Bản án số 116/2025/KDTM-ST ngày 22/10/2025 của Tòa án nhân dân khu vực 2 - Hà Nội, TP. Hà Nội về tranh chấp hợp đồng tín dụng
- Thuộc tính
- Nội dung
- VB gốc
- VB liên quan
- Lược đồ
- Đính chính
- Án lệ
- BA/QĐ cùng nội dung
- Tải về
Tải văn bản
-
Bản án số 116/2025/KDTM-ST
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
-
Bản án số 116/2025/KDTM-ST
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Báo lỗi
Thuộc tính Bản án 116/2025/KDTM-ST
| Tên Bản án: | Bản án số 116/2025/KDTM-ST ngày 22/10/2025 của Tòa án nhân dân khu vực 2 - Hà Nội, TP. Hà Nội về tranh chấp hợp đồng tín dụng |
|---|---|
| Quan hệ pháp luật: | Tranh chấp hợp đồng tín dụng |
| Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
| Tòa án xét xử: | Tòa án nhân dân khu vực 2 - Hà Nội, TP. Hà Nội |
| Số hiệu: | 116/2025/KDTM-ST |
| Loại văn bản: | Bản án |
| Ngày ban hành: | 22/10/2025 |
| Lĩnh vực: | Kinh doanh thương mại |
| Áp dụng án lệ: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
| Đính chính: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
| Thông tin về vụ/việc: | Yêu cầu thực hiện nghĩa vụ thanh toán theo hợp đồng tín dụng |
Tóm tắt Bản án
Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!
Tải văn bản

1
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TOÀ ÁN NHÂN DÂN KHU VỰC 2 - HÀ NỘI
Thành phần Hội đồng xét xử sơ thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ toạ phiên toà: Bà Đỗ Thị Diệu Thúy
Các Hội thẩm nhân dân:
1. Bà Nguyễn Thị Hồng
2. Ông Đặng Như Hùng
Thư ký phiên toà: Bà Nguyễn Hà My - Thư ký Tòa án nhân dân khu vực 2 - Hà
Nội
Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân khu vực 2- Hà Nội tham gia phiên tòa: Ông
Nguyễn Đức Thành - Kiểm sát viên.
Ngày 22 tháng 10 năm 2025, tại trụ sở Toà án nhân dân khu vực 2 - Hà
Nội, xét xử sơ thẩm công khai vụ án kinh doanh thương mại thụ lý
06/2025/QĐST- KDTM ngày 06 tháng 01 năm 2025 về việc “Tranh chấp hợp
đồng tín dụng” theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 330/2025/QĐST- KDTM
ngày 10 tháng 09 năm 2025, Quyết định hoãn phiên toà số 381/2025/QĐST-
KDTM ngày 29/09/2025 giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Ngân hàng Thương mại cổ phần V;
Trụ sở chính: Tầng 4 và 5, toà nhà Samsora Premier, số 105 đường Chu Văn An,
phường Yết Kiêu, quận Hà Đông nay là phường Hà Đông, thành phố Hà Nội.
Người đại diện theo pháp luật: Ông Phương Thành L - chức vụ: Chủ tịch Hội đồng
quản trị.
Người đại diện theo uỷ quyền: Ông Đỗ Minh Đ - Chuyên viên Ngân hàng - Có mặt tại
phiên toà
- Bị đơn: Bà Nguyễn Thị H, sinh năm 1958;
Địa chỉ: Số 24, ngõ 460 đường Khương Đình, phường Hạ Đình, quận Thanh
Xuân nay là phường Khương Đình, thành phố Hà Nội - Vắng mặt tại phiên toà
- Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan:
1. Bà Nguyễn Thị P, sinh năm 1950- Vắng mặt tại phiên toà
Địa chỉ: Số 5 hẻm 420/24/3 đường Khương Đình, phường Hạ Đình, quận Thanh
Xuân, Hà Nội nay là phường Khương Đình, Hà Nội
TOÀ ÁN NHÂN DÂN
KHU VỰC 2 - HÀ NỘI
Bản án số: 116/2025/KDTMST
Ngày: 22/10/2025
Về việc: “Tranh chấp hợp đồng
tín dụng”
CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do – Hạnh phúc
2
2. Anh Nguyễn Đức M, sinh năm 1979
3. Chị Nguyễn Thị Thuý H, sinh năm 1977
4. Cháu Nguyễn Ngọc M, sinh năm 2005 - Vắng mặt tại phiên toà
5. Cháu Nguyễn Ngọc D, sinh năm 2010
6. Cháu Nguyễn Đức M, sinh năm 2013 (Cháu D, cháu M do anh M,
chị H là người đại diện theo pháp luật)
Cùng địa chỉ: Số 34, ngõ 420, đường Khương Đình, phường Hạ Đình, quận
Thanh Xuân, Hà Nội nay là phường Khương Đình, Hà Nội - anh M, chị H vắng
mặt tại phiên tòa.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Trong đơn khởi kiện và lời khai trong quá trình giải quyết vụ án cũng
như tại phiên tòa sơ thẩm, người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn -
Ngân hàng Thương mại cổ phần V trình bày:
Ngày 21/05/2012, bà Nguyễn Thị H và Ngân hàng TMCP V - Chi nhánh
Hà Nội (viết tắt là Ngân hàng V) ký Hợp đồng tín dụng ngắn hạn số:
020/12/VAB-HN/HĐNH với nội dung: Ngân hàng cho bà H vay số tiền
1.500.000.000 đồng; Mục đích vay là bổ sung vốn lưu động; Thời hạn cho vay
12 tháng, kể từ ngày 21/05/2012 đến ngày 21/05/2013; Lãi suất cho vay:
1,85%/tháng; Lãi suất nợ quá hạn là 150% lãi suất trong hạn.
Tài sản bảo đảm cho khoản vay là ngôi nhà và quyền sử dụng đất diện
tích 37,5m
2
tại thửa đất số 94(1P), tờ bản đồ số: 15-C-II-b, địa chỉ: Tổ 15, cụm
4, phường Hạ Đình, quận Thanh Xuân, Hà Nội theo Giấy chứng nhận Quyền sử
dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất số BĐ 668335,
vào sổ cấp GCN số CH00270 do UBND quận Thanh Xuân, Hà Nội cấp ngày
29/12/2010 cho bà Nguyễn Thị H theo Hợp đồng thế chấp tài sản số công chứng
1725/2012/HĐTC lập ngày 21/05/2012 tại phòng Công chứng số 6 thành phố
Hà Nội, đăng ký giao dịch bảo đảm theo đúng quy định pháp luật ngày
21/05/2012
Ngày 21/05/2012, bà Nguyễn Thị H đã được Ngân hàng V - Chi nhánh
Hà Nội giải ngân số tiền 1.500.000.000 đồng theo Giấy nhận nợ số 001/GNNTL
ngày 21/05/2012
Quá trình thực hiện Hợp đồng, bà Nguyễn Thị H mới thanh toán trả Ngân
hàng được 76.457.373 đồng (Bảy mươi sáu triệu bốn trăm năm mươi bảy nghìn
ba trăm bảy mươi ba đồng) tiền lãi.
Từ ngày 21/05/2013, bà Nguyễn Thị H không thanh toán nợ gốc và lãi
đúng hạn cho Ngân hàng, vi phạm nghĩa vụ của bên vay trong Hợp đồng tín
dụng số 020/12 VAB-IININH ngày 21/05/2012. Ngân hàng đã nhiều lần làm
việc trực tiếp, gửi văn bản nhắc nợ nhưng bà H vẫn không thực hiện. Do đó,
3
Ngân hàng buộc phải làm đơn khởi kiện bà H đến Toà án nhân dân quận Hà
Đông. Ngày 20/11/2019, Toà án đã mở phiên toà xét xử vụ án. Do không đồng ý
với bản án sơ thẩm nên Ngân hàng đã kháng cáo toàn bộ bản án. Tại Bản án
kinh doanh thương mại phúc thẩm số 96/2020/KDTM-PT ngày 29/06/2020 của
Toà án nhân dân thành phố Hà Nội đã quyết định:
Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của Ngân hàng TMCP V; Buộc bà
Nguyễn Thị H phải trả Ngân hàng TMCP V số tiền 1.500.000.000 đồng; Giành
quyền khởi kiện cho Ngân hàng TMCP V về yêu cầu đòi khoản tiền lãi của số
tiền nợ gốc nêu trên đối với bà Nguyễn Thị H bằng một vụ kiện khác.
Sau khi bản bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật, bà H không tự
nguyện thi hành án đối với khoản nợ gốc nên Ngân hàng đã nộp đơn yêu cầu cơ
quan thi hành án có thẩm quyền giải quyết. Đối với khoản nợ lãi, do bản án phúc
thẩm chưa xem xét nên nay Ngân hàng khởi kiện yêu cầu bà H thanh toán toàn
bộ dư nợ lãi của số tiền nợ gốc 1.500.000.000 đồng, bao gồm nợ lãi trong hạn,
nợ lãi quá hạn và phạt chậm trả lãi theo Hợp đồng tín dụng ngắn hạn số
020/12/VAB-HN/HĐNH ngày 21/05/2012. Ngoài ra, Ngân hàng yêu cầu bà H
phải thanh toán số tiền lãi phát sinh cho đến khi trả hết nợ cho Ngân hàng.
Ngay sau khi bản án có hiệu lực pháp luật, nếu bà H không thanh toán đủ
số nợ lãi cho Ngân hàng, đề nghị Toà án tuyên Ngân hàng có quyền yêu cầu Cơ
quan Thi hành án có thẩm quyền phát mại tài sản thế chấp là ngôi nhà và quyền
sử dụng 37,5m
2
đất ở thuộc thửa đất số 94(1P), tờ bản đồ số: 15-C-II-b tại địa
chỉ tổ 15, cụm 4, phường Hạ Đình, quận Thanh Xuân, Hà Nội theo Giấy chứng
nhận Quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất
BĐ 668335, vào sổ cấp GCN số: CH00270 do UBND quận Thanh Xuân, Hà
Nội cấp ngày 29/12/2010 cho bà H để thu hồi khoản nợ lãi cho Ngân hàng (phần
nợ gốc được xử lý theo bản án số 96/2020/KDTM-PT ngày 29/06/2020 của Tòa
án nhân dân thành phố Hà Nội). Nếu số tiền thu được từ việc xử lý tài sản bảo
đảm không đủ thanh toán hết khoản nợ thì bà Nguyễn Thị H vẫn phải có nghĩa
vụ trả hết khoản nợ cho Ngân hàng TMCP V.
Quá trình giải quyết vụ án, tại bản tự khai, nguyên đơn rút một phần yêu
cầu đối với số tiền nợ lãi quá hạn và không yêu cầu bị đơn thanh toán khoản
phạt chậm trả lãi.
* Bị đơn - bà Nguyễn Thị H đã được Toà án triệu tập hợp lệ nhiều lần
nhưng vắng mặt trong toàn bộ quá trình giải quyết vụ án cũng như tại phiên toà
sơ thẩm. Do sự vắng mặt của bị đơn nên Toà án không thể tiến hành ghi lời khai
cũng như tiến hành các thủ tục tố tụng khác theo quy định của pháp luật đối với
bị đơn.
* Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan - bà Nguyễn Thị P trình bày:
Nguồn gốc diện tích nhà đất bà H thế chấp tại Ngân hàng V là của bố mẹ bà để
4
lại cho chị em bà (bà và bà Nguyễn Thị H). Diện tích đất của bà H là 37,5m
2
,
còn của bà cũng tương đương như vậy. Sau khi được cấp Giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất, bà H thế chấp cho Ngân hàng V để vay tiền như thế nào thì
bà không biết, còn phần đất của bà, bà thế chấp tại Ngân hàng BIDV để vay tiền
cho con trai bà. Sau khi bà H thế chấp nhà đất cho Ngân hàng thì con trai bà H
là anh Nguyễn Đức M xây nhà 04 tầng trên phần đất của bà H và của bà. Việc
anh M xây nhà trên đất của bà có sự thoả thuận trong gia đình với nhau. Cụ thể,
anh M thoả thuận là sẽ trả cho bà khoản nợ tại Ngân hàng BIDV nhưng thực tế
anh M không trả được. Do đó đến nay bà vẫn nợ tiền Ngân hàng BIDV.
Nay Ngân hàng V khởi kiện bà H yêu cầu thanh toán nợ lãi, đề nghị Toà án
căn cứ pháp luật giải quyết. Trường Hợp phải xử lý tài sản thế chấp, bà đề nghị
chỉ được xử lý phần nhà đất trong giấy chứng nhận của bà H, không được xử lý
phần đất của bà.
* Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan - anh Nguyễn Đức M, chị
Nguyễn Thị Thuý H, cháu Nguyễn Ngọc M, cháu Nguyễn Ngọc D, cháu
Nguyễn Đức M (cháu D, cháu M do anh M, chị H là người đại diện theo pháp
luật) đã được Toà án triệu tập hợp lệ nhiều lần nhưng vắng mặt trong toàn bộ
quá trình giải quyết vụ án cũng như tại phiên toà sơ thẩm. Do đó Toà án không
thể tiến hành ghi lời khai cũng như tiến hành các thủ tục tố tụng khác theo quy
định của pháp luật đối với những người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan này.
Ngày 15/09/2025, sau khi ra Quyết định đưa vụ án ra xét xử, Toà án nhận
được văn bản trình bày của anh Nguyễn Đức M với nội dung: Mảnh đất ông
Nguyễn Văn T bán cho anh là do ông Toản được thừa kế của bố ông là ông
Nguyễn T. Do ông T bán cho anh 1/2 mảnh đất của ông Nguyễn T nên thủ tục
hành chính lúc đó khó khăn, anh và ông T có làm giấy tờ viết tay là “Hợp đồng
mua bán đất”, sau đó anh bận đi làm ăn xa nên chưa kịp sang tên Giấy chứng
nhận quyền sở hữu nhà, quyền sử dụng đất.
Thời gian anh đi làm ăn xa, có nhờ người ở nhà xây cho anh căn nhà như
hiện tại (nhà 05 tầng với 500m
2
xây dựng). Một thời gian sau anh có nghe thông
báo một phần mảnh đất của anh bị thế chấp tại Ngân hàng (khi thế chấp chưa có
nhà như bây giờ). Qua tìm hiểu, anh được biết Giấy chứng nhận quyền sử dụng
đất mang tên ông Nguyễn T, ông T mất khoảng năm 2003, Giấy chứng nhận do
vợ ông T là bà Nguyễn Thị N giữ vì bà N được thừa kế 1/2 mảnh đất của ông T.
Khi bán, ông T không đưa “sổ đỏ” cho anh mà chỉ đưa di chúc, đơn đề nghị,
trích lục bản đồ. Anh thấy đúng quy định pháp luật nên mới mua
Bà Nguyễn Thị N mất năm 2013, trước khi mất không biết bằng cách nào,
bà đã di chúc, sang tên toàn bộ mảnh đất cho các con của bà, trong đó có cả
phẩn đất anh mua của ông T. Mảnh đất của anh được chia thành 03 phẩn cho 03
người đứng tên, gồm bà Nguyễn Thị P, bà Nguyễn Thị H, bà Nguyễn Thị Năm.
5
Trong đó có mảnh của bà Nguyễn Thị H Toà án đang giải quyết. Theo anh bà H
không có quyền dùng mảnh đất của anh để thế chấp tại Ngân hàng nên anh đang
làm đơn đến Toà án kiện việc bà H đứng tên mảnh đất của anh. Hiện gia đình
anh đang sinh sống và có hộ khẩu tại số 34, ngõ 420 đường Khương Đình,
phường Khương Đình, Hà Nội. Việc Toà án thông báo anh và gia đình anh là
đương sự (người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan) trong vụ án này là không
đúng vì anh đang sống trên mảnh đất anh mua và ở trên căn nhà anh xây dựng.
Vì vậy, anh không liên quan đến tranh chấp giữa Ngân hàng và bà Nguyễn Thị
H.
Tại phiên tòa sơ thẩm:
- Đại diện nguyên đơn trình bày: Nguyên đơn xin rút một phần yêu cầu
khởi kiện đối với số tiền lãi quá hạn là 1.301.783.733 đồng và khoản tiền phạt
chậm trả lãi theo đơn khởi kiện là 798.957.435 đồng; Giữ nguyên yêu cầu bị đơn
thanh toán số tiền nợ lãi tính đến ngày xét xử sơ thẩm là 3.567.220.434 đồng,
bao gồm lãi trong hạn là 272.216.667 đồng, lãi quá hạn là 3.295.003.767 đồng
và yêu cầu bị đơn phải tiếp tục chịu khoản tiền lãi quá hạn kể từ ngày tiếp theo
ngày xét xử sơ thẩm đến khi thanh toán xong khoản nợ gốc theo lãi suất quy
định trong hợp đồng tín dụng. Trường hợp bà H không trả nợ hoặc trả không
đầy đủ, Ngân hàng có quyền yêu cầu cơ quan thi hành án phát xử lý sản thế chấp
là ngôi nhà và quyền sử dụng 37,5m
2
đất ở thuộc thửa đất số 94(1P), tờ bản đồ
số: 15-C-II-b tại địa chỉ tổ 15, cụm 4, phường Hạ Đình, quận Thanh Xuân, Hà
Nội theo Giấy chứng nhận Quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản
khác gắn liền với đất BĐ 668335, vào sổ cấp GCN số CH00270 do UBND quận
Thanh Xuân, thành phố Hà Nội cấp ngày 29/12/2010 cho bà Nguyễn Thị H để
thu hồi khoản nợ lãi cho Ngân hàng.
Đại diện Viện kiểm sát nhân khu vực 2 - Hà Nội có quan điểm:
- Về việc tuân theo Pháp luật của thẩm phán, của HĐXX và những người
tham gia tố tụng: Căn cứ đơn khởi kiện và các tài liệu, chứng cứ nộp kèm theo
đơn khởi kiện của nguyên đơn, Tòa án nhân dân quận Thanh Xuân nay là Toà án
nhân dân khu vực 2 - Hà Nội thụ lý đơn khởi kiện của Ngân hàng Thương mại
cổ phần V và xác định quan hệ pháp luật là “Tranh chấp hợp đồng tín dụng” là
hoàn toàn phù hợp với quy định tại khoản khoản 1 Điều 30, điểm a khoản 1
Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015; Về xác
minh, thu thập chứng cứ: Tòa án đã tiến hành thu thập chứng cứ, xem xét, thẩm
định tại chỗ tài sản thế chấp theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự; Về mở
phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải: Toà
án đã tổ chức phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ
theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 và niêm yết kết quả phiên
họp cho người vắng mặt theo quy định của pháp luật; Về tống đạt các văn bản tố
6
tụng cho Viện kiểm sát và các đương sự: Sau khi thụ lý vụ án, Tòa án đã thực
hiện việc tống đạt văn bản tố tụng cho các đương sự theo quy định của pháp
luật. Sau khi tiến hành xác minh, Toà án thực hiện thủ tục niêm yết tại địa chỉ cư
trú của bị đơn, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan là đảm bảo đúng quy
định của pháp luật và đảm bảo hiệu quả của việc niêm yết; Về thời hạn chuẩn bị
xét xử: Ngày 06/01/2025, Tòa án tiến hành thụ lý vụ án, ngày 10/09/2025, thẩm
phán ra quyết định đưa vụ án ra xét xử là chưa đảm bảo đúng thời hạn chuẩn bị
xét xử quy định tại khoản 1 Điều 203 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015.
Về việc tuân theo pháp luật của thẩm phán, thư ký và của Hội đồng xét xử:
Quá trình giải quyết vụ án, thẩm phán và thư ký đã thực hiện đúng các quy định
về nhiệm vụ, quyền hạn của thẩm phán, thư ký quy định tại Điều 48, Điều 51 Bộ
luật tố tụng dân sự năm 2015. Tại phiên tòa hôm nay, Hội đồng xét xử chấp
hành đúng các quy định của Bộ luật tố tụng dân sự về phiên tòa sơ thẩm, đảm
bảo đúng nguyên tắc xét xử, thành phần Hội đồng xét xử, phổ biên nội quy
phiên tòa, quyền và nghĩa vụ của đương sự, đảm bảo việc hỏi, tranh luận đúng
quy định; Việc chấp hành pháp luật của nguyên đơn đúng quy định tại Điều 70,
71 Bộ luật tố tụng dân sự, bị đơn, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan chưa
chấp hành đúng quy định tại Điều 70, 72, 73 Bộ luật tố tụng dân sự.
- Ý kiến về việc giải quyết vụ án: Đại diện Viện kiểm sát nhân dân khu
vực 2 - Hà Nội gia phiên tòa đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ các 290, 471,
khoản 4 điều 474 Bộ luật dân sự năm 2005; Điều 91, Điều 95 Luật các tổ chức
tín dụng năm 2010; Khoản 1 Điều 30, điểm b khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1
Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự; Nghị quyết 326/2016/QH14 ngày 30/12/2016
của Uỷ ban thường vụ quốc hội, xử: Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của
Ngân hàng Thương mại cổ phần V đối với bà Nguyễn Thị H. Buộc bà H phải
thanh toán trả Ngân hàng V số tiền nợ lãi phát sinh tính đến ngày xét xử sơ thẩm
là 3.567.220.434 đồng, bao gồm lãi trong hạn là 272.216.667 đồng, lãi quá hạn
là 3.295.003.767 đồng theo Hợp đồng tín dụng ngắn hạn số: 020/12/VAB-
HN/HĐNH ngày 21/05/2012.
Trường hợp bị đơn không thực hiện hoặc thực hiện không đầy đủ nghĩa
vụ thanh toán, Ngân hàng V có quyền yêu cầu cơ quan thi hành án có thẩm
quyền xử lý tài sản bảo đảm để thu hồi khoản nợ lãi cho Ngân hàng
Kể từ ngày tiếp theo ngày xét xử sơ thẩm, bà H còn phải tiếp tục chịu
khoản tiền lãi quá hạn của số tiền nợ gốc chưa thanh toán theo mức lãi suất các
bên đã thỏa thuận trong hợp đồng tín dụng
Đình chỉ giải quyết một phần yêu cầu khởi kiện nguyên đơn đã rút
Về án phí: Bị đơn được miễn án phí kinh doanh thương mại sơ thẩm theo
quy định của pháp luật.
7
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
[1] Về tố tụng:
[1.1]. Về quan hệ pháp luật có tranh chấp, về thẩm quyền: Theo đơn khởi
kiện, nguyên đơn - Ngân hàng Thương mại cổ phần V khởi kiện bị đơn - bà
Nguyễn Thị H (là hộ cá thể có đăng ký kinh doanh) tại thời điểm khởi kiện có
địa chỉ tại số 24, ngõ 460 đường Khương Đình, phường Hạ Đình, quận Thanh
Xuân nay là phường Khương Đình, thành phố Hà Nội, yêu cầu thực hiện nghĩa
vụ thanh toán theo Hợp đồng tín dụng ngắn hạn số: 020/12/VAB-HN/HĐNH
ngày 21/05/2012 mà bà H giao kết với Ngân hàng nhằm mục đích vay vốn phục
vụ kinh doanh. Căn cứ khoản 1 Điều 30, điểm b khoản 1 Điều 35, điểm a khoản
1 Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự, đây là tranh chấp kinh doanh thương mại
thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân khu vực 2 - Hà Nội.
[1.2]. Về việc nguyên đơn rút một phần yêu cầu khởi kiện: Theo đơn khởi
kiện, nguyên đơn - Ngân hàng TMCP V yêu cầu bà Nguyễn Thị H có nghĩa vụ
thanh toán tổng số tiền lãi tính đến ngày 16/06/2022 là 5.667.961.602 đồng, bao
gồm lãi trong hạn là 272.216.667 đồng, lãi quá hạn là 4.596.787.500 đồng và
phạt chậm trả lãi là 798.957.435 đồng. Quá trình giải quyết vụ án và tại phiên
toà, nguyên đơn xin rút một phần yêu cầu khởi kiện đối với số tiền lãi quá hạn là
1.301.783.733 đồng và toàn bộ số tiền phạt chậm trả lãi theo đơn khởi kiện. Xét
việc rút một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn là tự nguyện, không trái
quy định của pháp luật nên căn cứ khoản 2 Điều 244 Bộ luật tố tụng dân sự, Hội
đồng xét xử đình chỉ giải quyết một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn đối
với phần yêu cầu đã rút.
[1.3]. Về sự vắng mặt của người tham gia tố tụng: Tại phiên tòa, bị đơn - bà
Nguyễn Thị H, ngưởi có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan - bà Nguyễn Thị P, anh
Nguyễn Đức M, chị Nguyễn Thị Thuý H, cháu Nguyễn Ngọc M, cháu Nguyễn
Ngọc D, cháu Nguyễn Đức M (cháu D, cháu M do anh M, chị H là người đại
diện theo pháp luật) đã được Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ hai nhưng vắng mặt.
Căn cứ điểm b khoản 2 Điều 227 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015, Hội đồng xét
xử tiến hành xét xử vắng mặt bị đơn, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan
theo quy định của pháp luật.
[2] Về nội dung:
[2.1]. Xét yêu cầu thanh toán số tiền nợ lãi của nguyên đơn: Tại bản án
kinh doanh thương mại phúc thẩm số 96/2020/KDTM-PT ngày 29/06/2020 của
Toà án nhân dân thành phố Hà Nội, Toà án đã quyết định về số tiền gốc bà
Nguyễn Thị H phải thanh toán trả Ngân hàng TMCP V theo Hợp đồng tín dụng
ngắn hạn số 020/12/VAB-HN/HĐNH ngày 21/05/2012, do đó trong vụ án này

8
Hội đồng xét xử chỉ xem xét đối với yêu cầu thanh toán khoản tiền lãi phát sinh
từ hợp đồng tín dụng này.
Theo hợp đồng tín dụng và khế ước nhận nợ kèm theo, các bên thoả
thuận: Số tiền vay là 1.500.000.000 đồng; Thời hạn vay là 12 tháng kể từ ngày
21/05/2012 đến 21/05/2013.
Về lãi suất vay, các bên thoả thuận: “Lãi suất vay là 1,85%/tháng và sẽ
được điều chỉnh 01 tháng/lần kể từ ngày bên B (bên vay) nhận tiền vay lần đầu
tiên và được thực hiện theo quy định ban hành lãi suất của Ngân hàng V tại thời
điểm điều chỉnh. Bên A (bên cho vay) sẽ thông báo cho bên B bằng văn bản lãi
suất và thời điểm áp dụng. Hai bên thống nhất không cần ký kết phụ lục Hợp
đồng điều chỉnh lãi suất”.
Căn cứ khoản 2 Điều 91 Luật các tổ chức tín dụng năm 2010 và Điều 1
Thông tư số 12/2010/TT-NHNN ngày 14/04/2010 của Ngân hàng Nhà nước
Việt Nam quy định tổ chức tín dụng và khách hàng có quyền thỏa thuận về lãi
suất, phí cấp tín dụng trong hoạt động ngân hàng của tổ chức tín dụng theo quy
định của pháp luật nên việc Ngân hàng V và bà H thỏa thuận về lãi suất vay
1,85%/tháng tại thời điểm giao kết hợp đồng là phù hợp với quy định của pháp
luật
[2.1.1]. Xét số tiền lãi trong hạn nguyên đơn yêu cầu bị đơn thanh toán,
Hội đồng xét xử thấy, theo tài liệu tính lãi do Ngân hàng xuất trình thể hiện: Từ
ngày 21/05/2012 đến ngày 10/05/2013, tổng số tiền lãi trong hạn trên dư nợ gốc
bà H phải thanh toán trả Ngân hàng theo mức lãi suất 1,85%/tháng là
348.674.040 đồng, bà H mới thanh toán trả Ngân hàng được 76.457.373 đồng,
còn nợ 272.216.667 đồng. Từ khi hết hạn hợp đồng là ngày 21/05/2013 đến nay,
bà H không thanh toán toàn bộ nợ gốc cũng như nợ lãi cho Ngân hàng nên số
tiền nợ lãi trong hạn của bà H giữ nguyên. Nay Ngân hàng khởi kiện yêu cầu bị
đơn thanh toán số tiền lãi trong hạn là 272.216.667 đồng là có căn cứ, cần buộc
bị đơn có phải có nghĩa vụ thực hiện.
[2.1.2]. Đối với số tiền lãi quá hạn, trong hợp đồng tín dụng và khế ước
nhận nợ, các bên thoả thuận, lãi suất vay được điều chỉnh 01 tháng/lần kể từ
ngày bên B(bên vay) nhận tiền vay lần đầu tiên và được thực hiện theo quy định
ban hành lãi suất của Ngân hàng V tại thời điểm điều chỉnh. Quá trình thực hiện
hợp đồng Ngân hàng V đã thực hiện điều chỉnh lãi suất vay theo thoả thuận.
Cụ thể kể từ ngày 21/05/2013 đến nay, Ngân hàng đã nhiều lần điều chỉnh
lãi suất vay từ 1,85%/tháng sang áp dụng mức lãi suất vay 22,2%/năm, sau đó
điều chỉnh giảm xuống 14,05%/năm, 14,55%/năm…v.v và từ ngày 30/04/2025
đến nay, Ngân hàng áp dụng lãi suất vay là 8,8%/năm. Đối chiếu với các Quyết
định về việc ban hành lãi suất cho vay bằng VNĐ cho khách hàng cá nhân,
Quyết định ban hành lãi suất cho vay có tài sản bảo đảm cho khách hàng cá
9
nhân, Quyết định ban hành lãi suất huy động vốn khách hàng cá nhân do Ngân
hàng V ban hành từ tháng 5/2012 đến nay, mức lãi suất vay đã điều chỉnh đối
với khoản vay của bà H theo Hợp đồng tín dụng ngắn hạn số 020/12/VAB-
HN/HĐNH ngày 21/05/2012 là phù hợp với chính sách về lãi suất của Ngân
hàng V và phù hợp quy định của Ngân hàng Nhà nước tại thời điểm điều chỉnh
nên được Hội đồng xét xử chấp nhận.
Theo thoả thuận của các bên, lãi suất quá hạn bằng 150% lãi suất trong
hạn. Kể từ thời điểm hết hạn hợp đồng (ngày 21/05/2013), do bà H không thanh
toán số tiền vay nên toàn bộ dư nợ gốc 1.500.000.000 đồng của bà H bị áp dụng
mức lãi suất quá hạn. Sau khi bản án của Toà án nhân dân thành phố Hà Nội có
hiệu lực pháp luật, bà H cũng không thanh toán dư nợ gốc cho Ngân hàng nên
đến nay Ngân hàng vẫn áp dụng lãi suất quá hạn đối với toàn bộ khoản vay
Theo bảng kê tính lãi do Ngân hàng xuất trình, từ ngày 21/05/2013 đến
nay, tổng số tiền lãi quá hạn tính trên dư nợ gốc là 3.295.003.767 đồng. Nguyên
đơn yêu cầu bị đơn thanh toán số tiền lãi quá hạn 3.295.003.767 đồng là có căn
cứ nên Hội đồng xét xử chấp nhận, buộc bị đơn có nghĩa vụ thực hiện.
Như vậy, tổng số tiền lãi trong hạn, lãi quá hạn bị đơn phải thanh toán trả
nguyên đơn là: 272.216.667 đồng +3.295.003.767 đồng = 3.567.220.434 đồng.
Đối với yêu cầu của nguyên đơn về việc tiếp tục tính lãi đối với khoản nợ
gốc chưa thanh toán của bà H kể từ ngày tiếp theo ngày xét xử đến khi thanh
toán xong khoản nợ, theo theo Án lệ số 08/2016/AL“về việc xác định lãi suất,
việc điều chỉnh lãi suất trong hợp đồng tín dụng kể từ ngày tiếp theo ngày xét
xử” được lựa chọn từ quyết định giám đốc thẩm số 12/2013/KDTM-GĐT ngày
16/05/2013 và được công bố theo Quyết định số 698/QĐ-CA ngày 17/10/2016
của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao thì: “Đối với các khoản tiền vay của tổ
chức Ngân hàng, tín dụng, ngoài khoản nợ gốc, lãi vay trong hạn, lãi vay quá
hạn, phí mà khách hàng vay phải thanh toán cho bên vay theo hợp đồng tín
dụng tính đến ngày xét xử sơ thẩm thì kể từ ngày tiếp theo của ngày xét xử sơ
thẩm, khách hàng vay phải tiếp tục chịu khoản tiền lãi quá hạn của số tiền nợ
gốc chưa thanh toán theo mức lãi suất mà các bên thỏa thuận trong hợp đồng
tín dụng cho đến khi thanh toán xong khoản nợ gốc này. Trường hợp trong hợp
đồng tín dụng, các bên có thỏa thuận về việc điều chỉnh lãi suất cho vay theo
từng thời kỳ của Ngân hàng cho vay thì lãi suất mà khách hàng vay phải tiếp tục
thanh toán cho Ngân hàng cho vay theo quyết định của Tòa án cũng sẽ được
điều chỉnh cho phù hợp với sự điều chỉnh lãi suất của Ngân hàng cho vay”.
Do đó, Hội đồng xét xử căn cứ khoản 1 Điều 357 Bộ luật dân sự năm 2015
và quy định tại Án lệ số 08/2016/AL, buộc bà H phải tiếp tục chịu khoản tiền lãi
quá hạn của số tiền gốc chưa thanh toán kể từ ngày tiếp theo ngày xét xử cho
đến khi thanh toán xong khoản nợ gốc cho Ngân hàng V.
10
[2.2]. Xét yêu cầu xử lý tài sản bảo đảm để thu hồi khoản nợ lãi của nguyên
đơn: Theo Hợp đồng thế chấp tài sản số công chứng 1725 ngày 21/05/2012 giữa
bà H và Ngân hàng TMCP V - Chi nhánh Hà Nội, các bên thoả thuận, bên vay là
bà Nguyễn Thị H đồng ý thế chấp cho Ngân hàng V tài sản là ngôi nhà và quyền
sử dụng 37,5m
2
đất ở thuộc thửa đất số 94(1P), tờ bản đồ số 15-C-II-b tại địa chỉ
tổ 15, cụm 4, phường Hạ Đình, quận Thanh Xuân, Hà Nội theo Giấy chứng nhận
Quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất BĐ
668335, vào sổ cấp GCN số CH00270 do UBND quận Thanh Xuân, thành phố
Hà Nội cấp ngày 29/12/2010 cho bà H để đảm bảo tiền vay và các nghĩa vụ của
bên vay liên quan đến việc vay vốn như: Tiền lãi, lãi quá hạn, hoa hồng, các
khoản phí tố tụng, phát mại tài sản để thu nợ và các nghĩa vụ phát sinh sau này
(nếu có). Xét hợp đồng thế chấp được xác lập trên cơ sở tự nguyện của các bên
tham gia, nội dung và hình thức phù hợp với quy định của pháp luật, tài sản thế
chấp đã được đăng ký giao dịch bảo đảm tại cơ quan Nhà nước có thẩm quyền
ngày 21/05/2012 nên phát sinh hiệu lực đối với các bên.
Sau khi Toà án ra Quyết định đưa vụ án ra xét xử, người có quyền lợi và
nghĩa vụ liên quan là anh Nguyễn Đức M (con trai bà H) xuất trình cho Toà án
văn bản trình bày ý kiến cho rằng nhà đất trên là của anh mua của ông Nguyễn
Văn T theo Hợp đồng mua bán viết tay đề ngày 11/11/2010 và xuất trình 01 bản
phô tô Giấy chứng nhận quyền sử dụng thửa đất số 94 tờ bản đồ 15-C0-II-b tổ
15, cụm 4, phường Hạ Đình, quận Thanh Xuân, Hà Nội do UBND quận Thanh
Xuân cấp cho ông Nguyễn T ngày 21/11/2002 ghi diện tích đất là 215m
2
, 01 di
chúc của ông T về việc để lại 106m
2
tại xóm Hồng Nở, thôn Hạ Đình, xã Khương
Đình, huyện Thanh Trì cho con trai là Nguyễn Văn T sinh ngày 09/05/1976. Xét
các tài liệu do anh M xuất trình không phải là chứng cứ hợp pháp chứng M anh
có quyền sở hữu, sử dụng hợp pháp đối với nhà đất tại thửa đất số 94(1P), tờ bản
đồ số: 15-C-II-b tại địa chỉ tổ 15, cụm 4, phường Hạ Đình, quận Thanh Xuân, Hà
Nội mà bà H đã thế chấp cho Ngân hàng V theo Hợp đồng thế chấp tài sản số
công chứng 1725 ngày 21/05/2012. Ngày 29/12/2010, bà H đã được Cơ quan
Nhà nước có thẩm quyền cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất quyền sở hữu
nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất đối với diện tích đất 37,5m
2
. Ngày
21/05/2012, bà H thế chấp quyền sử dụng đất theo Giấy chứng nhận trên cho
Ngân hàng V để đảm bảo cho nghĩa vụ dân sự của bà tại Ngân hàng. Hợp đồng
thế chấp tài sản giữa bà H và Ngân hàng Việt Á đúng quy định của pháp luật và
đã phát sinh hiệu lực kể từ thời điểm đăng ký giao dịch bản đảm tại cơ quan Nhà
nước có thẩm quyền. Do đó, trường hợp bà H không trả được nợ gốc, nợ lãi,
Ngân hàng có quyền yêu cầu Cơ quan thi hành án có thẩm quyền xử lý tài sản
bảo đảm để thu hồi nợ. Nếu anh M có căn cứ chứng M tài sản thế chấp là tài sản
11
của anh, anh có quyền làm đơn yêu cầu cơ quan có thẩm quyền giải quyết sau
bằng vụ việc khác.
Theo hợp đồng thế chấp, các bên thoả thuận, mọi công trình, diện tích do bên
thế chấp xây dựng, cải tạo gắn liền với tài sản thế chấp đều thuộc tài sản thế chấp
theo hợp đồng này. Qua xem xét, thẩm định tại chỗ, xác định hiện trạng trên đất
có 01 nhà 05 tầng xây dựng sau thời điểm thế chấp, bao trùm lên diện tích đất
37,5m
2
mang tên bà H và thửa đất bên cạnh mang tên bà Nguyễn Thị P. Do quá
trình giải quyết vụ án, bà H và những người liên quan khác không hợp tác, không
giao nộp tài liệu chứng cứ chứng M tài sản trên đất thuộc quyền sở hữu của ai
nên Hội đồng xét xử không có căn cứ xác định ngôi nhà 05 tầng trên đất do
người khác không phải là chủ sử dụng đất xây dựng. Trong hợp đồng thế chấp,
các bên đã có thoả thuận mọi công trình do bên thế chấp xây dựng gắn liền với
tài sản thế chấp đều thuộc tài sản thế chấp. Do đó, nếu bà H không thanh toán
khoản nợ gốc theo bản án số 96/2020/KDTM-PT ngày 29/06/2020 của Toà án
nhân dân thành phố Hà Nội và khoản nợ lãi theo bản án này trên thì Ngân hàng
có quyền yêu cầu xử lý tài sản bảo đảm là quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền
với đất theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cấp cho bà H để thu hồi nợ
[3]. Về án phí: Do toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn được chấp
nhận nên căn cứ khoản 2 Điều 26 Nghị quyết 326/UBTVQH14 ngày 30/12/2016
của Uỷ ban thường vụ Quốc hội quy định về án, lệ phí Tòa án, bị đơn phải chịu
án phí kinh doanh thương mại sơ thẩm. Tuy nhiên bà H sinh năm 1958 (hiện nay
67 tuổi), là người cao tuổi theo quy định tại Điều 2 Luật người cao tuổi nên thuộc
trường hợp được miễn án phí theo quy định tại điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị
quyết 326/UBTVQH14 ngày 30/12/2016
Ngân hàng V được hoàn trả số tiền tạm ứng án phí 56.833.000đồng đã nộp
theo Biên lai thu tiền tạm ứng án phí số 0036981 ngày 06/01/2025 của Chi cục
thi hành án dân sự quận Thanh Xuân.
[4]. Về quyền kháng cáo: Các đương sự có quyền kháng cáo bản án theo
quy định tại các Điều 271, Điều 273 Bộ luật tố tụng dân sự.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH:
- Căn cứ Điều 122, Điều 290, Điều 471, khoản 4 Điều 474 Bộ luật dân
sự năm 2005
- Căn cứ Điều 91, Điều 95 Luật các tổ chức tín dụng năm 2010, Điều 1
Thông tư số 12/2010/TT-NHNN ngày 14/04/2010 của Ngân hàng Nhà nước
Việt Nam
12
- Căn cứ khoản 1 Điều 30, điểm b khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều
39, điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 2 Điều 244, Điều 271, Điều 273 Bộ luật tố
tụng dân sự năm 2015;
- Căn cứ khoản 2 Điều 26, điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết
326/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội quy định về
án, lệ phí Tòa án
* Tuyên xử:
[1]. Đình chỉ giải quyết một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn -
Ngân hàng Thương mại cổ phần V đối với bị đơn - bà Nguyễn Thị H về việc
thanh toán số tiền lãi quá hạn là 1.301.783.733 đồng và số tiền phạt chậm trả lãi
theo đơn khởi kiện là 798.957.435 đồng
[2]. Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của Ngân hàng Thương mại cổ
phần V đối với bà Nguyễn Thị H về việc thanh toán số tiền lãi theo Hợp đồng
tín dụng ngắn hạn số 020/12/VAB-HN/HĐNH ngày 21/05/2012
Buộc bà Nguyễn Thị H phải thanh toán trả phải thanh toán trả Ngân hàng
Thương mại cổ phần V số tiền nợ lãi tính đến ngày xét xử sơ thẩm (ngày
22/10/2025) là 3.567.220.434 đồng (Ba tỷ năm trăm sáu bảy triệu hai trăm hai
mươi ngàn bốn trăm ba tư đồng), bao gồm lãi trong hạn là 272.216.667 đồng, lãi
quá hạn là 3.295.003.767 đồng theo Hợp đồng tín dụng ngắn hạn số
020/12/VAB-HN/HĐNH ngày 21/05/2012
[3]. Trường hợp bà Nguyễn Thị H không thực hiện hoặc thực hiện không
đầy đủ nghĩa vụ thanh toán trên đối với Ngân hàng Thương mại cổ phần V,
Ngân hàng Thương mại cổ phần V có quyền yêu cầu Cơ quan thi hành án có
thẩm quyền xử lý tài sản bảo đảm là quyền sử dụng 37,5m
2
đất ở và tài sản gắn
liền với đất thuộc thửa đất số 94(1P), tờ bản đồ số: 15-C-II-b tại địa chỉ tổ 15,
cụm 4, phường Hạ Đình, quận Thanh Xuân, Hà Nội theo Giấy chứng nhận
Quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất số BĐ
668335, vào sổ cấp GCN số CH00270 do UBND quận Thanh Xuân, thành phố
Hà Nội cấp ngày 29/12/2010 mang tên bà Nguyễn Thị H để thu hồi khoản nợ lãi
cho Ngân hàng.
Số tiền thu được từ việc xử lý tài sản thế chấp chưa thanh toán hết khoản
nợ trên thì bà H phải tiếp tục trả hết nợ cho Ngân hàng
[4]. Kể từ ngày tiếp theo của ngày xét xử sơ thẩm, bà Nguyễn Thị H còn
phải tiếp tục chịu khoản tiền lãi quá hạn của số tiền nợ gốc chưa thanh toán theo
mức lãi suất các bên đã thỏa thuận trong hợp đồng tín dụng cho đến khi thi hành
xong khoản nợ gốc. Trường hợp trong hợp đồng tín dụng, các bên có thỏa thuận
về việc điều chỉnh lãi suất cho vay theo từng thời kỳ của Ngân hàng cho vay thì
lãi suất mà khách hàng vay phải tiếp tục thanh toán cho Ngân hàng cho vay theo
13
quyết định của Tòa án cũng sẽ được điều chỉnh cho phù hợp với sự điều chỉnh
lãi suất của Ngân hàng cho vay.
[5]. Về án phí: Bà Nguyễn Thị H được miễn án phí kinh doanh thương mại
sơ thẩm
Hoàn trả Ngân hàng Thương mại cổ phần V số tiền tạm ứng án phí
56.833.000 đồng đã nộp theo Biên lai thu tiền tạm ứng án phí số 0036981 ngày
06/01/2025 của Chi cục thi hành án dân sự quận Thanh Xuân nay là Phòng thi
hành án dân sự khu vực 2 - Hà Nội
Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại điều 2
Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành
án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện
thi hành án, hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7 và 9
Luật thi hành án dân sự; Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại
Điều 30 Luật thi hành án dân sự.
[6]. Về quyền kháng cáo: Nguyên đơn có quyền kháng cáo bản án trong
hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm.
Bị đơn, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo bản
án trong hạn 15 ngày kể từ ngày được tống đạt (hoặc niêm yết) bản án sơ thẩm.
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ SƠ THẨM
Nơi nhận : THẨM PHÁN - CHỦ TỌA PHIÊN TOÀ
- Người tham gia tố tụng
- VKSND khu vực 2- Hà Nội
- TAND T.P Hà Nội
- VKSND khu vực 2- Hà Nội
- Phòng THA dân sự khu vực 2- Hà Nội
- Lưu hồ sơ vụ án Đỗ Thị Diệu Thúy
14
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ SƠ THẨM
Nơi nhận : THẨM PHÁN – CHỦ TỌA PHIÊN
TÒA
- Người tham gia tố tụng
- VKSND Q. Hoàng Mai
- TAND T.P Hà Nội
- VKSND T.P Hà Nội
- Chi cục THADS quận Hoàng Mai
- Lưu hồ sơ vụ án
Đỗ Thị Diệu Thúy
Tải về
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án/ Quyết định cùng đối tượng
1
Ban hành: 30/10/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
2
Ban hành: 29/10/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
3
Ban hành: 28/10/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
4
Ban hành: 26/10/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
5
Ban hành: 23/10/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
6
Ban hành: 23/10/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
7
Ban hành: 22/10/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
8
Ban hành: 17/10/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
9
Ban hành: 17/10/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
10
Ban hành: 08/10/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
11
Ban hành: 07/10/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
12
Ban hành: 30/09/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
13
Ban hành: 30/09/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
14
Ban hành: 30/09/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
15
Ban hành: 30/09/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
16
Ban hành: 30/09/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
17
Ban hành: 30/09/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
18
Ban hành: 30/09/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
19
Ban hành: 30/09/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm