Bản án số 72/2021/HS-ST ngày 05/08/2021 của TAND huyện Yên Mô, tỉnh Ninh Bình về tội tàng trữ trái phép chất ma tuý
- Thuộc tính
- Nội dung
- VB gốc
- VB liên quan
- Lược đồ
- Đính chính
- Án lệ
- BA/QĐ cùng tội danh
- Tải về
-
Bản án số 72/2021/HS-ST
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Thuộc tính Bản án 72/2021/HS-ST
Tên Bản án: | Bản án số 72/2021/HS-ST ngày 05/08/2021 của TAND huyện Yên Mô, tỉnh Ninh Bình về tội tàng trữ trái phép chất ma tuý |
---|---|
Tội danh: | |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Tòa án xét xử: | TAND huyện Yên Mô (TAND tỉnh Ninh Bình) |
Số hiệu: | 72/2021/HS-ST |
Loại văn bản: | Bản án |
Ngày ban hành: | 05/08/2021 |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Áp dụng án lệ: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Đính chính: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Thông tin về vụ án: |
Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!
Tải văn bản
TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN N, TỈNH NINH BÌNH
BẢN ÁN 72 /2021/HS-ST NGÀY 05/08/2021 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TUÝ
Ngày 05 tháng 8 năm 2021, tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện N, tỉnh Ninh Bình xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số 65/2021/HS-ST ngày 09 tháng 7 năm 2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 66/2021/QĐXXST-HS ngày 23 tháng 7 năm 2021 đối với bị cáo:
Bùi Văn H, sinh năm 1981 tại tỉnh Ninh Bình; Nơi cư trú: Thôn L, xã Đ, huyện N, tỉnh Ninh Bình; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa: 7/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; con ông Bùi Trọng K và bà Nguyễn Thị C; có vợ là Đặng Thị N, sinh năm 1978 (đã ly hôn) và có 02 con, con lớn sinh năm 2001, con nhỏ sinh năm 2002; tiền án, tiền sự: không; lịch sử bản thân: Ngày 12/7/2005 bị Công an huyện N xử phạt 100.000 đồng về hành vi sử dụng trái phép chất ma túy; Ngày 18/5/2005 Uỷ ban nhân dân huyện N ra quyết định đưa vào cơ sở chữa bệnh bắt buộc; Ngày 21/4/2009 bị Tòa án nhân dân huyện N phạt 07 năm tù về tội Mua bán trái phép chất ma túy. Đã chấp hành xong bản án.
Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 08/5/2021 đến ngày 17/5/2021 chuyển tạm giam. Hiện đang bị tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Ninh Bình (Có mặt).
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
Bà Nguyễn Thị C, sinh năm 1951. Địa chỉ: Thôn L, xã Đ, huyện N, tỉnh Ninh Bình (Có mặt).
Người làm chứng:
- Anh Nguyễn Văn T, sinh năm 1959 (Vắng mặt).
- Anh Trần Văn H, sinh năm 1954 (Vắng mặt).
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Bùi Văn H là người nghiện ma túy, loại Heroine. Khoảng 17 giờ ngày 08/5/2021, H một mình đạp xe đạp từ nhà đến bến xe khách huyện N để tìm mua ma túy thì nhìn thấy 01 người nam giới (H không biết tên, tuổi, địa chỉ) trông giống người nghiện đang đứng ở đó nên H đi lại gần người nam giới và hỏi “anh có hàng không bán cho em hai trăm” - Ý H hỏi có ma túy bán không, người nam giới trả lời “Có đưa tiền đây”, H lấy trong túi quần phía sau bên phải đang mặc 200.000 đồng đưa cho người nam giới, người này cầm tiền rồi đưa cho H 01 gói nhỏ được gói ngoài bằng giấy bạc mầu vàng, bên trong có chất bột dạng cục mầu trắng, H kiểm tra xác định là ma túy nên bỏ vào túi quần phía trước bên phải đang mặc rồi đi xe tìm nơi sử dụng. Người bán ma túy cũng đi luôn. H điều khiển xe đến khu vực đường Quốc lộ 12B thuộc địa phận thôn P, xã Đ, huyện N thì gặp Tổ công tác Công an xã Đ làm nhiệm vụ tuần tra đi đến áp sát và yêu cầu H dừng xe để kiểm tra. H dừng xe, biết không thể che giấu được việc cất giấu trái phép chất ma túy nên đã tự giác lấy gói ma túy ở túi quần phía trước bên phải đang mặc ra giao nộp cho tổ công tác. Bùi Văn H khai nhận 01 túi ma túy loại Heroine vừa mua về mục đích sử dụng. Tổ công tác đã thu giữ 01 gói Heroine được gói ngoài bằng giấy bạc mầu vàng bên trong có chứa chất bột dạng cục màu trắng. Ngoài ra còn thu giữ của H 01 chiếc xe đạp màu trắng nhãn hiệu ASAMA.
Cân xác định khối lượng chất dạng cục màu trắng chứa trong gói nhỏ gói bằng giấy bạc mầu vàng thu giữ của Bùi Văn H có khối lượng 0,15gam ký hiệu M để gửi trưng cầu giám định về khối lượng và loại chất ma túy.
Tại bản kết luận giám định số 366/KLGĐ-PC09-MT ngày 15/5/2021 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Ninh Bình kết luận:“Mẫu chất bột dạng cục mầu trắng ký hiệu M gửi giám định có khối lượng 0,1465 (Không phẩy một nghìn bốn trăm sáu mươi lăm ) gam là ma túy, loại Heroine.
Heroine là chất ma túy thuộc bảng Danh mục I, có số thứ tự 9; Nghị định số 73/2018/NĐ-CP ngày 15/05/2018 của Chính phủ”.
Tại bản Cáo trạng số 67/CT-VKSNQ ngày 07/7/2021, Viện kiểm sát nhân dân huyện N, tỉnh Ninh Bình đã truy tố bị cáo Bùi Văn H ra trước Toà án nhân dân huyện N để xét xử về tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý”, theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự.
Tại phiên tòa đại diện Viện kiểm sát đề nghị: Tuyên bố bị cáo Bùi Văn H phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý”.
Áp dụng: điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự xử phạt Bùi Văn H từ 15 tháng tù đến 18 tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị cáo bị bắt tạm giữ 08/5/2021.
Không áp dung hình phạt bổ sung đối với bị cáo.
Về xử lý vật chứng: Căn cứ khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự; Điều 47 Bộ luật Hình sự.
Tịch thu tiêu hủy 0,0832 (Không phẩy không nghìn tám trăm ba mươi hai) gam còn lại trong mẫu M là ma túy loại Heroine, toàn bộ vỏ, bao gói niêm phong, tất cả được niêm phong trong một phong bì ghi số 366/KLGĐ-PC09-MT theo quy định của pháp luật.
Tại phiên tòa, bị cáo thừa nhận đã thực hiện hành vi tàng trữ ma túy như bản cáo trạng đã nêu, nhất trí với luận tội của Kiểm sát viên và xin giảm nhẹ hình phạt.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1]. Quá trình điều tra, truy tố, xét xử Điều tra viên, Kiểm sát viên đã ra các quyết định tố tụng; thực hiện đúng, đầy đủ các hành vi tố tụng theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự; các chứng cứ, tài liệu do Cơ quan điều tra, Điều tra viên, Viện kiểm sát, Kiểm sát viên thu thập; người tham gia tố tụng cung cấp đều hợp pháp.
[2]. Tại phiên tòa, bị cáo Bùi Văn H khai và thừa nhận: Khoảng 17 giờ ngày 08/5/2021, tại khu vực đường Quốc lộ 12B thuộc địa phận thôn P, xã Đ, huyện N bị cáo Bùi Văn H có hành vi cất giấu trái phép 01 gói ma túy, loại Herone có khối lượng 0,1465 gam nhằm mục đích sử dụng cho bản thân. Lời khai của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với chính lời khai của bị cáo trong quá trình điều tra, phù hợp với lời khai của người làm chứng và biên bản bắt người phạm tội quả tang ngày 08 tháng 5 năm 2021, kết luận giám định cùng các chứng cứ khác đã được xem xét công khai tại phiên toà. Hội đồng xét xử kết luận: bị cáo Bùi Văn H phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự.
[3]. Tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng trách nhiệm hình sự: Trong quá trình Điều tra, truy tố xét xử bị cáo thành khẩn khai báo bị cáo, có bố đẻ là người có công với cách mạng nên bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự. Bị cáo Bùi Văn H, không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.
[4]. Hình phạt: Căn cứ quy định của Bộ luật Hình sự, cân nhắc tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội; tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nhân thân bị cáo. Hội xét xử thấy, tại phiên tòa Kiểm sát viên đề nghị áp dụng tội danh, loại, mức hình phạt đối với bị cáo là phù hợp, cần phải xử phạt bị cáo mức hình phạt tương xứng với tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội mà bị cáo gây ra theo quy định tại khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự, phải cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian để tạo điều kiện cho bị cáo học tập thành người công dân có ích cho gia đình, xã hội.
[5]. Về xử lý vật chứng: 01 (một) phong bì niêm phong theo quy định của pháp luật là mẫu vật hoàn trả theo kết luận giám định số 366/KLGĐ-PC09-MT ngày 15/5/2021, bên trong có khối lượng chất bột dạng cục mầu trắng ký hiệu M là 0,0832gam là ma túy loại Heroine là chất nhà nước cấm lưu hành và toàn bộ vỏ gói, bao gói niêm phong không có giá trị sử dụng nên tịch thu tiêu hủy.
Đối với chiếc xe đạp nhãn hiệu ASMA màu trắng, xe đã qua sử dụng thu giữ của Bùi Văn H. Quá trình điều tra đã xác định chiếc xe đó của bà Nguyễn Thị C là mẹ đẻ của Bùi Văn H. Việc H dùng chiếc xe đạp này thực hiện hành vi phạm tội bà C không biết nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện N đã trả lại cho bà C là phù hợp.
[6]. Trong vụ án có một người đàn ông đã bán ma túy cho bị cáo, quá trình điều tra không xác định được tên, tuổi, địa chỉ của người đã bán Heroine cho Bùi Văn H nên không đủ căn cứ để xử lý theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên:
QUYẾT ĐỊNH:
1. Tuyên bố bị cáo Bùi Văn H phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý”.
2. Áp dụng: Điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự.
Xử phạt bị cáo Bùi Văn H 18 (Mười tám) tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị cáo bị bắt tạm giữ 08/5/2021.
3. Về xử lý vật chứng Căn cứ: Khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự; Điều 47 Bộ luật Hình sự.
Tịch thu tiêu hủy 01 (một) phong bì niêm phong theo quy định của pháp luật là mẫu vật hoàn trả theo kết luận giám định số 366/KLGĐ-PC09-MT ngày 15/5/2021, bên trong có khối lượng chất bột dạng cục mầu trắng ký hiệu M là 0,0832gam là ma túy loại Heroine và toàn bộ vỏ gói, bao gói niêm phong.
(Cụ thể chi tiết vật chứng theo biên bản giao nhận vật chứng giữa Công an huyện N và Chi cục thi hành án dân sự huyện N ngày 08/7/2021).
4. Về án phí hình sự sơ thẩm Căn cứ: Khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; Điều 6; khoản 1 Điều 21; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về án phí, lệ phí Toà án.
Buộc bị cáo Bùi Văn H phải nộp án phí hình sự sơ thẩm là 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng).
Án xử sở thẩm công khai, bị cáo, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án.
“Trường hợp bản án, Quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án”.
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!