Bản án số 682/2020/HS-PT ngày 11/09/2020 của TAND TP. Hà Nội về tội vi phạm quy định tham gia giao thông đường bộ

  • Thuộc tính
  • Nội dung
  • VB gốc
  • VB liên quan
  • Lược đồ
  • Đính chính
  • Án lệ
  • BA/QĐ cùng tội danh
  • Tải về
Mục lục
Tải văn bản
Báo lỗi
  • Gửi liên kết tới Email
  • Chia sẻ:
  • Chế độ xem: Sáng | Tối
  • Thay đổi cỡ chữ:
    17

Thuộc tính Bản án 682/2020/HS-PT

Tên Bản án: Bản án số 682/2020/HS-PT ngày 11/09/2020 của TAND TP. Hà Nội về tội vi phạm quy định tham gia giao thông đường bộ
Tội danh:
Cấp xét xử: Phúc thẩm
Tòa án xét xử: TAND TP. Hà Nội
Số hiệu: 682/2020/HS-PT
Loại văn bản: Bản án
Ngày ban hành: 11/09/2020
Lĩnh vực: Hình sự
Áp dụng án lệ:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Đính chính:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Thông tin về vụ án:
Tóm tắt Bản án

Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!

Tải văn bản

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HÀ NỘI

BẢN ÁN 682/2020/HS-PT NGÀY 11/09/2020 VỀ TỘI VI PHẠM QUY ĐỊNH THAM GIA GIAO THÔNG ĐƯỜNG BỘ

Ngày 11/9/2020, tại Tòa án thành phố Hà Nội xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 625 ngày 01/8/2020; Do có kháng cáo của bị cáo Nguyễn Cao N; Đối với Bản án hình sự sơ thẩm số: 60/2020/HS-ST ngày 10/6/2020 của Tòa án nhân dân huyện S, thành phố Hà Nội.

Bị cáo có kháng cáo: Nguyễn Cao N, sinh năm 1968; Nơi ĐKHKTT. Thôn D, xã V, huyện Đ, thành phố Hà Nội; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ học vấn: 10/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Nguyễn C, đã chết và bà Ngô Thị N, sinh năm 1930; Vợ: Phạm T, sinh năm 1969; Có 02 con sinh 1993 và 1998; Tiền án, tiền sự: Không; Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 09/12/2019 đến ngày 18/12/2019 tại ngoại (Có mặt).

Những người tham gia tố tụng không kháng cáo, không bị kháng cáo, kháng nghị:

Người bị hại: Bà Nguyễn Thị Th, sinh năm 1932; nơi cư trú: Khối A, xã P, huyện S, thành phố Hà Nội (đã chết).

Đại diện hợp pháp của bị hại: Anh Trần Văn D và 06 người khác.

NỘI DUNG VỤ ÁN:

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 14 giờ 30 ngày 09/12/2019, bị cáo Nguyễn Cao N điều khiển xe ô tô BKS 29C- 628… (Trên xe chở vợ chị Phạm Thị Ng ngồi nghế phụ cùng hai con), đi trên Quốc Lộ 03. Bị cáo điều khiến xe ô tô qua cầu P sang địa phận huyện S, do không làm chủ tay lái bị cáo để xe lao sang đường bên trái đâm vào bà Th đang ngồi trước cửa nhà; Làm bà Th chết tại chỗ. Sau khi tai nạn xảy ra, bị cáo xuống bế bà Th định đưa đi cấp cứu nhưng thấy bà Th đã chết, bị cáo báo cho gia đình bà Th biết, đến 04 giờ 30 phút ngày 09/12/2019 bị cáo ra đầu thú tại Công an huyện S, thành phố Hà Nội khai nhận hành vi phạm tội.

Biên bản khám nghiệm hiện trường xác định như sau:

Vị trí xe ô tô BKS 29C- 628... nằm bên phần đường bên trái (Chiều Hà Nội - Thái Nguyên) đầu xe hướng Hà Nội - Thái Nguyên, đầu xe chếch bên trái, đuôi xe bên phải đường, mặt ngoài tâm trục bánh trước bên phải xe ô tô đo vào mép đường là 2m 14cm, mặt ngoài tâm trục bánh sau bên phải đo vào mép đường là 01,1m, từ tâm trục bánh trước bên phải về hướng Hà Nội 76,4m là cột mốc KM 17+ 300.

Vùng vỡ tại hiện trường trước đầu xe ô tô 29C- 62... trên lề đường bên trái theo hướng Hà Nội - Thái Nguyên có kích thước 2,6m X 02 mét tâm vùng vỡ đo vào mép đường là 3,2m từ vùng vỡ đo về hướng Thái Nguyên 01 mét là vị trí vũng dung dịch máu hồng KT 0,35m X 0,2m tâm vùng dịch đo vào mép đường là 4,2m cách mếp tường nhà bà Th 2,7m. Trên mặt đường để lại dấu vết trượt do bánh lăn bên trái xe ô tô để lại trên lề đường là dập nát cây cối dài 13,6m, rộng 0,55m vết trượt hướng Hà Nội - Thái Nguyên. Trên thân cây xanh có vết xước KT chu vi 3,8m từ thân cây vào mép đường là 4,2m.

Kết quả khám nghiệm tử thi (khám ngoài) ghi nhận: Vùng đầu, mặt: Biến dạng vùng đầu mặt, sây sát toàn bộ vùng mặt bên phải KT 17cm X 11cm; Gãy xương hàm trên, hàm dưới; Hai lỗ tai có nhiều máu chảy ra; Hai lỗ mũi, miệng có dịch; Sây sát ra vùng cổ, ngực phải, vai phải trên diện 23 x25 cm trên vết sây sát có hai vết rách da, rách vùng cổ KT 08 x 05 cm; Vùng vai phải KT 11 X 06cm. Qua vết rách thấy gẫy xương bả vai phải. Tay phải sây sát mặt sau khuỷ tay KT 1cm x l,5cm; Biến dạng 1/3 dưới xương cánh tay và bả vai phải KT 15 X 12cm; Chân phải sây sát bầm tím bẹn phải KT 38cm X 20cm; Biến dạng 1/3 xương đùi. Về phần khám trong, gia đình nạn nhân cản trở nên Cơ quan điều tra không tiến hành mổ tử thi.

Kết quả khảm dấu vết trên xe ô tô BKS 29C – 628...: Tại mặt ngoài các bộ phận đầu xe gồm nắp capo, cụm đèn chiếu sáng, ba đờ sốc, mặt galăng có dấu vết trượt miết sơn, móp kìm loại, rách vỡ nhựa, dấu vết cỏ chiều từ trước về sau, từ phải sang trải KT 155 X 95cm; Tại mặt ngoài góc ba đờ sốc phía trước bên trái có vết trượt mất sơn, rách nhựa. Trên bề mặt cỏ để lại dung dịch mầu nâu dạng máu khô KT 10 X 5cm; Mặt ngoài tai xe phía trước bên trái có vết bong sơn, móp kim loại KT 10 X 5cm; Mặt ngoài tai xe phía trước bên trái có vết miết bong sơn, móp kim loại KT 72 X 3lcm; Tại mặt ngoài cảnh cửa lên xuống phía trước bên trái có vết trượt miết sơn KT 54 X 18cm; mặt ngoài ốp gương chiếu hậu bên trái có dấu trượt trên bề mặt để lại dấu yết mầu sơn xanh KT 18 X 9cm.

Giấy chứng nhận đăng kiểm xe an toàn kỹ thuật và bảo vệ môi trường phương tiện giao thông cơ giới đường bộ. Tháo, thu giữ, kiểm tra Camera hành trình có ghi lại thời gian, hình ảnh xảy tai nạn.

Sau khi xảy ra tai nạn, bị cáo đã đến thăm viếng nạn nhân, hai bên đã tự thỏa thuận và đại diện hợp pháp của người bị hại không yêu cầu bồi thường.

Cáo trạng số: 25 ngày 03/3/2020 của Viện kiểm sát nhân dân huyện S, thành phố Hà Nội truy tố bị cáo Nguyễn Cao N về tội “Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ” theo điểm a khoản 1 Điều 260 Bộ luật hình sự.

Tại Bản án hình sự sơ thẩm số: 60 ngày 10/6/2020 của Tòa án nhân dân huyện S, thành phố Hà Nội quyết định:

Tuyên bố bị cáo Nguyễn Cao N phạm tội “Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ”.

Áp dụng: Điểm a khoản 1 Điều 260; điểm b, s khoản 1, 2 Điều 51, Điều 54, Điều 38, Điều 48 Bộ luật Hình sự; Các điều 106, 135, 333, 337 Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH ngày 30/12/2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội quy định về án phí, lệ phí Toà án xử phạt bị cáo:

Nguyễn Cao N 08 tháng tù về tội “Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ”. Thời hạn tù tính từ ngày bắt thi hành án, được trừ thời gian tạm giữ từ ngày 09/12/2019 đến ngày 18/12/2019.

Ngoài ra bản án còn quyết định ghi nhận về bồi thường dân sự, xử lý vật chứng, án phí và quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Sau khi xét xử sơ thẩm, ngày 12/6/2020 bị cáo kháng cáo xin hưởng án treo.

Tại phiên tòa phúc thẩm:

- Bị cáo giữ nguyên yêu cầu kháng cáo xin được hưởng án treo.

- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hà Nội tham gia phiên tòa phát biểu quan điểm giải quyết vụ án: Bị cáo nộp đơn kháng cáo trong thời hạn luật định, đề nghị Hội đồng xét xử cấp phúc thẩm chấp nhận giải quyết yêu cầu kháng cáo của bị cáo theo trình tự phúc thẩm. Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng: Điểm b khoản 1 Điều 355 và điểm e khoản 1 Điều 357 của Bộ luật tố tụng hình. Sửa án Bản hình sự sơ thẩm số: 60 ngày 10/6/2020 của Toà án nhân dân huyện S, thành phố Hà Nội.

Tuyên bố bị cáo Nguyễn Cao N phạm tội “Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ”.

Áp dụng: Điểm a khoản 1 Điều 260; Điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 54, Điều 65 Bộ luật hình sự xử phạt bị cáo: Nguyễn Cao N 08 tháng tù, cho hưởng án treo thời gian thử thách 16 tháng tính từ ngày tuyên án phúc thẩm. Giao bị cáo cho UBND nơi cư trú giám sát và giáo dục trong thời gian thử thách.

Bị cáo không tham gia tranh luận mà chỉ xin được hưởng án treo.

NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ:

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định sau:

[1] Về hình thức: Đơn kháng cáo của bị cáo đảm bảo hình thức, thời hạn, đủ điều kiện giải quyết theo trình tự phúc thẩm.

[2] Xét nội dung kháng cáo: Căn cứ lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, tại phiên tòa sơ thẩm, cũng như tại phiên tòa phúc thẩm và các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án, có đủ cơ sở để kết luận:

Khoảng 15h 10 phút ngày 08/12/2019 bị cáo Nguyễn Cao N (Có gấy phép lái xe theo quy định) điều khiền xe ô tô BKS 29C - 628. .. lưu thông trên đường Quốc lộ 3 chiều Hà Nội - Thái Nguyên. Khi đi qua Km 17+ 300 Quốc lộ 03 thuộc địa phận Khối A, xã P, huyện S, thành phố Hà Nội, do không làm chủ tay lái dẫn đến xe ô tô do bị cáo điều khiển lao sang bên trái, vượt lên vỉa hè bên trái đâm vào bà Nguyễn Thị Th làm bà Th chết tại chỗ.

Với hành vi và hậu quả như trên, Bản án sơ thẩm đã xử bị cáo về tội “Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ" theo điểm a khoản 1 Điều 260 Bộ luật hình sự là có căn cứ và đúng pháp luật.

[3] Xét kháng cáo xin hưởng án treo của bị cáo, Hội đồng xét xử xét thấy: Bị cáo là người lao động chân chính, không có tiền án, tiền sự thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, đã bồi thường cho gia đình bị hại, gia đình bị hại xin miễn trách nhiệm hình sự. Sau khi vụ án xảy ra bị cáo đã bế bị hại đi cấp cứu nhưng biết bị hại đã chết, bị cáo đã báo cho gia đình bị hại đồng thời đến công an đầu thú. Tại phiên tòa phúc thẩm bị cáo có thêm tình tiết giảm nhẹ mới chưa được xem xét tại cấp sơ thẩm đó là bố và anh trai bị cáo được tặng thưởng huân, huy chương kháng chiến. Chính quyền địa phương xác nhận bị cáo là công dân tốt, có nơi cư trú cụ thể, rõ ràng. Xét thấy bị cáo đủ điều kiện được hưởng án treo theo quy định tại Điều 65 của Bộ luật hình sự và Nghị quyết số 02 ngày 15/5/2018 của Hội đồng Thẩm phán TAND tối cao hướng dẫn áp dụng Điều 65 Bộ luật hình sự về án treo. Bị cáo có khả năng tự cải tạo tại địa phương, việc cho bị cáo hưởng án treo không gây nguy hiểm cho xã hội; không ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội. Tại phiên tòa đại diện Viện kiểm sát cũng đề nghị cho bị cáo được hưởng án treo, xét đề nghị của Viện kiểm sát tại phiên tòa là có căn cứ, đúng pháp luật. Do vậy, xét thấy không cần thiết phải cách ly các bị cáo ra khỏi đời sống xã hội, mà cho bị cáo cải tạo tại địa phương vẫn đảm bảo tính răn đe, giáo dục đối với bị cáo, đồng thời cũng thể hiện sự khoan hồng của pháp luật.

Bị cáo không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.

[4] Các quyết định khác của Bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật, kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH:

Căn cứ điểm b khoản 1 Điều 355 và điểm e khoản 1 Điều 357 Bộ luật tố tụng hình sự:

1. Chấp nhận kháng cáo của bị cáo Nguyễn Cao N.

2. Sửa Bản án hình sự sơ thẩm số: 60 ngày 10/6/2020 của Tòa án nhân dân huyện S, thành phố Hà Nội về hình phạt.

Tuyên bố bị cáo Nguyễn Cao N phạm tội “Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ”.

Áp dụng: Điểm a khoản 1 Điều 260; điểm b, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51, Điều 65 Bộ luật hình sự. Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết số: 326, ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án xử phạt bị cáo:

Nguyễn Cao N 08 tháng tù cho hưởng án treo. Thời gian thử thách là 16 tháng tính từ ngày tuyên án phúc thẩm.

Giao bị cáo cho Ủy ban nhân dân xã Dục Nội, huyện Đông Anh, thành phố Hà Nội để giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách. Trong trường hợp bị cáo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định của Luật Thi hành án hình sự. Trong thời gian thử thách, người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ 02 lần trở lên thì Tòa án có thể quyết định buộc người được hưởng án treo phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo.

Bị cáo không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.

3. Các quyết định của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo kháng nghị.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực kể từ ngày tuyên án.

Tải về
Bản án số 682/2020/HS-PT Bản án số 682/2020/HS-PT

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án/ Quyết định cùng đối tượng

Bản án cùng lĩnh vực

Bản án mới nhất