Bản án số 618/2024/DS-PT ngày 05/12/2024 của TAND tỉnh Bến Tre về tranh chấp hợp đồng chuyển đổi quyền sử dụng đất
- Thuộc tính
- Nội dung
- VB gốc
- VB liên quan
- Lược đồ
- Đính chính
- Án lệ
- BA/QĐ cùng nội dung
- Tải về
Tải văn bản
-
Bản án số 618/2024/DS-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
-
Bản án số 618/2024/DS-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Báo lỗi
Thuộc tính Bản án 618/2024/DS-PT
Tên Bản án: | Bản án số 618/2024/DS-PT ngày 05/12/2024 của TAND tỉnh Bến Tre về tranh chấp hợp đồng chuyển đổi quyền sử dụng đất |
---|---|
Quan hệ pháp luật: | Tranh chấp hợp đồng chuyển đổi quyền sử dụng đất |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Tòa án xét xử: | TAND tỉnh Bến Tre |
Số hiệu: | 618/2024/DS-PT |
Loại văn bản: | Bản án |
Ngày ban hành: | 05/12/2024 |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Áp dụng án lệ: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Đính chính: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Thông tin về vụ/việc: | Ông Lâm Văn D tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất với bà Bùi Kim C |
Tóm tắt Bản án
Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!
Tải văn bản

1
TÒA ÁN NHÂN DÂN CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TỈNH BẾN TRE Độc lập – Tự do – Hạnh phúc
Bản án số: 618/2024/DS-PT
Ngày: 05/12/2024
V/v “Tranh chấp hợp đồng
chuyển nhượng quyền sử dụng đất”
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH BẾN TRE
- Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa: Bà Nguyễn Thị Rẻn
Các Thẩm phán: Ông Phan Thanh Tòng
Ông Lê Văn Phận
- Thư ký phiên tòa: Ông Huỳnh Vũ Duy Thanh - Thư ký Tòa án nhân dân
tỉnh Bến Tre.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bến Tre tham gia phiên tòa:
Nguyễn Thị Thanh Thảo - Kiểm sát viên.
Ngày 05 tháng 12 năm 2024, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Bến Tre xét xử
phúc thẩm công khai vụ án thụ lý số 384/2024/TLPT-DS ngày 18 tháng 10 năm
2024 về tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất.
Do Bản án dân sự sơ thẩm số 75/2024/DS-ST ngày 07 tháng 8 năm 2024 của
Tòa án nhân dân huyện Châu Thành bị kháng cáo.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số 4471/2024/QĐ-PT ngày
12 tháng 11 năm 2024 giữa các đương sự:
1. Nguyên đơn:
1.1. Ông Lâm Văn D, sinh năm 1961
1.2. Bà Trần Thị Đ, sinh năm 1970
Cùng địa chỉ: Ấp L, xã H, huyện C, tỉnh Bến Tre.
Người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn: Ông Nguyễn Văn Đ1, sinh
năm 1994 (có mặt)
Địa chỉ: Số C, ấp M, xã M, thành phố B, tỉnh Bến Tre.
2
Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nguyên đơn: Luật sư Trương
Văn T – Văn phòng Luật sư Trương Văn T thuộc Đoàn Luật sư tỉnh B (có mặt)
2. Bị đơn: Bà Bùi Kim C, sinh năm 1965
Địa chỉ: Số A, Khu phố B, phường P, thành phố B, tỉnh Bến Tre.
Người đại diện theo ủy quyền của bị đơn: Bà Trần Thị Minh H, sinh năm
1979 (có mặt)
Địa chỉ: Số A T, Phường F, thành phố B, tỉnh Bến Tre.
3. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Ông Lâm Trần Bảo T1, sinh
năm 1999
Địa chỉ: Ấp H, xã H, huyện C, tỉnh Bến Tre.
4. Người kháng cáo: Nguyên đơn ông Lâm Văn D, bà Trần Thị Đ.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các đơn khởi kiện, trong quá trình tố tụng, cũng như tại phiên tòa sơ
thẩm, người đại diện theo ủy quyền cho nguyên đơn ông Nguyễn Văn Đ1 trình
bày:
Vào ngày 21/9/2022 ông D, bà Đ có chuyển nhượng cho bà C phần đất
thuộc thửa 505, tờ bản đồ số 16, diện tích 190,2 m
2
,đất tọa lạc tại ấp H, xã H,
huyện C, tỉnh Bến Tre. Hợp đồng được chứng thực tại Ủy ban nhân dân xã H
chuyển nhượng là 1.600.000.000 đồng (một tỷ sáu trăm triệu đồng) được ghi nhận
tại “Hợp đồng đặt cọc tiền chuyển nhượng quyền sử dụng và tài sản gắn liền với
đất vào ngày 21/9/2022” tại thời điểm ký tên chuyển nhượng ông D, bà Đ có nhận
trước số tiền 500.000.000 đồng (năm trăm triệu đồng), số còn lại là 1.100.000.000
đồng (một tỷ một trăm triệu đồng) sẽ nhận khi có thông báo thuế cho bà Bùi Kim
C. Sau khi có thông báo nộp thuế, bà C không trả tiền cho ông D và bà Đ, bà C
hứa hẹn khi được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất sẽ trả đủ tiền cho ông
D, bà Đ số tiền 1.100.000.000 đồng (một tỷ một trăm triệu đồng).
Ngày 14/10/2022 bà C được Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh B cấp giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất với số phát hành DH 096377 đối với thửa đất số
505, tờ bản đồ số 16, diện tích 190,2 m
2
, tọa lạc tại ấp H, xã H, huyện C, tỉnh Bến
Tre.
Từ khi bà C được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đến nay ông D, bà
Đ nhiều lần yêu cầu bà C thanh toán đủ số tiền chuyển nhượng đất còn lại nhưng
bà C cứ hứa hẹn hết lần này đến lần khác không chịu trả cho ông D, bà Đ bất cứ
khoản tiền nào.
3
Trước đây nguyên đơn yêu cầu bà C phải trả cho nguyên đơn số tiền
1.100.000.000 đồng (một tỷ một trăm triệu đồng) là tiền chuyển nhượng đối với
thửa đất số 505, tờ bản đồ số 16, diện tích 190,2 m
2
, tọa lạc tại ấp H, xã H, huyện
C, tỉnh Bến Tre. Đồng thời yêu cầu bà C phải có trách nhiệm trả lãi chậm trả do
thanh toán chậm, từ ngày 14/10/2022 đến ngày xét xử (tạm tính ngày 14/7/2023)
cụ thể như sau: 1.100.000.000 đồng x 9 tháng x 0,83%/tháng = 82.170.000 đồng
(tám mươi hai triệu một trăm bảy mươi nghìn đồng) đồng. Như vậy, tổng cộng số
tiền bà C phải trả cho ông D, bà Đ là 1.182.170.000 đồng (một tỷ một trăm tám
mươi hai triệu một trăm bảy mươi nghìn đồng) đồng. Tại phiên tòa sơ thẩm, người
đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn yêu cầu bà C phải hoàn trả 1.100.000.000
đồng (một tỷ một trăm triệu đồng) và phần lãi suất tính từ ngày 14/10/2022 đến
ngày xét xử là ngày 07/8/2024 là 19 tháng 23 ngày với số tiền lãi là 180.470.000
đồng (một trăm tám mươi triệu bốn trăm bảy mươi nghìn đồng), tổng cộng là
1.280.470.000 đồng (một tỷ hai trăm tám mươi triệu bốn trăm bảy mươi nghìn
đồng).
Trường hợp bà C không đồng ý, nguyên đơn yêu cầu hủy hợp đồng chuyển
nhượng quyền sử dụng đất đối với thửa đất số 505, tờ bản đồ số 16, diện tích 190,2
m
2
, tọa lạc tại ấp H, xã H, huyện C, tỉnh Bến Tre. Số tiền 500.000.000 đồng (năm
trăm triệu đồng) ông D, bà Đ không hoàn trả lại cho bà C.
Theo đơn phản tố ngày 23/02/2024, người đại diện theo ủy quyền của bị đơn
bà Trần Thị Minh H trình bày:
Đối với nội dung khởi kiện của ông D và bà Đ, bà C không đồng ý vì hoàn
toàn không đúng sự thật. Trước đây, ông D và bà Đ có thế chấp thửa đất số 505,
tờ bản đồ số 16, diện tích 190,2 m
2
, tọa lạc tại ấp H, xã H, huyện C, tỉnh Bến Tre
tại Ngân hàng TMCP Á – Chi nhánh B để vay 500.000.000 đồng (năm trăm triệu
đồng). Khi hết hạn trả ngày 16/9/2022 ông D bà Đ không có tiền để trả cho Ngân
hàng, thấy chỗ quen biết nên bà C có cho ông D, bà Đ mượn 500.000.000 đồng
(năm trăm triệu đồng) để thanh toán cho Ngân hàng. Khi cho mượn hai bên không
có làm biên nhận, nhưng để làm tin hai bên thỏa thuận là ngày 21/9/2022 vợ chồng
ông D, bà Đ ký hợp đồng chuyển nhượng thửa đất số 505, tờ bản đồ số 16 thì bà
C sẽ ký tên chuyển nhượng qua cho người mua, đồng thời ông D, bà Đ sẽ lấy tiền
bán đất trả cho bà C 500.000.000 đồng (năm trăm triệu đồng) cùng với lãi suất
hai bên thỏa thuận, ngày 14/10/2022 bà C được Sở T cấp giấy chứng nhận quyền
sử dụng đất.
Trong thời gian làm thủ tục sang tên thửa đất số 505 qua cho bà C đứng tên
để đảm bảo quyền lợi cho bà C đề phòng trường hợp ông D bà Đ không giữ lời
hứa trả tiền cho bà C nên bà C có yêu cầu ông D ký tên vào biên nhận ngày
09/10/2022 có mượn của bà C 500.000.000 đồng (năm trăm triệu đồng). Từ những
4
lý do nêu trên bà C có yêu cầu phản tố yêu cầu Tòa án giải quyết các vấn đề như
sau:
- Bà Bùi Kim C yêu cầu tuyên bố hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng
đất, quyền sở hữu nhà ở và các tài sản khác gắn liền với đất đã ký giữa bà C với
ông Lâm Văn D và bà Trần Thị Đ ngày 21/9/2022 là vô hiệu. Trên thực tế giữa
bà C với ông D, bà Đ không có mua bán đất với nhau. Hợp đồng chuyển nhượng
trên là đảm bảo quyền lợi của bà C phòng trường hợp ông D, bà Đ không trả tiền
vay. Trong hợp đồng chuyển nhượng chỉ ghi chuyển nhượng 100.000.000 đồng
(một trăm triệu đồng) không phải là 1.600.000.000 đồng (một tỷ sáu trăm triệu
đồng) như trong đơn khởi kiện của ông D, bà Đ.
- Trước đây bà C yêu cầu ông D, bà Đ phải liên đới trả cho bà C số tiền
500.000.000 đồng (năm trăm triệu đồng) cùng với lãi suất phát sinh là 67.780.000
đồng (sáu mươi bảy triệu bảy trăm tám mươi nghìn đồng). Tại phiên toà sơ thẩm,
người đại diện theo uỷ của bà C yêu cầu ông D bà Đ hoàn trả 500.000.000 đồng
(năm trăm triệu đồng) tiền vay, phần lãi chỉ yêu cầu là 16 tháng x 0,83% =
66.400.000 đồng (sáu mươi sáu triệu bốn trăm nghìn đồng).
Thời điểm ông D mượn số tiền 500.000.000 đồng (năm trăm triệu đồng) để
trả tiền ngân hàng, giữa bà C và ông D chưa ký biên nhận nợ. Ngày 09/10/2022
bà C yêu cầu ông D ký tên vào giấy mượn tiền để đảm bảo quyền lợi của mình.
Sau khi thực hiện thủ tục xoá thế chấp tại Ngân hàng hai bên tiến hành ký kết hợp
đồng chuyển nhượng, toàn bộ các giấy tờ ký kết đều do ông D soạn thảo.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là ông Lâm Trần Bảo T1 trình bày:
Ông T1 là con của ông D và bà Đ, hiện ông T1 đang ở căn nhà này và đất
này, nếu hợp đồng chuyển nhượng này thực hiện ông T1 sẽ di dời tài sản giao nhà
và đất cho bà Bùi Kim C.
Tại biên bản làm việc ngày 20/6/2024 người làm chứng ông Phan Văn T2
(Bé) trình bày:
Ông T2, ông D với bà C là người hàng xóm, ông T2 và ông D đi uống cà
phê, ông D có điện thoại cho bà C đến cùng uống cà phê, trong lúc ngồi uống cà
phê ông D có nói rằng ông D vay tiền ở Ngân hàng còn nợ 300.000.000 đồng (ba
trăm triệu đồng) không có tiền để trả, ông D nói với bà C cho ông D mượn số tiền
300.000.000 đồng (ba trăm triệu đồng) để trả Ngân hàng. Khi bà C cho ông D
mượn tiền hai bên không có làm giấy tờ nên ông T2 có yêu cầu bà C làm giấy nên
khi làm giấy ghi số tiền là 500.000.000 đồng (năm trăm triệu đồng) để ông D trả
tiền lãi cho Ngân hàng.
5
Khi bà C cho ông D mượn tiền hai bên không làm giấy nên ông T2 có ý kiến
với bà C nên bà C mới làm giấy mượn tiền sau đó, việc bà C giao cho ông D nhận
500.000.000 đồng (năm trăm triệu đồng) đây là tiền vay. Vì khi bà C giao cho ông
D nhận là có mặt ông T2 chứng kiến.
Còn việc chuyển nhượng đất giữa hai bên ông không nắm rõ về giấy tờ giữa
bà C với ông D đã làm và ký tên với nhau.
Do hòa giải không thành, Tòa án nhân dân huyện Châu Thành đưa vụ án ra
xét xử. Tại Bản án dân sự sơ thẩm số 75/2024/DS-ST ngày 07 tháng 8 năm 2024
của Tòa án nhân dân huyện Châu Thành đã tuyên xử:
1. Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Lâm Văn D, bà Trần Thị Đ
về việc yêu cầu bà Bùi Kim C phải trả tiếp cho ông bà số tiền chuyển nhượng đất
là 1.100.000.000 đồng (Một tỷ một trăm triệu đồng) và tiền lãi suất 180.470.000
(Một trăm tám mươi triệu bốn trăm bảy mươi nghìn đồng).
2. Chấp nhận yêu cầu phản tố của bà Bùi Kim C đối với ông Lâm Văn D, bà
Trần Thị Đ.
Buộc ông Lâm Văn D và bà Trần Thị Đ phải trả cho bà Bùi Kim C số tiền
vay là 566.400.000đ (Năm trăm sáu mươi sáu triệu bốn trăm ngàn) đồng. Trong
đó tiền vốn là 500.000.000đ (Năm trăm triệu) đồng và tiền lãi là: 66.400.000đ
(Sáu mươi sáu triệu bốn trăm nghìn) đồng.
3. Chấp nhận yêu cầu của bà Bùi Kim C tuyên bố hợp đồng chuyển nhượng
quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất ngày
21/9/2022 vô hiệu.
Kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật, ngày có đơn yêu cầu thi hành án
của người được thi hành án (đối với các khoản tiền phải trả cho người được thi
hành án) cho đến khi thi hành án xong tất cả các khoản tiền hàng tháng bên phải
thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức
lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 của Bộ luật dân sự năm 2015.
Kiến nghị cơ quan Nhà nước có thẩm quyền điều chỉnh giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất thuộc thửa số 505 tờ số 16 số vào sổ cấp GCN: DH 096377 do
Sở T cấp ngày 14/10/2022 từ bà Bùi Kim C sang cho ông Lâm Văn D và bà Trần
Thị Đ đất tại xã H, huyện C, tỉnh Bến Tre cho phù hợp.
Việc điều chỉnh giấy chứng nhận quyền sử dụng đất từ bà C sang cho ông D
và bà Đ được tiến hành song song khi ông D và bà Đ hoàn trả cho bà C số tiền
566.400.000đ (Năm trăm sáu mươi sáu triệu bốn trăm nghìn) đồng.
Ngoài ra, bản án còn tuyên về chi phí tố tụng, án phí và quyền kháng cáo của
các đương sự.
6
Ngày 14/8/2024 Toà án nhân dân huyện Châu Thành nhận được đơn kháng
cáo của nguyên đơn ông Lâm Văn D, bà Trần Thị Đ. Nội dung kháng cáo toàn bộ
Bản án dân sự sơ thẩm số 75/2024/DS-ST ngày 07 tháng 8 năm 2024 của Tòa án
nhân dân huyện Châu Thành. Yêu cầu cấp phúc thẩm sửa Bản án dân sự sơ thẩm
số 75/2024/DS-ST ngày 07 tháng 8 năm 2024 của Tòa án nhân dân huyện Châu
Thành theo hướng chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, không chấp nhận
yêu cầu phản tố của bị đơn.
Tại phiên tòa phúc thẩm:
Người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn trình bày: Thực tế các bên có
thực hiện việc chuyển nhượng quyền sử dụng đất, số tiền 500.000.000 đồng
nguyên đơn đã nhận là tiền đặt cọc chuyển nhượng thửa đất số 505, tờ bản đồ số
16. Trong hợp đồng đặt cọc đã thể hiện rõ số tiền chuyển nhượng các bên thỏa
thuận là 1.600.000.000 đồng và bị đơn đã liên hệ với chủ sử dụng thửa đất liền kề
để thỏa thuận ranh cho thấy bị đơn đã vào quản lý, sử dụng thửa đất số 505.
Nguyên đơn không có vay tiền của bị đơn. Đề nghị sửa Bản án dân sự sơ thẩm số
75/2024/DS-ST ngày 07 tháng 8 năm 2024 của Tòa án nhân dân huyện Châu
Thành theo hướng chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, không chấp nhận
yêu cầu phản tố của bị đơn.
Luật sư T trình bày: Có sự mâu thuẫn về thời gian, bị đơn trình bày nhận tiền
trước đến 18 ngày sau mới ghi biên nhận là không hợp lý. Việc vay tiền xảy ra
sau, hợp đồng chuyển nhượng được ký trước. Trong giấy biên nhận không thể
hiện việc tính ngày dương lịch hay âm lịch như bị đơn trình bày. Cấp sơ thẩm căn
cứ vào giấy biên nhận để chấp nhận yêu cầu phản tố của bị đơn là không phù hợp.
Đề nghị Hội đồng xét xử cấp phúc thẩm chấp nhận yêu cầu kháng cáo của nguyên
đơn.
Người đại diện theo ủy quyền của bị đơn trình bày: Không đồng ý với kháng
cáo của nguyên đơn, đề nghị giữ nguyên Bản án dân sự sơ thẩm số 75/2024/DS-
ST ngày 07 tháng 8 năm 2024 của Tòa án nhân dân huyện Châu Thành.
Các đương sự không thỏa thuận được nội dung giải quyết vụ án.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bến Tre tham gia phiên tòa phát ý
kiến như sau:
- Về tố tụng: Những người tiến hành tố tụng và người tham gia tố tụng đã
thực hiện các quyền và nghĩa vụ đúng quy định pháp luật tố tụng dân sự.
- Về quan điểm giải quyết vụ án: Đề nghị Toà án áp dụng khoản 1 Điều 308,
không chấp nhận kháng cáo của nguyên đơn ông Lâm Văn D, bà Trần Thị Đ. Giữ
7
nguyên Bản án dân sự sơ thẩm số 75/2024/DS-ST ngày 07 tháng 8 năm 2024 của
Tòa án nhân dân huyện Châu Thành.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, lời trình bày
của các đương sự, căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, ý kiến đề nghị của
Kiểm sát viên, xét kháng cáo của nguyên đơn ông Lâm Văn D, bà Trần Thị Đ;
Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Phần đất tranh chấp thuộc thửa đất số 505, tờ bản đồ số 16, diện tích
190,2 m
2
, tọa lạc tại xã H, huyện C, tỉnh Bến Tre. Phần đất này được Sở Tài
nguyên và Môi trường tỉnh B cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho bà Bùi
Kim C và hiện nay đang do con của nguyên đơn là ông Lâm Trần Bảo T1 quản
lý, sử dụng.
[2] Nguyên đơn căn cứ vào hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất và
hợp đồng đặt cọc ngày 21/9/2022 cho rằng giữa nguyên đơn và bị đơn có giao kết
hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất và bị đơn đã đặt cọc số tiền
500.000.000 đồng cho nguyên đơn, số tiền còn lại vẫn chưa thanh toán nên yêu
cầu bị đơn tiếp tục thực hiện theo thỏa thuận trả đủ số tiền còn lại và yêu cầu tính
lãi đối với số tiền chưa thanh toán này.
Bị đơn căn cứ vào văn bản viết tay “giấy biên nhận” đề ngày 09/10/2022 cho
rằng giữa hai bên không có chuyển nhượng quyền sử dụng đất mà chỉ có giao kết
hợp đồng vay mượn tiền. Hợp đồng đặt cọc, hợp đồng chuyển nhượng quyền sử
dụng đất là do nguyên đơn lập để làm tin cho việc trả tiền vay của bị đơn nên bị
đơn không đồng ý với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn. Số tiền 500.000.000
đồng mà nguyên đơn đã nhận là tiền vay theo “giấy biên nhận” đề ngày
09/10/2022. Vì vậy, bị đơn yêu cầu phản tố yêu cầu tuyên vô hiệu hợp đồng
chuyển nhượng quyền sử dụng đất đã giao kết giữa hai bên, yêu cầu nguyên đơn
trả cho bị đơn số tiền đã vay là 500.000.000 đồng và yêu cầu tính lãi đối vối số
tiền vay này.
[3] Xét hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất ngày 21/9/2022:
[3.1] Về hình thức:
Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất ngày 21/9/2022 được ký giữa
ông Lâm Văn D, bà Trần Thị Đ với bà Bùi Kim C có đầy đủ các nội dung được
quy định tại Điều 500, 501 Bộ luật Dân sự năm 2015. Hợp đồng này được chứng
thực tại Ủy ban nhân dân xã H, huyện C theo quy định tại Điều 167 Luật Đất đai
năm 2013 nên về hình thức hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa ông
D, bà Đ với bà C phù hợp với quy định pháp luật.
8
[3.2] Về nội dung:
Nội dung của hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất thể hiện các bên
thỏa thuận chuyển nhượng thửa đất số 505, tờ bản đồ số 16, diện tích 190,2 m
2
,
tọa lạc tại xã H, huyện C, tỉnh Bến Tre với giá 200.000.000 đồng. Trong đó, giá
trị quyền sử dụng đất là 100.000.000 đồng, giá trị quyền sở hữu nhà ở là
100.000.000 đồng. Giá chuyển nhượng này là không phù hợp với giá trị giao dịch,
chuyển nhượng quyền sử dụng đất thực tế tại địa phương.
Nguyên đơn cho rằng cùng ngày 21/9/2022 giữa ông D, bà Đ và bà C có lập
hợp đồng đặt cọc thỏa thuận chuyển nhượng quyền sử dụng đất thửa số 505, tờ
bản đồ số 16 với giá 1.600.000.000 đồng và bị đơn đã đặt cọc cho nguyên đơn
500.000.000 đồng, đây là sự thỏa thuận về giá trị thực tế của hợp đồng chuyển
nhượng quyền sử dụng đất của thửa đất số 505 và tài sản trên đất giữa hai bên.
Hợp đồng đặt cọc này được lập thành văn bản, pháp luật không quy định về việc
bắt buộc phải công chứng, chứng thực nên xét về hình thức thì hợp đồng đặt cọc
ngày 21/9/2022 đảm bảo về mặt hình thức theo quy định tại Điều 119, 328 của
Bộ luật dân sự. Tuy nhiên, về nội dung thì việc thỏa thuận giữa nguyên đơn và bị
đơn trong hợp đồng đặt cọc không được ghi trong hợp đồng chuyển nhượng. Và
việc thỏa thuận trong hợp đồng đặt cọc không phù hợp với nội dung thể hiện trong
hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất ngày 21/9/2022.
[3.3] Về quá trình giao nhận đất:
Trên thửa đất số 505 hiện nay do ông Lâm Trần Bảo T1 đang trực tiếp quản
lý, sử dụng, nguyên đơn cho rằng đã giao đất cho bị đơn nhưng người trực tiếp
quản lý, sử dụng từ trước đến nay là do con của nguyên đơn ông T1 sử dụng.
Nguyên đơn cho rằng việc ông T1 ở trên đất là do bị đơn cho phép, nhưng không
có chứng cứ chứng minh và bị đơn cũng không thừa nhận. Ngoài ra, tại biên bản
làm việc ngày 24/01/2024 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Châu Thành, nguyên
đơn cũng thừa nhận nội dung phần đất tranh chấp do nguyên đơn đang quản lý,
sử dụng. Do đó, có cơ sở xác định việc ông T1 ở trên đất không phải do bị đơn
cho phép như lời trình bày của nguyên đơn, cho nên không có cơ sở xác định các
bên đã tiến hành giao nhận đất.
[4] Bị đơn cho rằng không có chuyển nhượng quyền sử dụng đất, thực tế việc
chuyển nhượng chỉ là để đảm bảo cho khoản vay theo “giấy biên nhận” ngày
09/10/2022 giữa hai bên. Xét thấy, ông D có ký tên trong “giấy biên nhận” mượn
tiền và ông D xác nhận đã nhận của bà C 500.000.000 đồng. Nguyên đơn căn cứ
vào hợp đồng đặt cọc ngày 21/9/2022 cho rằng số tiền đã nhận là tiền đặt cọc
chuyển nhượng quyền sử dụng thửa đất số 505, tuy nhiên giá trị thể hiện trên hợp
đồng chuyển nhượng là 200.000.000 đồng cho nên căn cứ của nguyên đơn là
9
không phù hợp. Ngoài ra, tại biên bản làm việc với ông Phan Văn T2 (Bé) là bạn
của ông D, ông T2 trình bày: Ông T2 có biết việc ông D vay tiền ở Ngân hàng
nhưng không có khả năng chi trả nên mượn tiền của bà C để trả, sau đó bà C ghi
giấy nợ cho ông D ký, việc viết giấy nợ là do ông T2 đề nghị do lúc ông D hỏi
mượn tiền bà C thì chỉ nói miệng và ông T2 có mặt ở đó nên đề nghị viết giấy
mượn tiền để tránh rủi ro, đến khi bà C giao tiền cho ông D thì ông T2 cũng có
chứng kiến.
Qua đó, có cơ sở xác định nguyên đơn ông D có vay của bị đơn bà C số tiền
500.000.000 đồng theo “giấy biên nhận” ngày 09/10/2022. Giao dịch giữa ông D
bà C là giao dịch vay tiền, không phải là giao dịch chuyển nhượng quyền sử dụng
đất như nguyên đơn trình bày. Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất ngày
21/9/2022 là hợp đồng giả tạo để che giấu hợp đồng vay nên hợp đồng chuyển
nhượng nói trên vô hiệu theo quy định tại Điều 124 Bộ luật dân sự. Do đó, Cấp
sơ thẩm xác định yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn là không có cơ sở nên không
được chấp nhận là có căn cứ, phù hợp với quy định pháp luật.
[5] Về giải quyết hậu quả hợp đồng vô hiệu:
Do hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất vô hiệu nên căn cứ theo quy
định tại Điều 131 Bộ luật dân sự thì giao dịch dân sự vô hiệu không làm phát sinh,
thay đổi, chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự của các bên kể từ thời điểm giao dịch
được xác lập. Khi giao dịch dân sự vô hiệu thì các bên khôi phục lại tình trạng
ban đầu, hoàn trả cho nhau những gì đã nhận, bên có lỗi gây thiệt hại thì phải bồi
thường.
Do bà C chưa nhận đất nên không cần phải hoàn trả. Hiện tại bà Bùi Kim C
đang đứng tên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thửa 505, tờ bản đồ số 16. Do
đó, cần kiến nghị cơ quan Nhà nước có thẩm quyền điều chỉnh giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất số DH 096377 ngày 14/10/2022 từ bà Bùi Kim C sang cho ông
Lâm Văn D và bà Trần Thị Đ là phù hợp.
[6] Xét yêu cầu phản tố của bị đơn:
Do hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất ngày 21/9/2022 là hợp đồng
giả tạo để che giấu hợp đồng vay nên hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng
đất vô hiệu và hợp đồng vay là hợp đồng có hiệu lực. Do đó, bị đơn yêu cầu tuyên
bố hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất ngày 21/9/2022 vô hiệu là phù
hợp;
Nguyên đơn có nhận của bị đơn số tiền 500.000.000 đồng trên cơ sở “giấy
biên nhận” ngày 09/10/2022, đến nay nguyên đơn vẫn chưa thanh toán cho bị đơn
số tiền này nên bị đơn yêu cầu Toà án buộc ông D, bà Đ phải có trách nhiệm liên
10
đới trả cho bị đơn số tiền 500.000.000 đồng theo theo “giấy biên nhận” ngày
09/10/2022 là có căn cứ;
Về phần lãi suất, tại phiên tòa sơ thẩm bị đơn xác định yêu cầu tính lãi đối
với thời gian chậm thực hiện nghĩa vụ là 16 tháng và lãi suất là 0,83%/tháng.
Trong “giấy biên nhận” ngày 09/10/2022 các bên không có thỏa thuận về thời
gian trả nợ và lãi. Đối với móc thời gian bị đơn yêu cầu tính lãi là 16 tháng tính
từ ngày 09/10/2022, phần lãi suất là 0,83%/tháng. Xét thấy, yêu cầu tính lãi này
là phù hợp và phần lãi suất không vượt quá mức lãi suất quy định của pháp luật
nên có căn cứ chấp nhận;
Như vậy, ông D và bà Đ phải có trách nhiệm liên đới hoàn trả cho bà C số
tiền tổng cộng là 566.400.000 đồng trong đó nợ gốc là 500.000.000 đồng, tiền lãi
là 66.400.000 đồng.
Kháng cáo của nguyên đơn ông Lâm Văn D, bà Trần Thị Đ cũng như quan
điểm trình bày của người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nguyên đơn là
không có căn cứ nên không được chấp nhận, cần giữa nguyên Bản án dân sự sơ
thẩm số 75/2024/DS-ST ngày 07 tháng 8 năm 2024 của Tòa án nhân dân huyện
Châu Thành.
[7] Tuy nhiên, việc Hội đồng xét xử sơ thẩm quyết định nội dung “điều chỉnh
giấy quyền sử dụng đất từ bà C sang cho ông D và bà Đ được tiến hành song song
khi ông D và bà Đ hoàn trả cho bà C số tiền 566.400.000 đồng” là không cần thiết
và không có căn cứ pháp luật; Quyết định về phần án phí dân sự sơ thẩm phải nộp
của nguyên đơn là chưa phù hợp, cụ thể: ông Lâm Văn D, bà Trần Thị Đ có trách
nhiệm liên đới nộp số tiền án phí dân sự sơ thẩm là 26.956.000 đồng (Trong đó:
án phí dân sự sơ thẩm không có giá ngạch là 300.000 đồng và án phí dân sự sơ
thẩm có giá ngạch là 26.656.000 đồng). Ông D được miễn nộp án phí do ông D
thuộc diện người cao tuổi và có đơn xin miễn nộp án phí thì bà Đ vẫn phải nộp số
tiền án phí sơ thẩm là 26.956.000 đồng. Đối với các nội dung chưa phù hợp này,
Hội đồng xét xử sẽ có sự điều chỉnh cho phù hợp.
[8] Quan điểm của đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bến Tre là phù hợp
với nhận định của Hội đồng xét xử nên được chấp nhận.
[9] Án phí phúc thẩm: Do kháng cáo không được chấp nhận nên ông Lâm
Văn D, bà Trần Thị Đ phải chịu án phí theo quy định tại Nghị quyết số
326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về mức
thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
11
Căn cứ khoản 1 Điều 308 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.
Không chấp nhận kháng cáo của nguyên đơn ông Lâm Văn D, bà Trần Thị
Đ.
Giữ nguyên Bản án dân sự sơ thẩm số 75/2024/DS-ST ngày 07 tháng 8 năm
2024 của Tòa án nhân dân huyện Châu Thành (Nhưng có điều chỉnh về phần án
phí).
Áp dụng các Điều 116,124,131,468, Bộ luật Dân sự năm 2015; Điều 27 của
Luật Hôn nhân và gia đình; Điều 147 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015; Nghị
quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc
hội về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.
Tuyên xử:
1. Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Lâm Văn D, bà Trần Thị Đ
việc yêu cầu bà Bùi Kim C phải trả cho ông Lâm Văn D, bà Trần Thị Đ số tiền
chuyển nhượng đất còn nợ 1.100.000.000 đồng (một tỷ một trăm triệu đồng) và
tiền lãi 180.470.000 đồng (một trăm tám mươi triệu bốn trăm bảy mươi nghìn
đồng).
2. Chấp nhận yêu cầu phản tố của bà Bùi Kim C đối với ông Lâm Văn D, bà
Trần Thị Đ.
Buộc ông Lâm Văn D và bà Trần Thị Đ có trách nhiệm phải liên đới hoàn
trả cho bà C là 566.400.000 đồng (năm trăm sáu mươi sáu triệu bốn trăm nghìn
đồng).
Kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật, ngày có đơn yêu cầu thi hành án
của người được thi hành án (đối với các khoản tiền phải trả cho người được thi
hành án) cho đến khi thi hành án xong tất cả các khoản tiền hàng tháng bên phải
thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức
lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 của Bộ luật dân sự năm 2015.
3. Chấp nhận yêu cầu phản tố của bà Bùi Kim C về việc tuyên bố hợp đồng
chuyển nhượng quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền
với đất ngày 21/9/2022 vô hiệu.
Kiến nghị cơ quan Nhà nước có thẩm quyền thu hồi, điều chỉnh giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất thửa đất số 505, tờ số 16, đất toạ lạc xã H, huyện C, tỉnh
Bến Tre số vào sổ cấp GCN: DH 096377 do Sở T cấp ngày 14/10/2022 từ tên chủ
sử dụng bà Bùi Kim C sang cho ông Lâm Văn D và bà Trần Thị Đ khi đương sự
có yêu cầu.
4. Về chi phí tố tụng:
12
Chi phí tố tụng là 1.176.000 đồng (một triệu một trăm bảy mươi sáu nghìn
đồng) ông D, bà Đ phải chịu. Đã thanh toán xong.
5. Về án phí dân sự sơ thẩm:
Ông Lâm Văn D thuộc trường hợp người cao tuổi và có đơn xin miễn án phí
nên được miễn án phí; Bà Trần Thị Đ phải chịu án phí dân sự sơ thẩm không có
giá ngạch với số tiền là 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng) nhưng được trừ vào
số tiền tạm ứng án phí là 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng) theo biên lai thu số
0001867 ngày 24/01/2024 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Châu Thành,
tỉnh Bến Tre; Đồng thời, bà Trần Thị Đ có nghĩa vụ nộp toàn bộ số tiền án phí
dân sự sơ thẩm có giá ngạch 26.656.000 đồng (hai mươi sáu triệu sáu trăm năm
mươi sáu nghìn đồng) tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Châu Thành, tỉnh
Bến Tre.
H1 lại cho bà Bùi Kim C số tiền là 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng) theo
biên lai thu số 0001925 ngày 23/02/2024 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện
Châu Thành, tỉnh Bến Tre.
6. Về án phí dân sự phúc thẩm:
Ông Lâm Văn D thuộc trường hợp người cao tuổi và có đơn xin miễn án phí
nên được miễn án phí.
Bà Trần Thị Đ phải chịu án phí với số tiền là 300.000 đồng (ba trăm nghìn
đồng) nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí là 300.000 đồng (ba trăm nghìn
đồng) theo biên lai thu số 0003030 ngày 14/8/2024 của Chi cục Thi hành án dân
sự huyện Châu Thành, tỉnh Bến Tre.
Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án
dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền
thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị
cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật Thi hành
án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi
hành án dân sự.
7. Bản án phúc thẩm có hiệu lực kể từ ngày tuyên án.
13
Nơi nhận:
- TAND huyện Châu Thành;
- VKSND tỉnh Bến Tre;
- Chi cục THADS huyện Châu Thành;
- Các đương sự;
- Phòng KTNV&THA TAND tỉnh;
- Lưu hồ sơ vụ án.
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM
THẨM PHÁN – CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
Nguyễn Thị Rẻn
Tải về
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án/ Quyết định cùng đối tượng
1
Ban hành: 28/02/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
2
Ban hành: 27/02/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
3
Ban hành: 25/02/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
4
Ban hành: 24/02/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
5
Ban hành: 20/02/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
6
Ban hành: 16/02/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
7
Ban hành: 13/02/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
8
Ban hành: 02/02/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
9
Ban hành: 23/01/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
10
Ban hành: 21/01/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
11
Ban hành: 20/01/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
12
Ban hành: 20/01/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
13
Ban hành: 17/01/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
14
Ban hành: 16/01/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
15
Ban hành: 31/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
16
Ban hành: 30/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
17
Ban hành: 24/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
18
Ban hành: 19/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
19
Ban hành: 17/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
20
Ban hành: 16/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm