Bản án số 1035/2024/DS-PT ngày 17/12/2024 của TAND cấp cao tại TP.HCM về tranh chấp hợp đồng chuyển đổi quyền sử dụng đất
- Thuộc tính
- Nội dung
- VB gốc
- VB liên quan
- Lược đồ
- Đính chính
- Án lệ
- BA/QĐ cùng nội dung
- Tải về
Tải văn bản
-
Bản án số 1035/2024/DS-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
-
Bản án số 1035/2024/DS-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Báo lỗi
Thuộc tính Bản án 1035/2024/DS-PT
Tên Bản án: | Bản án số 1035/2024/DS-PT ngày 17/12/2024 của TAND cấp cao tại TP.HCM về tranh chấp hợp đồng chuyển đổi quyền sử dụng đất |
---|---|
Quan hệ pháp luật: | Tranh chấp hợp đồng chuyển đổi quyền sử dụng đất |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Tòa án xét xử: | TAND cấp cao tại TP.HCM |
Số hiệu: | 1035/2024/DS-PT |
Loại văn bản: | Bản án |
Ngày ban hành: | 17/12/2024 |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Áp dụng án lệ: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Đính chính: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Thông tin về vụ/việc: | Chấp nhận một phần yêu cầu kháng cáo của bị đơn ông Nguyễn Hữu N, bà Phạm Thị Hồng V; Hủy Bản án dân sự sơ thẩm số 04/2024/DS-ST ngày 04/6/2024 của Tòa án nhân dân tỉnh Bến Tre |
Tóm tắt Bản án
Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!
Tải văn bản
TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO
TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
Bản án số: 1035/2024/DS-PT
Ngày 17 tháng 12 năm 2024
V/v: “Tranh chấp hợp đồng chuyển đổi
quyền sử dụng đất”
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập – Tự do – Hạnh phúc
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
- Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa: Bà Trần Thị Hòa Hiệp
Các Thẩm phán: Bà Đinh Ngọc Thu Hương
Ông Ngô Mạnh Cường
- Thư ký phiên tòa: Bà Nguyễn Thị Châu Loan – Thư ký Tòa án nhân dân
cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh
tham gia phiên tòa: Ông Phạm Ba Duy – Kiểm sát viên.
Ngày 10 và 17 tháng 12 năm 2024, tại trụ sở Tòa án nhân dân cấp cao tại
Thành phố Hồ Chí Minh mở phiên tòa xét xử phúc thẩm công khai vụ án dân sự
thụ lý số: 563/2024/TLPT-DS ngày 05 tháng 8 năm 2024 về việc “Tranh chấp hợp
đồng chuyển đổi quyền sử dụng đất”.
Do Bản án dân sự sơ thẩm số: 04/2024/DS-ST ngày 04 tháng 6 năm 2024
của Tòa án nhân dân tỉnh Bến Tre bị kháng cáo.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số: 3245/2024/QĐ-PT ngày
01 tháng 11 năm 2024, giữa các đương sự:
- Nguyên đơn:
1/ Ông Võ Đăng K, sinh năm 1950 (vắng mặt);
2/ Bà Nguyễn Thị T, sinh năm 1952 (vắng mặt);
Cùng địa chỉ: Số C ấp P, xã P, huyện C, tỉnh Bến Tre;
Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nguyên đơn: Luật sư Trương
Văn T1 - Đoàn Luật sư tỉnh B (vắng mặt).
- Bị đơn:
1/ Ông Nguyễn Hữu N, sinh năm 1970 (xin xét xử vắng mặt);
2/ Bà Phạm Thị Hồng V, sinh năm 1972 (có mặt);
Cùng địa chỉ: Ấp P, xã P, huyện C, tỉnh Bến Tre.
2
Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị đơn: Luật sư Vũ Trọng T2 -
Đoàn Luật sư Thành phố H (có mặt).
- Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan:
1/ Bà Nguyễn Thị Hồng H, sinh năm 1995 (vắng mặt);
Địa chỉ: Ấp P, xã P, huyện C, tỉnh Bến Tre.
2/ Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh B;
Người đại diện theo pháp luật: Ông Bùi Minh T3 - Chức vụ: Giám đốc;
Người đại diện theo uỷ quyền: Ông Võ Thành N1 - Chức vụ: Giám đốc Chi
nhánh Văn phòng đăng ký đất đai huyện C (xin xét xử vắng mặt)
3/ Ông Trần Hồng H1, sinh năm 1977 (vắng mặt);
Địa chỉ: Ấp H, xã G, huyện C, tỉnh Bến Tre.
4/ Bà Lê Thị Thùy D, sinh năm 1980 (vắng mặt);
Địa chỉ: Ấp T, xã T, huyện C, tỉnh Bến Tre;
Người đại diện theo ủy quyền của bà Lê Thị Thùy D: Ông Trần Hồng H1,
sinh năm 1977 (vắng mặt).
5/ Ngân hàng N2 – Chi nhánh huyện C, tỉnh Bến Tre (xin xét vắng mặt).
- Người kháng cáo: Bị đơn ông Nguyễn Hữu N, bà Phạm Thị Hồng V.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Theo đơn khởi kiện, bản t khai, biên bản hòa giải cũng như tại phiên tòa sơ
thẩm, nguyên đơn bà Nguyễn Thị T, đồng thời là người đại diện theo uỷ quyền
của nguyên đơn ông Võ Đăng K trình bày:
Bà Nguyễn Thị T và ông Nguyễn Hữu N là chị em ruột với nhau, bà Phạm
Thị Hồng V là vợ của ông N. Vào năm 2014 bà T với vợ chồng ông N có thoả
thuận để chuyển đổi quyền sử dụng đất, theo nội dung thoả thuận vợ chồng ông
N nhận đất của bà T, diện tích 4885m
2
thuộc thửa 869, tờ bản đồ số 2, đất cây lâu
năm, do bà T đứng tên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số DO 414097 được
Ủy ban nhân dân huyện C cấp ngày 05/12/2002, đồng thời vợ chồng ông N phải
giao lại các phần đất bằng với diện tích đã nhận là 4885m
2
toạ lạc tại ấp P, xã P,
huyện C, tỉnh Bến Tre. Do chị em trong gia đình nên bà T tin tưởng, không có đo
đạc đất và cũng chưa làm thủ tục chuyển đổi theo quy định mà chỉ viết tay giấy
xác nhận đổi đất, có xác nhận của Ủy ban nhân dân xã P, tại thời điểm này bà T,
ông K không biết số tờ, số thửa, kể cả diện tích cụ thể từng thửa, mà chỉ biết vị trí
các phần đất đổi. Hai bên có thoả thuận là khi nào làm thủ tục sang tên thì sẽ đo
đạc cho đủ diện tích đất. Ông N có giao bà T canh tác trồng cây hưởng hoa lợi
trong phần đất đổi là thửa 58+92+95, tờ bản đồ số 16 có diện tích 4435,2m
2
(trong
đó có 01 phần bà T được cha mẹ ruột cho cất nhà kiên cố từ năm 2001)
Về phần đất ông N nhận của bà T là thửa 87, tờ 16 diện tích là 4866,8m
2
thì
ông N đã chuyển nhượng đất cho bà Bùi Thị C, ông Nguyễn Văn B. Mặc dù, hợp
3
đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất do ông K, bà T, ông B, bà C ký tên nhưng
số tiền chuyển nhượng do ông B, bà C trực tiếp giao tiền cho cho vợ chồng ông
N tại UBND xã P.
Bà T đã nhiều lần yêu cầu vợ chồng ông N đo đạc, giao đủ diện tích đất cũng
như lập thủ tục sang tên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất nhưng ông N không
thực hiện, do đó bà T đã yêu cầu ông N viết giấy mượn đổi đất ngày 09/10/2014,
bà T không yêu cầu bà V ký tên vào giấy mượn đổi đất vì là chị em ruột trong nhà
nên không nghĩ đến việc phát sinh tranh chấp. Sau đó, ông N vẫn không chuyển
đất nên bà T đã nhiều lần yêu cầu UBND xã P hoà giải. Trong các lần hoà giải tại
UBND xã ông N đều thừa nhận có đổi đất và đồng ý chuyển nhượng lại phần đất
cho bà T nhưng đến nay ông N vẫn không thực hiện.
Năm 2017 bà V, ông N làm hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất thửa 58,
95 cùng tờ bản đồ số 16 (phần đất mà ông N đã đổi cho bà T) cho con gái là
Nguyễn Thị Hồng H nhằm để trốn tránh nghĩa vụ đối với vợ chồng bà. Hiện nay
bà H đã được Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh B cấp giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất số CG 676251 ngày 09/02/2017 đối với thửa 95 tờ bản đồ số 16, diện
tích 1597,2m
2
(gồm đất ở, đất trồng cây lâu năm), giấy chứng nhận quyền sử dụng
đất số CG 676250 ngày 09/02/2017 đối với thửa 58, tờ bản đồ số 16, diện tích
1941,5m
2
(đất trồng cây lâu năm); cả hai phần đất toạ lạc tại xã P, huyện C, tỉnh
Bến Tre. Sau khi được cấp đất thì bà H lại uỷ quyền cho bà V được toàn quyền
đối với các phần đất này. Do đó bà T, ông K có đơn khởi kiện để yêu cầu:
Buộc ông N, bà V, bà H tiếp tục thực hiện giao kèo (hợp đồng) trao đổi quyền
sử dụng đất, giao cho vợ chồng bà diện tích đất 4885m
2
, đồng thời lập thủ tục
sang tên đối với giấy chứng nhận quyền sử dụng đất với diện tích 4885m
2
theo
đúng thoả thuận về việc đổi đất.
Yêu cầu huỷ các giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của bà Nguyễn Thị
Hồng H đã được Sở Tài Nguyên và Môi trường tỉnh B cấp giấy chứng nhận quyền
sử dụng đất số CG 676251 ngày 09/02/2017 đối với thửa 95, tờ bản đồ số 16, diện
tích 1597,2m
2
và giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số CG 676250 ngày
09/02/2017 đối với thửa số 58, tờ bản đồ số 16, diện tích 1941,5m
2
, cùng toạ lạc
tại xã P, huyện C, tỉnh Bến Tre.
Ngày 09/10/2023 bà T, ông N có đơn xin thay đổi một phần nội dung đơn
khởi kiện là yêu cầu vợ chồng ông N, bà V có trách nhiệm liên đới trả lại giá trị
quyền sử dụng đất có diện tích 4885m
2
, tại các thửa 58, 69, 92, 95 tờ bản đồ số
16 toạ lạc tại xã P, huyện C, tỉnh Bến Tre theo giá của Hội đồng định giá quy định,
đồng thời yêu cầu huỷ các giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đã cấp cho bà
Nguyễn Thị Hồng H.
Tại phiên hoà giải ngày 01/02/2024 bà T yêu cầu nhận bằng hiện vật thửa
đất số 95, tờ 16, diện tích 1.597,2m
2
vì bà T đã cất nhà trên đất và đang quản lý
sử dụng đất, phần đất đổi còn lại có diện tích đất còn lại (4885-1.597,2 =
3287,8m
2
) yêu cầu nhận giá trị bằng tiền là 300.000 đồng/m
2
. Đồng thời yêu cầu
huỷ các giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cấp cho bà H.
4
Theo nội dung bản ý kiến của ông Nguyễn Hữu N, bà Phạm Thị Hồng V, biên
bản hòa giải bị đơn bà Phạm Thị Hồng V (đồng thời là người đại diện theo uỷ
quyền của ông Nguyễn Hữu N trong các phiên hoà giải) trình bày:
Ông K, bà T cất nhà ở nhờ từ năm 2002 trên thửa đất số 95, tờ bản đồ số 16,
diện tích 1597,2m
2
do ông N đứng tên chủ quyền sử dụng đất. Trong lúc gia đình
đang gặp túng thiếu dự định bán thửa đất số 95, tờ bản đồ số 16 thì bà T đưa ra ý
kiến đổi đất với ông N nhưng bà V không đồng ý. Do đó hợp đồng đổi đất giữa
bà T và ông N không thành công, không có hiệu lực bởi vì tài sản chung của vợ
chồng nếu vợ chồng cùng thống nhất chung một ý mới được thực hiện. Ngày
12/3/2014 ông K, bà T có làm hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất với
ông Nguyễn Văn B, bà Bùi Thị C thửa đất số 87, tờ bản đồ số 16, diện tích
4866,8m
2
tại ấp P, xã P, huyện C, tỉnh Bến Tre với giá 250.000.000 đồng. Ông K,
bà T cho rằng ngày 09/10/2014 vợ chồng ông N có mượn đất của bà T để bán là
không phù hợp vì trước đó bà T đã chuyển đất cho ông B, bà C thì phần đất này
không còn là của bà T nên lời trình bày của bà T không đúng.
Đối với việc yêu cầu huỷ giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của bà H thì
ông N, bà V không đồng ý vì các thửa đất 95, thửa 58, thửa 69 cùng tờ 16, thửa
1392 tờ số 2, do ông N, bà V đứng tên và có thế chấp để vay tiền Ngân hàng N2,
do không trả nợ kịp nên khoản vay bị quá hạn nên ông bà có chuyển phần đất cho
bà H đứng chủ quyền thửa 95, thửa 58 cùng tờ bản đồ số 16 để vay tiền lo cho
công việc gia đình. Việc vợ chồng bà V tặng cho đất bà H là hoàn toàn phù hợp
với quy định của pháp luật.
Ông N, bà V hoàn toàn không có bất kỳ giao dịch dân sự với ông K, bà T
liên quan đến việc chuyển đổi quyền sử dụng các thửa đất số 58, 69, 92, 95, tờ
bản đồ số 16 toạ lạc tại xã P, huyện C, tỉnh Bến Tre, bản chất việc giao dịch giữa
ông N với bà T là việc vay mượn tài sản, đã được giải quyết bằng Bản án số
77/2018/DS-PT ngày 05/2/2018 của Toà án nhân dân tỉnh Bến Tre.
Về giấy mượn đổi đất có chữ ký của ông N vì bà T và ông N là chị em ruột
nên ông bà có nói chuyện về dự định đổi đất nhưng sau đó dự định không được
thực hiện. Đến nay thì dự định cũng không được thực hiện nên ông N không có
trách nhiệm hay nghĩa vụ gì đối với bà T. Việc Ủy ban nhân dân xã X chỉ là xác
nhận chữ ký của ông N nên không đủ điều kiện về giấy tờ giao dịch quyền sử
dụng đất, điều này cũng phù hợp với quy định của pháp luật về quyền sử dụng đất
phải công chứng và thực tế không có chữ ký của bà T, ông K trên giấy này. Do
đó ông N, bà V đề nghị Toà án trả lại toàn bộ đơn khởi kiện cho nguyên đơn.
Tại biên bản lấy lời khai bà Bùi Thị C và ông Nguyễn Văn B trình bày:
Năm 2014 bà C, ông B có nhận chuyển nhượng phần đất thuộc thửa số 87,
tờ bản đồ số 16, diện tích 4866,8m
2
toạ lạc tại xã P, huyện C, tỉnh Bến Tre của
ông K, bà T. Giá chuyển nhượng thực tế là 450.000.000 đồng nhưng hợp đồng
chỉ ghi số tiền là 250.000.000 đồng, việc giao tiền thực hiện 02 lần, lần 1 là
150.000.000 đồng, giao khi làm hợp đồng đặt cọc tại nhà của ông N. Bà C, ông B
giao tiền cho bà T và bà T là người trực tiếp nhận tiền; lần 2 giao số tiền
5
300.000.000 đồng tại quá cà phê, khi giao tiền có mặt ông N nhưng ông B, bà C
chỉ giao tiền cho bà T chứ hoàn toàn không có giao dịch gì với ông N.
Việc bà T và ông N thoả thuận đổi đất như thế nào thì bà C, ông B không rõ.
Ông bà khẳng định thực hiện hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất và giao
tiền với bà T chứ không có thực hiện với ông N. Ông bà khẳng định không biết
và không có liên quan gì đến việc vay tiền nên yêu cầu Toà án giải quyết vắng
mặt và không mời ông bà vào tham gia tố tụng trong vụ án.
Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh B có đơn yêu cầu giải quyết vắng mặt và
có văn bản trình bày ý kiến như sau:
Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh B cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất
cho bà Nguyễn Thị Hồng H trên cơ sở:
Về quy định: Căn cứ Điều 79 Nghị định số 43/2014/NĐ-CP ngày 15/5/2014
của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Đất đai;
Về quy trình: Thực hiện theo Thủ tục số 9 thuộc Quyết định số 900/QĐ-
UBND ngày 20/5/2015 của UBND tỉnh B về việc công bố 38 thủ tục hành chính
ban hành mới, 44 thủ tục hành chính bị bãi bỏ thuộc thẩm quyền giải quyết của
Sở T.
- Về giấy tờ hợp pháp:
+ Giấy chứng nhận UBND huyện C đã cấp ông Nguyễn Hữu N có số phát
hành BĐ 835263, số vào sổ cấp Giấy chứng nhận 000188 thuộc thửa số 58, tờ bản
đồ số 16, có diện tích 1.941,5 m
2
, số phát hành BĐ 835262, số vào sổ cấp Giấy
chứng nhận 000187 thuộc thửa số 95, tờ bản đồ 16, diện tích 1.597,2m
2
tại xã P,
huyện C, tỉnh Bến Tre.
+ Hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất đã được Văn phòng C2 chứng nhận
ngày 18/01/2017, số công chứng 215 Quyển số 01/2017/TP/CC-SCC/HĐGD.
Sở T cấp Giấy chứng nhận cho bà Nguyễn Thị Hồng H đối với thửa đất số
58, 95 tờ bản đồ số 16, tại xã P, huyện C, tỉnh Bến Tre là đúng theo quy định.
Việc nguyên đơn yêu cầu huỷ Giấy chứng nhận đã được Sở Tài nguyên và
Môi trường tỉnh cấp cho bà Nguyễn Thị Hồng H ngày 09/02/2017 tại thửa đất số
58, tờ bản đồ số 16 có số vào sổ CS 03992, số phát hành CG 676250 và thửa số
95, tờ bản đồ số 16 có số vào sổ CS 03993, số phát hành CG 676251 toạ lạc tại xã
P, huyện C, tỉnh Bến Tre, phải đảm bảo theo quy định tại khoản 7 Điều 87 Nghị
định số 43/2014/NĐ-CP ngày 15/5/2014 của Chính phủ. Nếu yêu cầu thu hồi Giấy
chứng nhận đã cấp phải thực hiện đúng theo quy định tại khoản 6 Điều 87 Nghị
định 43/2014/NĐ-CP. Do đó, nguyên đơn ông K, bà T yêu cầu huỷ giấy chứng
nhận QSD đất của Sở T đã cấp cho bà H đối với các thửa đất nêu trên là không có
cơ sở xem xét, giải quyết.
Đối với yêu cầu buộc ông N, bà V thực hiện hợp đồng trao đổi đất theo giấy
mượn đổi đất, buộc ông N, bà V giao cho ông K, bà T diện tích 4.855m
2
đất thuộc
thửa 58, 69, 92, 95 tờ bản đồ số 16 toạ lạc tại xã P, huyện C, tỉnh Bến Tre và làm
6
thủ tục chuyển quyền sử dụng đất sang cho ông K, bà T, không thuộc thẩm quyền
giải quyết của Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh B.
Ông Trần Hồng H1 và bà Lê Thị Thùy D vắng mặt nhưng có lời khai như
sau:
Ông Trần Hồng H1 và bà Lê Thị Thùy D là vợ chồng hợp pháp và có đăng
ký kết hôn theo quy định của pháp luật. Phần đất thuộc thửa 126, tờ bản đồ số 16,
diện tích 3.144,8m
2
toạ lạc tại xã P, huyện C, tỉnh Bến Tre do ông Trần Hồng H1,
bà Lê Thị Thùy D đứng tên trong giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Phần đất
thuộc thửa 127, tờ bản đồ số 16, diện tích 2.035,6m
2
toạ lạc tại xã P, huyện C, tỉnh
Bến Tre do ông Trần Hồng H1 đứng tên trong giấy chứng nhận quyền sử dụng
đất. Cả 02 phần đất này do vợ chồng ông H1, bà D nhận chuyển nhượng của vợ
chồng ông N, bà V vào năm 2017. Thời gian nhận chuyển nhượng đã lâu nên ông
H1, bà D không nhớ giá chuyển nhượng là bao nhiêu. Việc chuyển nhượng đất
được thực hiện theo đúng quy định của pháp luật, các bên có làm hợp đồng và các
giấy tờ theo đúng quy định. Ông H1, bà D đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất vào năm 2017. Khi mua đất thì trên đất có dừa đã cho trái, các bên có đo
đạc, xác định tứ cận ranh đầy đủ.
Tại thời điểm ông H1, bà D nhận chuyển nhượng thì đất không có tranh chấp
và ông H1, bà D không có biết gì về việc đổi đất giữa bà T, ông K với ông N, bà
V. Hiện tại 02 thửa đất này ông H1, bà D đang quản lý, sử dụng và đang thu hoạch
hoa lợi trên đất. Trên đất không có nhà cửa hay công trình kiến trúc gì. Phần đất
của ông bà đã nhận chuyển nhượng đất theo đúng quy định, còn việc bà T, ông K
với ông N, bà V đổi đất như thế nào thì ông H1, bà D không rõ, do đó các bên tự
giải quyết chứ không có liên quan gì đến ông H1, bà D. Do bận công việc làm
không đến Toà án được nên bà D, ông H1 yêu cầu Toà án giải quyết vắng mặt
ông bà.
Ngân hàng N2 – Chi nhánh huyện C, tỉnh Bến Tre (do ông Nguyễn Trí C1 là
người đại diện theo pháp luật) có văn bản trình bày như sau:
Ngày 04/12/2019 bà Phạm Thị Hồng V có ký hợp đồng vay với A Chi nhánh
huyện C số tiền 320.000.000 đồng theo hợp đồng tín dụng số 7108-LAV-
201908860, ngày đến hạn hợp đồng là 04/12/2024, đến thời hạn 02/11/2023 khách
hàng còn dư nợ 0 đồng.
Tài sản thế chấp theo hợp đồng thế chấp số 2201908860/HĐTC ngày
04/12/2019 gồm Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất do bà H đứng tên chủ sở
hữu là hoàn toàn hợp pháp và được các cơ quan ban ngành cấp theo đúng theo
quy trình, quy định của pháp luật về đất đai cụ thể như sau:
Tài sản thứ nhất: Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu tài sản
và nhà ở số CG676250 vào sổ cấp giấy chứng nhận CN: CS 03992 do Sở Tài
nguyên và Môi trường tỉnh B cấp ngày 09/02/2017 gồm thửa đất số 58, tờ bản đồ
số 16, diện tích 1.941,5m
2
và Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu
tài sản và nhà ở số CG676251 vào sổ cấp giấy chứng nhận CN: CS 03993 do Sở
7
Tài nguyên và Môi trường tỉnh B cấp ngày 09/02/2017 thửa đất số 95, tờ bản đồ
số 16, diện tích 1.597,2m
2
.
Hiện nay khách hàng đã trả nợ xong các khoản nợ vào ngày 02/11/2023 nên
người thế chấp đã rút sổ về, do đó Ngân hàng không có liên quan trong vụ án và
yêu cầu Toà án giải quyết vắng mặt Ngân hàng.
Bà Nguyễn Thị Hồng H đã được Toà án tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng
nhưng vắng mặt nên không có lời trình bày.
Tại Bản án dân s sơ thẩm số: 04/2024/DS-ST ngày 04 tháng 6 năm 2024
của Tòa án nhân dân tỉnh Bến Tre đã tuyên xử:
1/ Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn ông Võ Đăng K,
bà Nguyễn Thị T.
Buộc ông Nguyễn Hữu N, bà Phạm Thị Hồng V tiếp tục thực hiện hợp đồng
chuyển đổi quyền sử dụng đất (theo Giấy mượn đổi đất ngày 09/10/2014), cụ thể
buộc ông N, bà V hoàn trả giá trị quyền sử dụng đất đối với diện tích 4885m
2
theo
giá đất cây lâu năm (tính trung bình theo giá đất cây lâu năm của các thửa là
220.000đ/m
2
) với tổng số tiền là 1.074.700.000 (một tỷ, không trăm bảy mươi bốn
triệu, bảy trăm nghìn) đồng.
Kể từ ngày Bản án có hiệu lc pháp luật (đối với các trường hợp cơ quan thi
hành án có quyền chủ động ra quyết định thi hành án) hoặc kể từ ngày có đơn yêu
cầu thi hành án của người được thi hành án (đối với các khoản tiền chưa được
thi hành án) cho đến khi thi hành án xong tất cả các khoản tiền, hàng tháng bên
phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành theo
mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 Bộ luật Dân s năm 2015.
2/ Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn ông Võ Đăng K, bà
Nguyễn Thị T về việc yêu cầu được nhận phần diện tích đất có nhà là 1597,2m
2
thuộc thửa 95, tờ bản đồ số 16, toạ lạc tại xã P, huyện C, tỉnh Bến Tre và yêu cầu
huỷ giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số CG 676251, cấp ngày 09/02/2017 đối
với thửa 95 tờ bản đồ số 16, diện tích 1597,2m
2
; giấy chứng nhận quyền sử dụng
đất số CG 676250, cấp ngày 09/02/2017 đối với thửa 58 tờ bản đồ số 16, diện tích
1941,5m
2
do bà Nguyễn Thị Hồng H đứng tên cùng toạ lạc tại xã P, huyện C, tỉnh
Bến Tre. (Kèm theo trích lục bản đồ địa chính các thửa đất tranh chấp)
3/ Đối với căn nhà trên đất 95, tờ bản đồ số 16 toạ lạc tại xã P, huyện C, tỉnh
Bến Tre của ông Võ Đăng K, bà Nguyễn Thị T do các bên không yêu cầu nên Tòa
án không xem xét, giải quyết.
Ngoài ra, bản án còn tuyên về chi phí tố tụng, án phí, quyền kháng cáo theo
quy định pháp luật.
Sau khi xét xử sơ thẩm, ngày 11/6/2024 bị đơn ông Nguyễn Hữu N, bà Phạm
Thị Hồng V kháng cáo bản án sơ thẩm.
Tại phiên tòa phúc thẩm, nguyên đơn vắng mặt. Bị đơn vẫn giữ nguyên yêu
cầu kháng cáo, đề nghị Hội đồng xét xử sửa bản án sơ thẩm, không chấp nhận yêu
cầu khởi kiện của nguyên đơn.
8
Người bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp cho bị đơn trình bày: Toà án cấp sơ
thẩm đã có sai sót trong việc áp dụng pháp luật, cụ thể:
- Bản án sơ thẩm nhận định rằng có cơ sở xác định giao dịch giữa nguyên
đơn và bị đơn là giao dịch đang được thực hiện và cần áp dụng điểm b khoản 1
Điều 688 Bộ luật Dân sự năm 2015. Tuy nhiên, Toà án cấp sơ thẩm chưa xác định
được đối tượng tranh chấp trong vụ án, bởi giữa nguyên đơn và bị đơn chưa giao
kết hay thực hiện giao dịch chuyển đổi đất.
- Về hình thức, Giấy mượn đổi thì chỉ có chữ ký của ông N, không có chữ
ký của bà V. Điều này vi phạm quy định tại Điều 502 của Bộ luật Dân sự và khoản
3 Điều 167, Điều 168 Luật Đất đai năm 2013 quy định việc công chứng, chứng
thực hợp đồng/văn bản. Hơn nữa, những quy định nêu trên cũng không được áp
dụng đối với giao dịch mượn đổi đất. Giấy mượn đổi đất mà ông N ký vào ngày
09/10/2014 nhưng lại chứng thực trước 02 tháng so với ngày ký giấy.
- Nội dung trong Giấy mượn đổi đất không thể hiện đối tượng mượn đổi là
gì. Theo nguyên đơn trình bày phần đất đổi là thửa đất số 58, 92, 95 đều có mục
đích sử dụng là đất ở, đất trồng cây lâu năm và đều không thuộc đối tượng được
đổi đất. Nội dung được thể hiện trong giấy mượn đổi đất sơ sài, không có chữ ký
xác nhận tại mục quyền và nghĩa vụ của các bên.
- Trong biên bản hoà giải cơ sở năm 2016, bà T có đề cập đến hai nội dung
tranh chấp là việc đòi đổi đất và việc vay mượn 18 chỉ vàng. Đối với giao dịch
giữa ông N và bà T, ông N khẳng định chỉ vay của bà T 18 chỉ vàng. Việc vay
mượn này đã dẫn đến việc đổi đất và đã được bà T khởi kiện tại Toà án về vấn đề
nêu trên. Toà án nhân dân tỉnh Bến Tre đã xét xử phúc thẩm vụ án theo Bản án
dân sự phúc thẩm số 77/2018/DS-PT ngày 05/02/2018. Theo đó, ông N và bà V
đã thi hành xong bản án này. Như vậy, không còn giao dịch nào giữa bà T và ông
N vì việc vay mượn đã được giải quyết xong. Bà T cho rằng có việc ông N nhận
tiền, vay tiền của bà T thông qua mượn đất để bán cho ông Nguyễn Văn B và bà
Bùi Thị C. Theo lời khai của ông B và bà C tại Toà án cấp sơ thẩm, ông bà có
giao dịch trực tiếp với bà T, đồng thời chuyển tiền thanh toán cho bà T và có
người làm chứng là bà T4 – con gái của bà T. Do đó, lời khai của bà T cho rằng
bà đã giao đất cho ông N và nhận tiền là lời khai có yếu tố gian dối, mâu thuẫn
với lời khai của những người làm chứng.
- Theo hồ sơ trích lục, hồ sơ địa chính của các thửa đất đang tranh chấp thì
bà T được xác định là không liên quan đến 04 thửa đất này, mặc dù bà T có sinh
sống và canh tác trên đất từ năm 2001. Theo bị đơn thì những vấn đề đang tranh
chấp không xảy ra trong thực tế. Vì vậy, đề nghị Hội đồng xét xử phúc thẩm xem
xét sửa bản án sơ thẩm theo hướng không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên
đơn.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh tham
gia phiên tòa phát biểu quan điểm giải quyết vụ án:
- Về tố tụng: Tòa án cấp phúc thẩm đã thực hiện đúng quy định của Bộ luật
Tố tụng dân sự.
9
- Về nội dung: Toà án cấp sơ thẩm đã căn cứ vào Giấy mượn đổi đất ngày
09/10/2014, Biên bản xác minh ngày 04/3/2024, các biên bản hoà giải ngày
02/11/2015 và ngày 31/8/2016 tại UBND xã P, huyện C, tỉnh Bến Tre để chấp
nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, buộc ông Nguyễn Hữu N và bà Phạm
Thị Hồng V hoàn trả giá trị đối với phần diện tích 4885 m
2
đất theo giá thị trường
là phù hợp với quyền và lợi ích hợp pháp của các đương sự. Từ những phân tích
trên, xét thấy kháng cáo của ông N và bà V không có căn cứ để chấp nhận, nên đề
nghị Hội đồng xét xử không chấp nhận kháng cáo và giữ nguyên bản án sơ thẩm.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên
tòa và căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, ý kiến phát biểu của Viện kiểm
sát, Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Tại phiên toà phúc thẩm, nguyên đơn và những người có quyền lợi nghĩa
vụ liên quan vắng mặt, đã được Tòa án cấp phúc thẩm triệu tập hợp lệ. Căn cứ
Điều 296 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vụ
án.
[2] Theo nguyên đơn ông Võ Đăng K, bà Nguyễn Thị T trình bày:
Năm 2014 bà Nguyễn Thị T và vợ chồng ông Nguyễn Hữu N, bà Phạm Thị
Hồng V có thỏa thuận chuyển đổi quyền sử dụng đất với diện tích 4.885m
2
như
sau: Bà T giao cho ông N thửa 869, tờ bản đồ số 2 (thửa số 87, tờ bản đồ số 16),
đất cây lâu năm do bà T đứng tên trên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số DO
414097 được Ủy ban nhân dân huyện C cấp ngày 05/12/2002; Ông N giao cho bà
T các phần đất có diện tích tương đương 4.885m
2
. Chứng cứ chứng minh thỏa
thuận chuyển đổi quyền sử dụng đất là giấy mượn đổi đất ngày 09/10/2014 do
ông N viết (bà V không có ký tên vào giấy mượn đổi đất này).
Thực hiện thỏa thuận chuyển đổi quyền sử dụng đất nêu trên:
- Bà T giao thửa 87, tờ bản đồ số 16 diện tích 4.866.8m
2
cho ông N để chuyển
nhượng cho bà Bùi Thị C, ông Nguyễn Văn B. Mặc dù, hợp đồng chuyển nhượng
quyền sử dụng đất do ông K, bà T, ông B, bà C ký tên nhưng ông N là người nhận
tiền chuyển nhượng.
- Ông N giao cho bà T canh tác trồng cây, hưởng hoa lợi đối với phần đất tại
các thửa 58, 92, 95 tờ bản đồ số 16 có diện tích 4.435,2m
2
, nhưng chưa thực hiện
thủ tục sang tên trên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất (do thời điểm đó ông N
đang thế chấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất tại Ngân hàng).
Năm 2017, vợ chồng bà V, ông N làm hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất
thửa 58, 95 tờ bản đồ số 16 cho bà Nguyễn Thị Hồng H (con gái của bị đơn), bà
H đã được Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh B cấp giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất đối với các thửa đất trên.
Do đó, ông K và bà T khởi kiện yêu cầu ông N, bà V, bà H tiếp tục thực hiện
giao kèo (hợp đồng) trao đổi quyền sử dụng đất, giao cho vợ chồng bà diện tích
đất 4885m
2
. Quá trình giải quyết vụ án tại cấp sơ thẩm, nguyên đơn xác định yêu
10
cầu khởi kiện cụ thể như sau: Bà T yêu cầu nhận bằng hiện vật thửa đất số 95, tờ
16, diện tích 1.597,2m
2
vì bà T đã cất nhà trên đất và đang quản lý sử dụng đất;
Phần đất đổi còn lại có diện tích đất còn lại diện tích 3.287,8m
2
(4885m
2
-
1.597,2m
2
) yêu cầu nhận giá trị bằng tiền là 300.000 đồng/m
2
và huỷ các Giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất cấp cho bà H.
[3] Bị đơn ông Nguyễn Hữu N và bà Phạm Thị Hồng V trình bày:
Thỏa thuận chuyển đổi quyền sử dụng đất năm 2014 không có hiệu lực do
bà V (vợ ông N) không đồng ý và không ký tên Giấy mượn đổi đất ngày
09/10/2014. Ông N, bà V hoàn toàn không có giao dịch dân sự với ông K, bà T
liên quan đến việc chuyển đổi quyền sử dụng đất các thửa đất số 58, 69, 92, 95 tờ
bản đồ 16 tọa lạc tại xã P, huyện C, tỉnh Bến Tre nên không đồng ý toàn bộ yêu
cầu khởi kiện của nguyên đơn.
[4] Xét kháng cáo của bị đơn:
Căn cứ vào nội dung trình bày của các bên đương sự nêu trên và yêu cầu
khởi kiện của nguyên đơn, thì vấn đề cần phải chứng minh khi giải quyết vụ án
là:
- Thỏa thuận chuyển đổi quyền sử dụng đất theo “Giấy mượn đổi đất” ngày
09/10/2024 giữa bà T và ông N có được công nhận hiệu lực theo quy định pháp
luật?
- Trong trường hợp xác định có thỏa thuận chuyển đổi quyền sử dụng đất thì
các bên đương sự đã thực hiện thỏa thuận này như thế nào (ai là người đã thực
hiện xong nghĩa vụ bàn giao quyền sử dụng đất).
[4.1] Xét, “Giấy mượn đổi đất” ngày 09/10/2024:
- Về hình thức: “Giấy mượn đổi đất” ngày 09/10/2014 có chữ ký của ông N,
được Ủy ban nhân dân xã P xác nhận ngày 29/8/2014, với nội dung: Ông N có
mượn của bà T diện tích đất 4885 mét vuông, để bán lo cho con đi du học bên
Pháp, đồng thời ông N có giao lại cho bà T diện tích 4885 mét vuông, chưa làm
thủ tục sang tên phần đất và sẽ sắp xếp lo tiền để làm thủ tục sang tên đất.
Căn cứ nội dung nêu trên thì giao dịch chuyển đổi quyền sử dụng đất chưa
được các bên thực hiện xong (vợ chồng ông N chưa làm thủ tục sang tên quyền
sử dụng đất cho nguyên đơn). Theo quy định tại điểm b khoản 1 Điều 688, Điều
502 Bộ luật Dân sự năm 2015, Điều 167 Luật Đất đai năm 2013, hợp đồng chuyển
đổi quyền sử dụng đất không bắt buộc phải được công chứng chứng thực. Do vậy,
việc Ủy ban nhân dân xã P xác nhận trước ngày lập “Giấy mượn đổi đất” không
ảnh hưởng đến hình thức của “Giấy mượn đổi đất” ngày 09/10/2014.
- Về nội dung: Ông N thừa nhận có việc thỏa thuận chuyển đổi quyền sử
dụng đất với bà T và chữ ký trong “Giấy mượn đổi đất” ngày 09/10/2014, nhưng
cho rằng đây chỉ là dự định và do bà V (vợ ông N) không đồng ý, nên “Giấy mượn
đổi đất” ngày 09/10/2014 không có giá trị và giao dịch chuyển đổi quyền sử dụng
đất không được thực hiện.
11
Bản án sơ thẩm nhận định: Mặc dù trong “Giấy mượn đổi đất” ngày
09/10/2014 không thể hiện số tờ, số thửa, vị trí đất, nhưng lời trình bày của ông
N, bà V tại các biên bản hòa giải ngày 02/11/2015 và ngày 31/8/2016 của Ủy ban
nhân dân xã P đã thể hiện việc bà V có biết thỏa thuận chuyển đổi quyền sử dụng
đất này, và phần đất mà bị đơn dùng để chuyển đổi cho nguyên đơn đang thế chấp
tại Ngân hàng. Phù hợp với việc tại thời điểm năm 2013, 2014 bị đơn có thế chấp
thửa đất số 95, 69 tờ bản đồ số 16 tại Ngân hàng N2 – Chi nhánh C. Từ đó xác
định “Giấy mượn đổi đất” ngày 09/10/2014 được công nhận hiệu lực theo quy
định pháp luật.
Hội đồng xét xử phúc thẩm xét thấy nhận định nêu trên của bản án sơ thẩm
là chưa đủ căn cứ, bởi:
- Tại biên bản hòa giải ngày 02/11/2015 và 31/8/2016 của Ủy ban nhân dân
xã P thì bà V không đồng ý với thỏa thuận chuyển đổi quyền sử dụng đất. Tại biên
bản xác minh ngày 07/3/2024 của Tòa án nhân dân tỉnh Bến Tre, ông Đặng Minh
P (nguyên Chủ tịch Ủy ban nhân dân xã P là người ký xác nhận vào “Giấy mượn
đổi đất”) cũng xác nhận: Năm 2014 ông N và bà T có thc hiện việc đổi đất là bà
T giao cho ông N phần đất để bán lấy tiền cho con gái đi du học Pháp, đồng thời
ông N có hứa giao lại phần đất của ông N cho bà T nhưng không thc hiện được
vì phần đất của ông N đang thế chấp tại Ngân hàng. Sau đó bà T có thưa ra xã
và Ủy ban nhân dân xã P có tổ chức hoà giải, ông N cũng có hứa là chuộc đất từ
Ngân hàng để chuyển đất cho bà T, còn bà V là vợ ông N thì không đồng ý. Vậy,
lời trình bày của ông N về việc cho rằng bà V không đồng ý thỏa thuận chuyển
đổi quyền sử dụng đất với bà T là có căn cứ.
- Theo bà T trình bày để thực hiện thỏa thuận chuyển đổi quyền sử dụng đất,
bị đơn đã giao cho bà canh tác trồng cây, hưởng hoa lợi phần đất tại các thửa 58,
92, 95 tờ bản đồ số 16 với tổng diện tích 4.435,2m
2
. Xét, trong 03 thửa đất mà
nguyên đơn cho rằng được bị đơn chuyển đổi chỉ có thửa 95 (1.597,2m
2
) thế chấp
tại Ngân hàng. Mặt khác, trên thửa 95 có căn nhà do nguyên đơn xây dựng. Theo
trình bày của bà T, phần đất để xây dựng căn nhà này là được cha mẹ cho từ năm
2001; Trong khi đó, bị đơn cho rằng cho nguyên đơn ở nhờ trên đất từ năm 2002.
Vậy, nguyên đơn, bị đơn đều xác định việc bà T, ông K xây dựng nhà trên phần
đất tại thửa 95 không liên quan đến việc chuyển đổi quyền sử dụng đất.
Do vậy, để có đủ cơ sở xác định hiệu lực của “Giấy mượn đổi đất” ngày
09/10/2014 thì Tòa án cần phải thu thập thêm tài liệu chứng cứ để làm rõ các nội
dung: Bà V trình bày không đồng ý với thỏa thuận chuyển đổi quyền sử dụng đất,
thì việc không đồng ý được thể hiện như thế nào (trước hay sau khi ông N và bà
T làm “Giấy mượn đổi đất” ngày 09/10/2014)? Ai là người giao cho bà T canh
tác cây trồng, hưởng hoa lợi phần đất tại các thửa 58, 92, 95 tờ bản đồ số 16 và từ
thời gian nào? Trong thời gian bà T canh tác, hưởng hoa lợi trên đất thì bị đơn có
ý kiến như thế nào?
[4.2] Bà T cho rằng đã thực hiện xong nghĩa vụ giao thửa 869, tờ bản đồ số
2 (thửa 87, tờ bản đồ 16) cho bị đơn, thông qua việc chuyển nhượng quyền sử
dụng đất cho bà C, ông B. Ông N đã nhận tiền chuyển nhượng quyền sử dụng đất
12
trên tại Ủy ban nhân dân xã P, để lo cho con (bà Nguyễn Thị Hồng H) đi du học
Pháp. Tuy nhiên, Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất đối với thửa 87,
tờ bản đồ số 16 được ký kết giữa ông K, bà T với bà C, ông B được lập ngày
12/3/2014 (trước khi bà T, ông N lập “Giấy mượn đổi đất” ngày 09/10/2014). Tại
Biên bản lấy lời khai ngày 24/11/2023 (BL 510) ông B, bà C xác định người nhận
tiền chuyển nhượng quyền sử dụng đất là bà T, không có việc giao tiền cho ông
N; Khi các bên thực hiện việc giao tiền thì ông N chỉ là người làm chứng.
Quá trình giải quyết vụ án, Tòa án cấp sơ thẩm không yêu cầu đương sự cung
cấp chứng cứ chứng minh, không làm rõ sự mâu thuẫn về việc giao nhận tiền
trong lời trình bày của bà T với ông B, bà C, nhưng đã chấp nhận lời trình bày của
nguyên đơn về việc cho rằng bà T đã thực hiện xong nghĩa vụ chuyển giao quyền
sử dụng đất cho bị đơn (thông qua việc chuyển nhượng thửa 87) là thu thập tài
liệu chứng cứ chưa đầy đủ, ảnh hưởng đến việc giải quyết vụ án, bởi: Trong trường
hợp xác định bà T đã thực hiện xong nghĩa vụ giao quyền sử dụng đất, thì mới có
cơ sở để xem xét yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn về việc được nhận hiện vật
đối với thửa 95 tờ bản đồ số 16, diện tích 1.597,2m
2
và nhận giá trị đối với diện
tích còn lại; Nếu trong trường hợp nguyên đơn không chứng minh được đã thực
hiện xong nghĩa vụ giao quyền sử dụng đất thì thỏa thuận chuyển đổi quyền sử
dụng đất (nếu có) chỉ được các bên xác lập và chưa được thực hiện.
Để có đủ cơ sở xem xét lời trình bày của các bên đương sự, Tòa án cần thu
thập tài liệu chứng cứ để làm rõ có việc vợ chồng ông N đã nhận tiền chuyển
nhượng quyền sử dụng đất thửa 87, tờ bản đồ số 16: Nếu có thì đã nhận số tiền
bao nhiêu, vào thời gian nào? Theo các bên đương sự trình bày thì vợ chồng ông
N đổi quyền sử dụng đất để lo cho con (bà H) đi du học Pháp. Vậy, thời điểm bà
H làm thủ tục hồ sơ du học thì nguồn tài chính được kê khai và chứng minh như
thế nào?
[4.3] Ngoài ra, liên quan đến Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của bà
Nguyễn Thị Hồng H đối với thửa 95, tờ bản đồ số 16, toạ lạc tại xã P, huyện C,
tỉnh Bến Tre:
Ông N được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đối với thửa 95 vào
năm 2011. Năm 2017 ông N, bà V tặng cho bà H và bà H đã được cấp giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất. Tất cả các bên đương sự đều thừa nhận trên thửa 95 có
căn nhà do ông K, bà T xây dựng từ thời điểm 2001, 2002 (trước thời điểm ông
N được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất). Vì vậy, tại thời điểm ông N
được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thì một phần thửa 95 đang do người
khác quản lý, sử dụng (căn nhà của ông K, bà T), nên việc cấp giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất này chưa đảm bảo quy định pháp luật. Tòa án cấp sơ thẩm
không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn về việc hủy một phần giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất đã cấp cho bị đơn đối với thửa 95, nhưng không
xem xét giải quyết đối với căn nhà của nguyên đơn trên thửa 95 (vì cho rằng
đương sự không có yêu cầu) là giải quyết không triệt để vụ án.
[5] Từ những nhận định trên, Hội đồng xét xử xét thấy bản án của Tòa án
cấp sơ thẩm chưa thu thập đầy đủ tài liệu, chứng cứ ảnh hưởng đến việc giải quyết
13
vụ án mà Tòa án cấp phúc thẩm không thể khắc phục được. Do vậy, Hội đồng xét
xử không chấp nhận quan điểm của đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại
Thành phố Hồ Chí Minh tham gia phiên tòa; Chấp nhận một phần yêu cầu kháng
cáo của bị đơn; Hủy bản án sơ thẩm chuyển hồ sơ vụ án về cho Tòa án cấp sơ
thẩm giải quyết lại theo quy định pháp luật.
[6] Án phí, chi phí tố tụng:
Án phí dân sự sơ thẩm, chi phí tố tụng sẽ được xem xét khi giải quyết lại vụ
án.
Án phí dân sự phúc thẩm: Do hủy bản án sơ thẩm nên người có kháng cáo
không phải chịu.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ khoản 3 Điều 308 Bộ luật Tố tụng dân sự
1/ Chấp nhận một phần yêu cầu kháng cáo của bị đơn ông Nguyễn Hữu N,
bà Phạm Thị Hồng V;
Hủy Bản án dân sự sơ thẩm số 04/2024/DS-ST ngày 04/6/2024 của Tòa án
nhân dân tỉnh Bến Tre giữa nguyên đơn Võ Đăng K, Nguyễn Thị T với bị đơn
Nguyễn Hữu N, Phạm Thị Hồng V về “Tranh chấp hợp đồng chuyển đổi quyền
sử dụng đất”. Chuyển hồ sơ vụ án về cho Tòa án cấp sơ thẩm giải quyết lại vụ án
theo quy định pháp luật.
2/ Án phí và chi phí tố tụng:
2.1/ Án phí dân sự sơ thẩm và chi phí tố tụng sơ thẩm sẽ được xem xét khi
giải quyết lại vụ án.
2.2/ Án phí dân sự phúc thẩm: Ông Nguyễn Hữu N, bà Phạm Thị Hồng V
không phải chịu, hoàn trả mỗi người 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) tiền tạm
ứng án phí đã nộp theo các biên lai thu số 0002952, 0002951 cùng ngày 26/6/2024
của Cục Thi hành án dân sự tỉnh Bến Tre.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án./.
Nơi nhận:
- Tòa án nhân dân tối cao (1);
- VKSNDCC tại TP. Hồ Chí Minh (1);
- TAND tỉnh Bến Tre (1);
- VKSND tỉnh Bến Tre (1);
- Cục THADS tỉnh Bến Tre (1);
- Các đương sự (10);
- Lưu: 25b (NTCL);
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM
THẨM PHÁN – CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
Trần Thị Hòa Hiệp
Tải về
Bản án số 1035/2024/DS-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án số 1035/2024/DS-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án/ Quyết định cùng đối tượng
1
Ban hành: 21/01/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
2
Ban hành: 20/01/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
3
Ban hành: 30/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
4
Ban hành: 24/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
5
Ban hành: 19/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
6
Ban hành: 16/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
7
Ban hành: 10/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
8
Ban hành: 18/11/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
9
Ban hành: 14/11/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
10
Ban hành: 12/11/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
11
Ban hành: 21/10/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
12
Ban hành: 30/09/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
13
Ban hành: 30/09/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
14
Ban hành: 27/09/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
15
Ban hành: 24/09/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
16
Ban hành: 23/09/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
17
Ban hành: 20/09/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
18
Ban hành: 20/09/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
19
Ban hành: 20/09/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm