nội dung ván: Viện kiểm sát nhân dân thành phố Đà Nẵng đề nghị Hội
đồng xét xử phúc thẩm áp dụng khoản 2 Điều 308 Bộ luật Tố tụng dân sự; chấp
nhận một phần kháng cáo của Công ty TNHH Đầu H; Sửa bản án thẩm về
phần lãi suất từ ngày 16/8/2019 đến ngày xét xử sơ thẩm.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
[1] Về yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn Công ty TNHH Đầu tư H.
11
Công ty TNHH G (Công ty G) là chủ đầu Dán B tại phường C, quận D,
thành phố Đà Nẵng. Do thiếu kinh phí đtiếp tục xây dựng, hoàn thiện dự án
làm nghĩa vụ tài chính với Nhà nước. Ngày 10/01/2018, Công ty G và Công ty
TNHH Đầu tư H (Công ty H) đã kết Hợp đồng Hợp tác đầu số
1001/2018/HĐHT, theo đó Công ty H cam kết huy động 200 tỷ đồng trước ngày
31/5/2018 để Công ty G sử dụng cho Dự án; Ðổi lại Công ty G y quyền cho
phép Công ty H sử dụng quyền sử dụng đất, giá trị xây dựng dở dang và quyền sở
hữu dự án B để làm căn cứ mời hợp tác đầu dưới hình thức huy động vốn bên
thứ ba; Công ty G trao độc quyền phân phối Dự án và độc quyền mời hợp tác đầu
tư với bên thứ ba cho Công ty H. Ngoài ra, hai bên còn ký Hợp đồng bao tiêu sản
phẩm số 01/2018/HĐBT ngày 05/3/2018, các Phụ lục hợp đồng số 01/PLHĐBT,
01/PLHĐBT cùng ngày 05/3/2018. Công ty G giao cho Công ty H được bao tiêu
127 căn nhà thuộc Dự án B với tổng giá trị là 706.161.772.833đ. Trong quá trình
thực hiện hợp đồng hai bên lập nhiều Biên bản làm việc đến ngày 17/11/2018
tiếp tục kết Phụ lục hợp đồng số 03/PLHĐBT gia hạn hiệu lực Hợp đồng đến
ngày 15/5/2019, Công ty H cam kết chuyển cho Công ty G đủ số tiền đến 490 t
đồng trước ngày 15/8/2019, tức phải chuyển thêm 290 tỷ đồng nữa. Nếu sau
ngày 15/8/2019, Công ty H không chuyển được số tiền nêu trên, hai bên chốt số
sản phẩm còn lại, chưa ký Hợp đồng góp vốn với bên thứ ba: Những sản phẩm nào
đã Hợp đồng góp vốn thì hai bên tiếp tục thực hiện theo đúng cam kết giữa H
bên thứ ba; Những sản phẩm nào chưa Hợp đồng với bên thứ ba thì G
quyền điều chỉnh giá.
Công ty G cho rằng Công ty H vi phạm nghĩa vụ cơ bản của Hợp đồng, Ph
lục hợp đồng, nên ngày 23/11/2020 Công ty G Thông báo số 66/TB - PGC về
việc chấm dứt Hợp đồng hợp tác đầu s1001 với Công ty G và yêu cầu những
người đã Hợp đồng với Công ty H phải hủy hợp đồng với Công ty H để lại
với Công ty G.
Do đó, Công ty H đơn khởi kiện Công ty G yêu cầu Tòa án giải quyết:
buộc Công ty TNHH G trao toàn bộ quyền phân phối độc quyền 127 căn nhà của
Dự án B cho Công ty TNHH Đầu H để Công ty TNHH Đầu H phân phối
trong thời hạn 01 năm kể từ ngày Dự án B đủ điều kiện để bán theo quy định pháp
luật.
[2] Công ty G có yêu cầu phản tố, đề nghị:
Tuyên bố Hợp đồng Hợp tác đầu số X/2018/HTĐT ngày 10.01.2018; Hợp
đồng bao tiêu sản phẩm s01/2018/HĐBT ngày 05.3.2018 các phụ lục kèm
theo giữa Công ty TNHH G và Công ty TNHH Đầu H chấm dứt ktngày
23.11.2020; Buộc Công ty TNHH Đầu tư H chuyển giao ngay cho Công ty TNHH
G số tiền 270.000.000.000 đồng Công ty TNHH Đầu tư H đang chiếm giữ
tiền lãi tạm tính là 88.619.000.000đ.
Trong quá trình giải quyết vụ án, ngày 28.11.2022 Công ty G đơn rút một
phần yêu cầu phản tố đối với nội dung: Tuyên bố Hợp đồng Hợp tác đầu số
12
X/2018/HTĐT ngày 10.01.2018; Hợp đồng bao tiêu sản phẩm số 01/2018/HĐBT
ngày 05.3.2018 các phụ lục kèm theo giữa ng ty TNHH G và Công ty TNHH
Đầu tư H chấm dứt kể từ ngày 23.11.2020”.
Bản án kinh doanh thương mại sơ thẩm số 01/2023/KDTM-ST ngày 10-01-
2023 của Tòa án nhân dân quận Thanh Khê, thành phố Đà Nẵng đã quyết định:
1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện về việc “Tranh chấp hợp đồng hợp tác đầu
tư” của Công ty TNHH Đầu tư H đối với Công ty TNHH G.
1.1. Công ty TNHH Đầu tư H Công ty TNHH G tiếp tục thực hiện Hợp
đồng hợp tác đầu tư số 1001/2018/HTĐT ngày 10.01.2018; Hợp đồng bao tiêu sản
phẩm số 01/2018/HĐBT ngày 05.3.2018 kèm theo các Phụ lục hợp đồng số
01/PLHĐBT, 02/PLHĐBT cùng ngày 05.3.2018 Phụ lục hợp đồng s
03/PLHĐBT ngày 17.11.2018.
1.2: Công ty TNHH Đầu tư H được quyền phân phối 13 căn hộ tại Dự án B
trong tổng số 127 căn hộ (đã phân phối 114 căn hộ); giá trị các căn hộ phân phối
các bên phải tuân thủ các cam kết tại Điều 1 Phụ lục Hợp đồng số 03/PLHĐBT
ngày 17.11.2018 cũng như thực hiện đúng các điều khoản theo cam kết trong các
hợp đồng và các phụ lục hợp đồng kèm theo.
2. Chấp nhận yêu cầu phản tố của Công ty TNHH G về việc yêu cầu trả tiền
đối với Công ty TNHH Đầu tư H.
Buộc Công ty TNHH Đầu tư H phải chuyển trả số tiền 368.728.287.671đ
(ba trăm sáu mươi tám tbảy trăm hai mươi tám triệu hai trăm tám mươi bảy ngàn
sáu trăm bảy mươi mốt đồng) cho Công ty TNHH G, trong đó 270.000.000.000đ
(Hai trăm bảy mươi tỷ đồng) tiền gốc 98.728.287.671đ (chín ơi m tỷ bảy
trăm hai mươi tám triệu hai trăm tám mươi bảy ngàn sáu trăm bảy mươi mốt đồng)
tiền lãi.
Kể từ ngày đơn yêu cầu thi hành án, bên phải thi hành án còn phải chịu
tiền lãi theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 Bộ luật Dân sự tương ứng
thời gian và số tiền phải thi hành án.
3. Đình chỉ một phần yêu cầu phản tố của bị đơn đối với yêu cầu “Tuyên bố
Hợp đồng Hợp tác đầu số X/2018/HTĐT ngày 10.01.2018; Hợp đồng bao tiêu
sản phẩm s01/2018/HĐBT ngày 05.3.2018 các phụ lục kèm theo giữa Công
ty TNHH G và Công ty TNHH Đầu tư H chấm dứt kể từ ngày 23.11.2020”.
4. Công ty TNHH G có trách nhiệm làm các thủ tục theo quy định của Nhà
nước để được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài
sản khác gắn liền với đất cho Công ty TNHH Đầu tư H để hoàn thiện thủ tục pháp
lý về chủ quyền tài sản cho các khách hàng góp vốn tại Dự án B.
Các bên đương sự phải chịu án pkinh doanh thương mại thẩm theo
quy định của pháp luật.
Công ty TNHH Đầu tư H Đơn kháng cáo toàn bộ bản án sơ thẩm cho rằng
bản án thẩm tuyên buộc Công ty H phải trả 98.728.287.671đ tiền lãi là không
13
đúng quy định của pháp luật và có vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng. Do đó đề
nghị Tòa án cấp Phúc thẩm hủy bản án sơ thẩm.
[3] Xét kháng cáo của nguyên đơn –ng ty H:
[3.1] Về kháng cáo cho rằng bản án thẩm có vi phạm nghiêm trọng thtục
tố tụng:
[3.1.1] Thực hiện hợp đồng hợp tác đầu hợp đồng bao tiêu sản phẩm
giữa Công ty H và Công ty G, Công ty H đã ký 114 Hợp đồng góp vốn với 114 cá
nhân đlàm sở lập hợp đồng chuyển quyền bất động sản của 114 căn nthuộc
Dự án B do Công ty G làm chủ đầu tư. Tất cả các hợp đồng góp vốn giữa Công ty
H với các nhân trên đều căn cứ vào hợp đồng bao tiêu sản phẩm giữa Công ty
H Công ty G. Công ty H đã bàn giao 114 căn nhà thuộc Dự án B cho những
người ký hợp đồng góp vốn, số tiền Công ty H đang giữ và số tiền đã chuyển cho
Công ty G là tiền do những nhà đầu tư ký hợp đồng góp vốn cho Công ty H. Việc
tiếp tục thực hiện, hủy bỏ, đơn phương chấm dứt đối với hợp đồng hợp tác đầu tư
hợp đồng bao tiêu sản phẩm giữa Công ty H và Công ty G đều ảnh hưởng
trực tiếp đến quyền, nghĩa vụ của những nhà đầu tư góp vốn với Công ty H. Trong
quá trình giải quyết vụ án, Công ty H nhiều lần đề nghị đưa 114 khách hàng hợp
đồng góp vốn tham gia tố tụng trong vụ án với cách là người quyền lợi
nghĩa vụ liên quan; một số người hợp đồng góp vốn với Công ty H đơn đề
nghị được tham gia tố tụng với tư cách là người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan
trong vụ án.
[3.1.2] Quá trình giải quyết ván tại cấp thẩm, Công ty H ng đề nghị
Tòa án cấp sơ thẩm tiến hành xem xét thẩm định đối với 13 căn nhà số A1x, A3x,
A3x, B1x, B2x, B3x, B3x, B3x, B4x, B4x, C2x, C3x, C4x những căn Công ty
TNHH G chuyển nhượng hoặc giao cho chiếm giữ, hoàn thiện nội thất, quản lý sử
dụng đưa 13 người đang quản lý, sử dụng những căn nhà này vào tham gia tố
tụng với tư cáchngười có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong vụ án để đảm bảo
quyền, lợi ích của họ. Quá trình giải quyết ván tại cấp Phúc thẩm, HĐXX Phúc
thẩm đã tiến hành xem xét, thẩm định tại chỗ đối với 13 căn nhà nêu trên thì thấy,
trong 13 căn nhà thì 11 căn đã được hoàn thiện về nội thất người thba
đang quản lý sử dụng. Do đó, việc bản án sơ thẩm tuyên giao cho Công ty H được
quyền phân phối 13 căn hộ tại Dự án B này mà không đưa những người đang quản
lý, sử dụng vào tham gia tố tụng với cách là người quyền lợi, nghĩa vụ liên
quan trong vụ án để xem xét quyền, lợi ích hợp pháp của họ là vị phạm thủ tục tố
tụng làm ảnh hưởng đến quyền, lợi ích hợp pháp của họ.
[3.1.3] Về yêu cầu khởi kiện của Công ty H. Theo Đơn khởi kiện ghi ngày
23/6/2022, Tòa án thẩm nhận ngày 06/7/2022, trình bày trong các lần hòa giải
tại phiên tòa thẩm Công ty H yêu cầu Tòa án giải quyết: (i) buộc Công ty
TNHH G trao toàn bộ quyền phân phối độc quyền 127 căn nhà của Dự án B cho
Công ty TNHH Đầu tư H để Công ty TNHH Đầu tư H phân phối trong thời hạn 01
năm kể từ ngày Dự án B đủ điều kiện để bán theo quy định pháp luật; (ii) Các điều
kiện của việc phân phối dự án được áp dụng theo quy định của Hợp đồng
1001/2018 Hợp đồng bao tiêu sản phẩm số 01/2018/HĐBT; (iii) Áp dụng các
14
Điều 412, 346 Bộ luật Dân sự, trao quyền chiếm giữ tài sản đối với 127 căn nhà
cho Công ty TNHH Đầu H để đảm bảo cho việc thực hiện quyền độc quyền
phân phối sản phẩm của Dự án.
Tuy nhiên, Tòa án cấp thẩm chỉ thụ lý, hòa giải với nội dung: Công ty
TNHH Đầu H yêu cầu Công ty TNHH G trao toàn bộ quyền phân phối độc
quyền 127 căn nhà của Dự án G Compound cho Công ty TNHH Đầu tư H để Công
ty TNHH Đầu H phân phối trong thời hạn 01 năm kể từ ngày Dự án B đủ điều
kiện để bán theo quy định pháp luật, là chưa đầy đủ yêu cầu khởi kiện của nguyên
đơn. Công ty TNHH Đầu H yêu cầu trao toàn bộ quyền phân phối độc quyền
127 căn nhà của Dự án B, nhưng Bản án sơ thẩm tuyên Công ty TNHH Đầu H
được quyền phân phối 13 căn hộ tại Dự án B trong tổng số 127 căn hộ (đã phân
phối 114 căn hộ) không đúng yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn. Tại Biên bản
xem xét, thẩm định tại chỗ do HĐXX phúc thẩm tiến hành, Công ty G cho rằng
tổng cộng n 17 căn nhà chưa được Công ty H phân phối theo hợp đồng bao tiêu,
chứ không phải chỉ 13 căn như bản án thẩm tuyên. Bản án thẩm tuyên
Công ty TNHH Đầu H Công ty TNHH G tiếp tục thực hiện Hợp đồng hợp
tác đầu số X/2018/HTĐT ngày 10.01.2018; Hợp đồng bao tiêu sản phẩm s
01/2018/HĐBT ngày 05.3.2018 kèm theo các Phụ lục hợp đồng số 01/PLHĐBT,
02/PLHĐBT cùng ngày 05.3.2018 Phụ lục hợp đồng số 03/PLHĐBT ngày
17.11.2018, nhưng chưa đánh giá điều kiện của các hợp đồng này có đảm bảo quy
định của pháp luật hay không. Bản án sơ thẩm tuyên Công ty H được quyền phân
phối 13 căn hộ nhưng không xác định cụ thể Lô, hiệu của từng căn hộ được
quyền phân phối, cũng không xác định cụ thể, ràng về thời hạn, cách thức,
phương án Công ty TNHH G phải thực hiện để bàn giao 13 căn nnói trên
cho Công ty TNHH Đầu tư H tiếp tục thực hiện quyền phân phối; Không xác định
ràng trách nhiệm, thời hạn của Công ty TNHH G trong việc hoàn thành h
pháp lý Dự án, hoàn thành Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất để trao trả lại cho
các nhà đầu tư là không đảm bảo việc thi hành bản án.
[4] Từ những nhận định trên, xét thấy bản án thẩm những sai sót
nghiêm trọng về thủ tục tố tụng nkháng cáo của Công ty H, Hội đồng xét xử
cấp Phúc thẩm không thể bổ sung tại phiên tòa được, do đó, chấp nhận kháng cáo
của Công ty H; Hủy bản án thẩm, giao hồ sơ vụ án cho Tòa án cấp sơ thẩm giải
quyết lại vụ án theo quy định.
[5] Về án pPhúc thẩm: Do kháng cáo được chấp nhận nên Công ty H
không phải chịu án phí kinh doanh thương mại Phúc thẩm theo quy định tại Điều
29 Nghị quyết 326/2016 ngày 30-12-2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy
định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lphí Tòa án.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH:
Chp nhn kháng cáo của nguyên đơn Công ty TNHH Đầu tư H.
Căn cứ khoản 3 Điều 308 B lut T tng dân s.
15
1. Hy toàn b Bn án kinh doanh thương mại sơ thẩm số 01/2023/KDTM-
ST ngày 10-01-2023 của Tòa án nhân dân quận Thanh Khê, thành phố Đà Nẵng.
2. Giao h vụ án cho Tòa án nhân dân quận Thanh Khê, thành ph Đà
Nng gii quyết li theo th tc chung.
3. Hoàn trả cho Công ty TNHH Đầu tư H số tiền tạm ứng án phí Phúc thẩm
là 3.000.000 đồng theo Biên lai số 008730 ngày 01/02/2023 của Chi cục Thi hành
án dân sự quận Thanh Khê, thành phố Đà Nẵng.
4. Bn án phúc thm có hiu lc pháp lut k t ngày tuyên án.
Nơi nhận:
- Các đương sự;
- VKSND TP. Đà Nẵng;
- Chi Cục THADS quận Thanh Khê;
- Tòa án nhân dân quận Thanh Khê;
- Lưu hồ sơ vụ án.
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM
THẨM PHÁN - CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
(đã ký)
Lê Tự Sinh
Tải về
Bản án số 13/2023/KDTM-PT Bản án số 13/2023/KDTM-PT

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án/ Quyết định cùng đối tượng

Bản án cùng lĩnh vực

Bản án mới nhất