Bản án số 60/2025/DS-ST ngày 29/09/2025 của TAND tỉnh Cà Mau về tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất
- Thuộc tính
- Nội dung
- VB gốc
- VB liên quan
- Lược đồ
- Đính chính
- Án lệ
- BA/QĐ cùng nội dung
- Tải về
Tải văn bản
-
Bản án số 60/2025/DS-ST
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
-
Bản án số 60/2025/DS-ST
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Báo lỗi
Thuộc tính Bản án 60/2025/DS-ST
| Tên Bản án: | Bản án số 60/2025/DS-ST ngày 29/09/2025 của TAND tỉnh Cà Mau về tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất |
|---|---|
| Quan hệ pháp luật: | Tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất |
| Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
| Tòa án xét xử: | TAND tỉnh Cà Mau |
| Số hiệu: | 60/2025/DS-ST |
| Loại văn bản: | Bản án |
| Ngày ban hành: | 29/09/2025 |
| Lĩnh vực: | Dân sự |
| Áp dụng án lệ: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
| Đính chính: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
| Thông tin về vụ/việc: | Minh - Đáng |
Tóm tắt Bản án
Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!
Tải văn bản

TOÀ ÁN NHÂN DÂN
TỈNH CÀ MAU
CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
Bản án số: 60/2025/DS-ST
Ngày: 29 – 9 – 2025
V/v Tranh chấp “hợp đồng chuyển
nhượng quyền sử dụng đất và hủy
giấy chứng nhận quyền sử dụng đất”
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỈNH CÀ MAU
-Thành phần hội đồng xét xử sơ thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ toạ phiên toà: Bà G Thị Cẩm Thuý
Các Hội thẩm nhân dân: Ông Huỳnh Mậu Thìn
Bà Trần Thị Hợi
- Thư ký phiên toà: Ông Nguyễn Anh Khoa - Thư ký Toà án nhân dân tỉnh
Cà Mau.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Cà Mau tham gia phiên toà: Bà Trần
Hồng Thắm - Kiểm sát viên.
Ngày 29 tháng 9 năm 2025 tại trụ sở Toà án nhân dân tỉnh Cà Mau xét xử sơ
thẩm công khai vụ án thụ lý số: 89/2025/TLST-DS ngày 05 tháng 5 năm 2025 về
việc “Tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất và hủy giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số
59/2025/QĐXXST-DS ngày 29 tháng 8 năm 2025 giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Ông Trần Văn M, sinh năm 1960 và bà Ngô Thị Cẩm T, sinh
năm 1965. Cùng địa chỉ: Số 11/263B, khóm B, Phường 8, thành phố B, tỉnh B. Nay
là số 11/263B, khóm B, phường B, tỉnh C.
Người đại diện theo ủy quyền của ông M, bà T: Ông Nguyễn Duy S, sinh năm
1981. Địa chỉ: Số 45H, đường Lê D, Khóm 7, Phường 1, thành phố B, tỉnh B. Nay
là số 45H, đường L, khóm 5, phường B, tỉnh C.
- Bị đơn:
1. Ông Tống Minh Đ, sinh năm 1984. Địa chỉ: Số 212/44, Khóm 8, Phường 3,
thành phố B, tỉnh B. Nay là Số 212/44, Khóm 15, phường B, tỉnh C.
2. Ông Lâm Chí N, sinh năm 1985. Địa chỉ: Số 126/7, Khóm 6, Phường 7,
thành phố B, tỉnh B. Nay là số 126/7, Khóm 17, phường B, tỉnh C.
3. Ông Trần Văn T, sinh năm 1976. Địa chỉ: ấp Tân Long, xã Long Thạnh,
huyện Vĩnh L, tỉnh B. Nay là ấp Tân Long, xã Hoà B, tỉnh C. Nơi ở hiện nay: 460
đường 23/8, phường B, tỉnh C.
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
1. Bà Nguyễn Thị Kim Th, sinh năm 1984. Địa chỉ: Số 212/44, Khóm 8,
Phường 3, thành phố B, tỉnh B. Nay là số 212/44, khóm 15, phường B, tỉnh C.
2. Bà Nguyễn Huỳnh Bích P, sinh ngày 1993. Địa chỉ: Số 126/7, Khóm 6,
Phường 7, thành phố B, tỉnh B. Nay là số 126/7, khóm 17, phường B, tỉnh C.
2
3. Ông Trương Thái S1, sinh năm 1983. Địa chỉ: Ấp Cái Tràm A1, xã Long
Thạnh, huyện V, tỉnh B. Nay là ấp Cái Tràm A1, xã Hoà B, tỉnh C.
4. Bà Phan Thị Hồng N, sinh năm 1990, địa chỉ: Ấp Cái Tràm A2, xã Long T,
huyện V, tỉnh B. Nay là ấp Cái Tràm A2, xã Hoà B, tỉnh C.
Người đại diện theo uỷ quyền của bà Phan Thị Hồng N: Ông Trương Thái S1,
sinh năm 1983. Địa chỉ: Ấp Cái Tràm A1, xã Hoà B tỉnh C.
5. Ông Lê Xuân Q, sinh năm 1987;
6. Bà Đỗ Hồng Linh G, sinh năm 1988.
Cùng địa chỉ: Số 02, Khóm 1, Phường 7 (Khu dân cư Tràng An), thành phố B,
tỉnh B. Nay là Số 02, Khóm 21, phường B, tỉnh C.
7. Sở Nông nghiệp và Môi trường tỉnh B. Nay là Sở Nông nghiệp và Môi
trường tỉnh C. Địa chỉ: Lô C7, đường Tôn Đức T, phường Tân T, tỉnh C.
Người đại diện theo pháp luật: ông Tô Hoài Ph, chức vụ: Giám đốc.
8. Văn phòng Đăng ký đất đai tỉnh B. Nay là Văn phòng đăng ký đất đai tỉnh
C. Địa chỉ: Số 77, đường Ngô Q, phường An X, tỉnh C.
Người đại diện theo pháp luật: Ông Trương Thanh T, chức vụ: Giám đốc.
9. Chi nhánh văn phòng đăng ký đất đai khu vực Hoà B. Địa chỉ: Ấp Thị Tr,
xã Hoà B, tỉnh C.
Người đại diện theo pháp luật: Ông Trần Anh Q, chức vụ: Giám đốc.
10. Phòng công chứng số 1, tỉnh C. Địa chỉ: Số 06, đường N, phường B, tỉnh
C.
11. Văn phòng công chứng B. Địa chỉ: Số 47, đường Phan Đình P, phường B,
tỉnh C.
12. Văn phòng công chứng C. Địa chỉ: Số 208/9 Đường H, phường B, Tỉnh C.
13. Bà Nguyễn Thị Ngọc D, sinh năm 1977. Địa chỉ: số 460 đường 23/8,
phường B, tỉnh C.
(Ông N, ông T, ông Thái S có mặt; các đương sự còn lại vắng)
NỘI DUNG VỤ ÁN
Nguyên đơn ông Trần Văn M, bà Ngô Thị Cẩm T và người đại diện theo uỷ
quyền thống nhất trình bày: Năm 2014, do có nhu cầu nuôi tôm mà không có vốn
nên vợ chồng ông M, bà T được người quen giới thiệu ông Tống Minh Đ để vay
tiền. Ngày 08/4/2014, vợ chồng ông M, bà T vay của ông Đ số tiền 40.000.000
đồng, thỏa thuận lãi mỗi tháng 2.000.000 đồng. Khi vay ông Đ yêu cầu vợ chồng
ông M, bà T đến Văn phòng công chứng Tào Văn Phụng (nay là Văn phòng công
chứng số 1) để ký hợp đồng chuyển nhượng thửa đất số 501, tờ bản đồ số 9, diện
tích 5.974m², đất toạ lạc tại ấp Cái Tràm A2, xã L, huyện V, tỉnh B (Giấy chứng
nhận số BM 733633) để làm tin rồi ông Đ mới đưa tiền. Quá trình vay vợ chồng ông
M, bà T đóng lãi hàng tháng cho ông Đ, đến năm 2021 thì dịch bệnh nên không tiền
đóng lãi. Ngày 08/12/2022, vợ chồng ông M, bà T hẹn ông Đ xuống nhà để thanh
toán tiền gốc cho ông Đ. Sau khi thanh toán xong, vợ chồng ông M, bà T kêu ông Đ
trả lại Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất nhưng ông Đ nói là vào tháng 10/2022
ông Đ đã chuyển tên qua tên ông Đ rồi. Do Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cũ,
chưa cập nhật bản đồ chính quy nên kêu vợ chồng ông M, bà T ký thủ tục để ông Đ
3
cập nhật bản đồ chính quy thì mới chuyển tên lại cho vợ chồng ông M, bà T được và
ông Đ có làm “Giấy cam kết đề ngày 08/12/2022” sang tên trả lại cho vợ chồng ông
M, bà T. Ngày 23/12/2022, ông Đ được Sở Tài nguyên và môi trường tỉnh Bạc Liêu
cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất tại thửa đất số 785; tờ bản đồ số 8, đối với
diện tích 5.974m², đất toạ lạc tại ấp Cái Tràm A2, xã L, huyện V, tỉnh B (trước đây
là thửa đất số 501, tờ bản đồ số 9 do ông M bà T đứng tên) nhưng đến nay ông Đ
không thực hiện cam kết. Quá trình Toà án giải quyết nguyên đơn biết được: Ông
Tống Minh Đ đã ký hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất cho ông Lâm Chí
N ngày 29/12/2019 tại Văn phòng Công chứng Lâm Văn Tuấn (nay là Văn phòng
Công chứng Cà Mau), giá thoả thuận 300.000.000 đồng, Ông N được Sở Tài nguyên
và môi trường tỉnh Bạc Liêu cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất ngày
06/02/2023. Ngày 21/3/2023, Ông N và vợ tên Nguyễn Huỳnh Bích P ký hợp đồng
chuyển nhượng quyền sử dụng đất với ông Trần Văn T tại Văn phòng Công chứng
Lâm Văn Tuấn, giá thoả thuận 200.000.000 đồng, ông T được Sở Tài nguyên và môi
trường tỉnh Bạc Liêu cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất ngày 17/11/2023.
Ngày 03/10/2024, ông T thoả thuận chuyển nhượng đất cho ông Trương Thái S1
nhưng ký hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất với bà Phan Thị Hồng N tại
Văn phòng Công chứng Cao Thị Niềm (nay là Văn phòng Công chứng Bạc Liêu),
giá thoả thuận chuyển nhượng thực tế 70.000.000 đồng, được Văn phòng đăng ký
đất đai huyện Vĩnh Lợi chỉnh lý biến động trang 3 của cấp giấy chứng nhận quyền
sử dụng đất ngày 16/10/2024. Ngày 26/10/2024, ông Thái S thoả thuận chuyển
nhượng đất cho ông Lê Xuân Q, bà Đỗ Hồng Linh G nhưng ký hợp đồng chuyển
nhượng quyền sử dụng đất từ bà Phan Thị Hồng N cho ông Lê Xuân Q, bà Đỗ Hồng
Linh G tại Văn phòng Công chứng Cao Thị Niềm, giá thoả thuận chuyển nhượng
thực tế 150.000.000 đồng, được Văn phòng đăng ký đất đai huyện Vĩnh Lợi chỉnh lý
biến động trang 4 của cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất ngày 21/11/2024.
Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cấp cho ông Trần Văn T chỉnh lý biến động
sang tên bà N, ông Q, bà G hiện do ông Trương Thái S1 giữ và cung cấp cho Toà án
đối chiếu bản gốc. Như vậy, việc chuyển nhượng quyền sử dụng đất từ vợ chồng
ông M, bà T cho ông Đ là hợp đồng giả tạo nhằm che giấu giao dịch vay tiền giữa
các bên, sau đó lại chuyển nhượng cho người khác là không phù hợp với quy định
của pháp luật. Do đó, ông Trần Văn M, bà Ngô Thị Cẩm T khởi kiện yêu cầu: Hủy
hợp đồng chuyển nhượng đất ngày 08/4/2014 giữa ông Trần Văn M, bà Ngô Thị
Cẩm T và ông Tống Minh Đ; Hủy Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số DK
776328 do Sở tài nguyên môi trường tỉnh Bạc Liêu cấp ngày 23/12/2022 cho ông
Tống Minh Đ; Hủy hợp đồng chuyển nhượng giữa ông Tống Minh Đ, bà Nguyễn
Thị Kim Th với ông Lâm Chí N lập ngày 29/12/2022; Hủy Giấy chứng nhận quyền
sử dụng đất số DK 331769 do Sở tài nguyên môi trường tỉnh Bạc Liêu cấp ngày
06/02/2023 cho ông Lâm Chí N; Hủy Hợp đồng chuyển nhượng giữa ông Lâm Chí
N, bà Nguyễn Huỳnh Bích P với ông Trần Văn T lập ngày 21/3/2023; Hủy Giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất
số DN030013 được Văn phòng Đăng ký đất đai tỉnh Bạc Liêu cấp ngày 17/11/2023
cho ông Trần Văn T; Huỷ chỉnh lý biến động ngày 16/10/2024 tại trang 3 của giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất cho bà Phan Thị Hồng N; Huỷ chỉnh lý biến động
4
ngày 21/11/2024 tại trang 4 của giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho ông Lê
Xuân Q, bà Đỗ Hồng Linh G.
Bị đơn ông Tống Minh Đ trình bày: Ngày 08/4/20214, ông M và bà T có vay
của ông số tiền vốn gốc 40.000.000đồng, lãi suất 2%/tháng, theo đó ông M, bà T
phải làm thủ tục chuyển nhượng quyền sử dụng đất tại thửa 501 tờ bản đồ số 9 (nay
là thửa 785 tờ bản đồ số 8), diện tích 5.974m² đất tọa lạc tại ấp Cái Tràm A2, xã L,
huyện V, tỉnh B cho ông để bảo đảm. Hai bên thỏa thuận đến khi nào ông M, bà T
trả hết tiền tiền gốc vay và lãi thì ông Đ sẽ làm thủ tục chuyển nhượng quyền sử
dụng đất từ tên ông trả sang cho ông M, bà T. Quá trình vay, ông M bà T có đóng lãi
cho ông được đến hết tháng 06 năm 2015, bắt đầu từ tháng 07 năm 2015 thì ngưng
đóng lãi đến nay. Hiện tại, ông M, bà T chưa trả số tiền vốn gốc vay 40.000.000
đồng. Theo khởi kiện của ông M, bà T thì ông Đ đồng ý hủy hợp đồng chyển
nhượng giữa ông với ông M bà T và đồng ý ông M và bà T trả toàn bộ tiền gốc vay
40.000.000 đồng và tiền lãi phát sinh theo quy định phát luật. Đối với giao dịch
chuyển nhượng giữa ông với Ông N đối với diện tích 5.974,0m² thuộc thửa số 785
tờ bản đồ số 8, đất tọa lạc tại ấp Cái Tràm A2, xã L, huyện V, tỉnh B thì do ông M,
bà T chưa trả tiền gốc, lãi nên ông đã làm thủ tục chuyển nhượng cho ông Lâm Chí
N ngày 29/12/2022, có công chứng tại văn phòng công chứng Lâm Văn Tuấn. Thỏa
thuận giá chuyên nhượng toàn bộ quyền sử dụng đất là 300.000.000 đồng. Tuy
nhiên, từ khi làm thủ thục chuyển nhượng thì Ông N chưa trả tiền chuyển nhượng
đất cho ông, ông cũng không giao đất chuyển nhượng cho Ông N nên ông cũng
đồng ý theo yêu cầu của ông M và bà T là hủy hợp đồng chuyển nhượng giữa ông
với Ông N.
Bị đơn ông Lâm Chí N trình bày: Ngày 29/12/2022 Ông N có nhận chuyển
nhượng quyền sử dụng đất diện tích 5.974,0m² thuộc thửa số 785 tờ bản đồ số 8, đất
tọa lạc tại ấp Cái Tràm A2, xã L, huyện V, tỉnh B của ông Tống Minh Đ, với giá
200.000.000 đồng nhưng ghi trong hợp đồng chuyển nhượng giá 300.000.000 đồng,
hợp đồng được công chứng tại Văn phòng công chứng Lâm Văn Tuấn. Sau khi thỏa
thuận chuyển nhượng thì ông Đ có dẫn ông chỉ vị trí đất thực tế nhưng do trời tối nên
ông nhìn không rõ. Sau đó, ông có cùng ông Khởi (người quen giới thiệu mua đất) đi
xem lại đất, cũng ở vị trí đất đó nhưng đứng ở hướng khác. Ngoài giao dịch chuyển
nhượng quyền sử dụng đất thì giữa ông và ông Đ có giao dịch vay tiền, ông Đ nợ ông
số tiền 92.000.000 đồng nên ông trừ tiền nợ và trả cho ông Đ số tiền 108.000.000
đồng, chỉ đưa qua tay, không làm giấy tờ giao nhận tiền, vị trí giao tiền cách nhà của
ông khoảng 2, 3 căn nhà, không ai chứng kiến. Ngày 06/02/2023, ông được Sở Tài
Nguyên và môi trường tỉnh Bạc Liêu cấp giấy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số
DK 331769, diện tích 5.974,0m² thuộc thửa đất số 785 tờ bản đồ 8 nhưng thực tế ông
Đ cũng không giao đất gì cho ông. Sau đó, do cần tiền sử dụng nên ông đã thế chấp
giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho ông Trần Văn T để vay số tiền 200.000.000
đồng, để bảo đảm khoản tiền vay nên ông đã ký chuyển nhượng lại cho ông Trần Văn
T cũng với giá 200.000.000 đồng, hợp đồng chuyển nhượng được công chứng tại văn
phòng công chứng Lâm Văn Tuấn. Sau khi thỏa thuận chuyển nhượng thì ông cũng
dẫn ông T xuống thực tế vị trí đất để chỉ đất cho ông T nhưng không giao nhận đất,
ông đã nhận số tiền 200.000.000 đồng của ông T và đến nay giấy chứng nhận cũng đã
5
chuyển sang tên cho ông T. Đối với yêu cầu khởi kiện của ông M, bà T thì ông đồng
ý; đối với số tiền ông đã giao cho ông Đ thì ông sẽ tự thoả thuận, không yêu cầu giải
quyết, trường hơp cần thiết sẽ khởi kiện thành vụ kiện khác.
Bị đơn ông Trần Văn T trình bày: Ông xác định lời trình bày của Ông N là
đúng; ông chỉ cho Ông N vay số tiền 200.000.000 đồng và hai bên làm hợp đồng
chuyển nhượng quyền sử dụng đất để bảo đảm khoản tiền vay. Ông đã giao đủ tiền
cho Ông N, Ông N có chỉ đất cho ông biết nhưng sau đó vài tháng ông quay lại đất
thì biết được đất đó không phải đất do Ông N đứng tên mà là đất của bà Hà. Do liên
hệ với Ông N không được nên ông làm thủ tục chuyển nhượng cho ông Trương Thái
S1 (nhưng ký hợp đồng với em của ông S1 là bà N), ký hợp đồng tại văn phòng
công chứng Cao Thị Niềm, giá thoả thuận là 70.000.000 đồng, ông có thông báo cho
ông S1 biết là không biết đất theo giấy chứng nhận nằm ở đâu, ông S1 đồng ý mua.
Ông S1 đã giao đủ tiền cho ông T. Khi nhận chuyển nhượng thì ông T chỉ giao giấy
chứng nhận cho ông S1 và ông S1 có nghĩa vụ tìm đất chứ hai bên không có giao
đất trên thực tế. Nay ông T đồng ý với yêu cầu của ông M, bà T, đồng ý huỷ giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất cấp cho ông đứng tên. Đối với số tiền ông đã giao
cho Ông N thì ông sẽ tự trao đổi, thoả thuận, trường hợp không thoả thuận được với
Ông N thì ông sẽ khởi kiện thành một vụ án khác.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông Trương Thái S1 trình bày: Ông
Trương Thái S1 và ông Trần Văn T chỉ quen biết, không có quan hệ họ hàng. Ngày
03/10/2024, ông Trần Văn T có chuyển nhượng cho ông Trương Thái S1 phần đất
diện tích 5.974m², thuộc thửa 501 tờ bản đồ số 9 (nay là thửa 785 tờ bản đồ số 8),
đất toạ lạc tại ấp Cái Tràm A2, xã L, huyện V, tỉnh B. Khi nhận chuyển nhượng,
giữa ông T và ông S1 có làm hợp đồng chuyển nhượng tại văn phòng công chứng
Cao Thị Niềm. Ông S1 nhờ em vợ tên Phan Thị Hồng N đứng tên hợp đồng giúp
ông S1. Nhưng thực tế mọi thoả thuận chuyển nhượng với ông T đều do ông S1
đứng ra thoả thuận và giao dịch. Nội dung thoả thuận như sau: Giá chuyển nhượng
thực tế là 70.000.000 đồng (giá trị ghi trên hợp đồng bao nhiêu thì ông S1 không
nhớ). Ông S1 đã giao đủ tiền cho ông T. Về nghĩa vụ giao đất thì ông T không có
giao đất cho ông S1 mà chỉ chuyển nhượng trên giấy tờ và giấy chứng nhận. Ông S1
thấy giá trị đất chuyển nhượng rẻ và ông T cũng được đứng tên giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất nên ông S1 yên tâm chuyển nhượng và không yêu cầu ông T giao
đất. Vị trí cụ thể của phần đất tranh chấp hiện nay thì ông S1 cũng không xác định
được. Sau khi nhận chuyển nhượng thì bà N đã được Chi nhánh văn phòng đăng ký
đất đai huyện Vĩnh Lợi, tỉnh Bạc Liêu chỉnh lý biến động trang 3 để đứng tên vào
ngày 16/10/2024. Sau đó, ông S1 có tiếp tục thoả thuận chuyển nhượng lại toàn bộ
phần đất trên cho vợ chồng ông Lê Xuân Q, bà Đỗ Hồng Linh G. Cũng tương tự
như khi ông S1 nhận chuyển nhượng từ ông T thì ông S1 với ông Q, bà G cũng thoả
thuận chuyển nhượng trên giấy tờ mà không có giao đất thực tế. Khi chuyển nhượng
hai bên có lập hợp đồng chuyển nhượng tại văn phòng công chứng Cao Thị Niềm
với giá 150.000.000 đồng. Ông Q, bà G đã giao đủ tiền cho ông S1. Hiện ông Q, bà
G đã được Chi nhánh văn phòng đăng ký đất đai huyện Vĩnh Lợi, tỉnh Bạc Liêu
chỉnh lý biến động trang 4 vào ngày 21/11/2024. Sau khi toà án mời ông làm việc
thì ông đã trả cho ông Q, bà G số tiền 150.000.000 đồng và nhận lại bản chính giấy
6
chứng nhận quyền sử dụng đất. Nay ông S1 đồng ý với yêu cầu của ông M, bà T.
Khi cần thiết, ông S1 sẽ khởi kiện để bảo vệ quyền lợi của ông ở một vụ án khác.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà Phan Thị Hồng N do người đại diện
theo uỷ quyền trình bày: Bà được anh rễ tên Trương Thái S1 nhờ đứng tên giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất, bà không biết và cũng không liên quan gì đến phần đất diện
tích 5.974m², thuộc thửa 501 tờ bản đồ số 9 (nay là thửa 785 tờ bản đồ số 8), đất toạ
lạc tại ấp Cái Tràm A2, xã L, huyện V, tỉnh B, bà cũng đã ký tên làm thủ tục chuyển
nhượng cho ông Lê Xuân Q, bà Đỗ Hồng Linh G theo yêu cầu của ông ông S1 nên
bà không có ý kiến hay yêu cầu gì trong vụ án này.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà Nguyễn Thị Kim Th, bà Nguyễn
Huỳnh Bích P, bà Nguyễn Thị Ngọc D, ông Lê Xuân Q, bà Đỗ Hồng Linh G, Văn
phòng công chứng Cà Mau đã được Toà án triệu hợp lệ nhưng vắng mặt không lý do,
không có văn bản trình bày ý kiến.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Sở Nông nghiệp và môi trường tỉnh Cà
Mau, Văn phòng đăng ký đất đai tỉnh Cà Mau, Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai
khu vực Hoà Bình, Phòng công chứng số 1, Văn phòng công chứng Bạc Liêu không
có văn bản trình bày ý kiến, chỉ có yêu cầu xét xử vắng mặt.
Tại phiên toà:
Người đại diện theo uỷ quyền của nguyên đơn có đơn yêu cầu xét xử vắng
mặt và có văn bản trình bày ý kiến về yêu cầu khởi kiện đối với các bị đơn. Nguyên
đơn xác định chỉ yêu cầu huỷ Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa ông
M, bà T với ông Tống Minh Đ, yêu cầu huỷ giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cấp
cho ông Trần Văn T, huỷ chỉnh lý biến động trang 3 cho bà Phan Thị Hồng N, huỷ
chỉnh lý biến động trang 4 cho ông Lê Xuân Q, bà Đỗ Hồng Linh G; đối với các yêu
cầu khác thì xin rút và đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận khởi kiện của nguyên đơn
ông M, bà T.
Bị đơn ông Lâm Chí N trình bày tranh luận: Ông đồng ý với yêu cầu xin rút
khởi kiện của nguyên đơn và thống nhất với khởi kiện của ông M, bà T. Ông không
có yêu cầu gì trong vụ án này. Trường hợp cần thiết thì ông sẽ khởi kiện thành vụ án
khác.
Bị đơn ông Trần Văn T trình bày tranh luận: Đồng ý toàn bộ khởi kiện của
nguyên đơn. Ông không có yêu cầu gì trong vụ án này. Trường hợp cần thiết thì ông
sẽ khởi kiện thành vụ án khác.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông Trương Thái S1 trình bày tranh
luận: Ông S1 không có yêu cầu độc lập đối với nguyên đơn; đồng ý yêu cầu khởi
kiện của nguyên đơn. Trường hợp cần thiết thì ông sẽ khởi kiện thành vụ án khác.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Cà Mau phát biểu quan điểm:
Về thủ tục tố tụng: Thẩm phán được phân công giải quyết vụ án đã thực hiện
đúng và đầy đủ các quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự. Hội đồng xét xử, Thư ký
đã tuân theo đúng các quy định của pháp luật về việc xét xử vụ án sơ thẩm. Các
đương sự đã thực hiện đúng và đầy đủ quyền và nghĩa vụ tố tụng theo quy định của
pháp luật.
Về nội dung vụ án: Đề nghị Hội đồng xét xử:
1. Đình chỉ một phần khởi kiện của nguyên đơn ông Trần Văn M, bà Ngô
Thị Cẩm T đối với bị đơn ông Lâm Chí N về việc yêu cầu hủy hợp đồng chuyển
7
nhượng quyền sử dụng đất lập ngày 29/12/2022 giữa ông Đ, bà Phương với Ông N
được chứng thực tại Văn Phòng Công chứng Lâm Văn Tuấn; Huỷ Giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất số DK 331769 do Sở tài nguyên và môi trường tỉnh Bạc
Liêu cấp ngày 06/02/2023 cho ông Lâm Chí N; Huỷ Hợp chuyển nhượng giữa vợ
chồng ông Lâm Chí N, bà Nguyễn Huỳnh Bích P với ông Trần Văn T ngày
21/3/2023 được chứng thực tại Văn Phòng Công chứng Lâm Văn Tuấn.
2. Chấp nhận một phần khởi kiện của nguyên đơn ông Trần Văn M, bà Ngô
Thị Cẩm T đối với bị đơn ông Tống Minh Đ, ông Trần Văn T.
- Vô hiệu hợp đồng chuyển quyền sử dụng đất lập ngày 08/4/2014 giữa bà
Ngô Thị Cẩm T, ông Trần Văn M với ông Tống Minh Đ đối với diện tích 5.974m
2
,
thửa đất số 501, tờ bản đồ số 09 được công chứng tại Văn phòng công chứng Tào
Văn Phụng.
- Hủy Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản
khác gắn liền với đất số DN030013 được Văn phòng Đăng ký đất đai tỉnh Bạc Liêu
cấp ngày 17/11/2023 cho ông Trần Văn T; Huỷ chỉnh lý biến động ngày 16/10/2024
tại trang 3 của giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho bà Phan Thị Hồng N; Huỷ
chỉnh lý biến động ngày 21/11/2024 tại trang 4 của giấy chứng nhận quyền sử dụng
đất cho ông Lê Xuân Q, bà Đỗ Hồng Linh G đối với phần đất tại thửa 785 tờ bản đồ
số 8, diện tích 5.974m², đất toạ lạc tại ấp Cải Tràm A2, xã Long Thạnh, huyện
Vĩnh Lợi, tỉnh Bạc Liêu.
- Ông M, bà T được quyền kê khai, đăng ký diện tích đất theo quy định.
3. Về chi phí tố tụng và án phí sơ thẩm không giá ngạch: Bị đơn ông Tống
Minh Đ phải chịu theo quy định.
NHẬN ĐỊNH CỦA TOÀ ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại
phiên toà, căn cứ yêu cầu của đương sự tại phiên toà, ý kiến đề nghị của đại diện
Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Cà Mau, Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Về tố tụng:
[1.1] Về thẩm quyền giải quyết vụ án và quan hệ tranh chấp: Ngày 03/3/2023,
Toà án nhân dân thành phố Bạc Liêu thụ lý vụ án theo đơn khởi kiện đề ngày
14/02/2023 (bút lục số 11), thụ lý bổ sung ngày 08/5/2024 theo đơn khởi kiện bổ
sung đề ngày 06/5/2024 (bút lục số 161) của nguyên đơn ông Trần Văn M, bà Ngô
Thị Cẩm T đối với bị đơn ông Tống Minh Đ, ông Lâm Chí N, ông Trần Văn T về
việc yêu cầu hủy hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa ông M, bà T với
ông Đ lập ngày 08/4/2014; hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa ông Đ,
bà Thanh với Ông N lập ngày 29/12/2022; hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng
đất giữa Ông N, bà Phương với ông T lập ngày 21/3/2023 và hủy giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất cấp cho ông Tống Minh Đ, ông Lâm Chí N, ông Trần Văn T; huỷ
chỉnh lý biến động tại giấy chứng nhận quyền sử dụng đất do Chi nhánh Văn phòng
Đăng ký đất đai khu vực Hoà Bình điều chỉnh cho bà Phan Thị Hồng N ngày
16/10/2024, điều chỉnh biến động cho ông Lê Xuân Q, bà Đỗ Hồng Linh G ngày
21/11/2024. Căn cứ khoản 3 Điều 26, khoản 4 Điều 34, điểm a khoản 1 Điều 37,
điểm a khoản 1 Điều 38, khoản 1 Điều 41 của Bộ luật Tố tụng dân sự 2015 và khoản
8
4 Điều 32 Luật Tố tụng hành chính thì Tòa án nhân dân thành phố Bạc Liêu, tỉnh
Bạc Liêu chuyển hồ sơ vụ án cho Tòa án nhân dân tỉnh Bạc Liêu (nay là Toà án
nhân dân tỉnh Cà Mau) thụ lý giải quyết là đúng thẩm quyền và quan hệ tranh chấp
là tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất và hủy giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất.
[1.2] Tại phiên tòa, người đại diện theo uỷ quyền của nguyên đơn có đơn yêu
cầu xét xử vắng mặt; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Sở Nông nghiệp và môi
trường tỉnh Cà Mau, Văn Phòng đăng ký đất đai tỉnh Cà Mau, Chi nhánh Văn phòng
đăng ký đất đai khu vực Hoà Bình, Văn phòng Công chứng số 01, Văn phòng Công
chứng Bạc Liêu có yêu cầu xét xử vắng mặt; bị đơn ông Tống Minh Đ, người có
quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Văn phòng Công chứng Cà Mau, bà Nguyễn Thị Kim
Th, bà Nguyễn Huỳnh Bích P, bà Nguyễn Thị Ngọc D, ông Lê Xuân Q, bà Đỗ Hồng
Linh G đã được triệu tập hợp lệ lần thứ hai nhưng vắng mặt không lý do, không
thuộc trường hợp bất khả kháng hoặc trở ngại khách quan. Căn cứ Điều 227 và Điều
228 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015, Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt đương sự
theo quy định.
[2] Về nội dung vụ án:
[2.1] Tại đơn khởi kiện đề ngày 14/02/2023 (bút lục số 11) ; đơn khởi kiện bổ
sung đề ngày 06/5/2024 (bút lục số 161) nguyên đơn ông M, bà T khởi kiện yêu cầu:
Hủy hợp đồng chuyển nhượng đất ngày 08/4/2014 giữa ông Trần Văn M, bà Ngô
Thị Cẩm T và ông Tống Minh Đ; Hủy Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số DK
776328 do Sở tài nguyên môi trường tỉnh Bạc Liêu cấp ngày 23/12/2022 cho ông
Tống Minh Đ; Hủy hợp đồng chuyển nhượng giữa ông Tống Minh Đ, bà Nguyễn
Thị Kim Th với ông Lâm Chí N lập ngày 29/12/2022; Hủy Giấy chứng nhận quyền
sử dụng đất số DK 331769 do Sở tài nguyên môi trường tỉnh Bạc Liêu cấp ngày
06/02/2023 cho ông Lâm Chí N; Hủy Hợp đồng chuyển nhượng giữa ông Lâm Chí
N, bà Nguyễn Huỳnh Bích P với ông Trần Văn T lập ngày 21/3/2023; Hủy Giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất
số DN030013 được Văn phòng Đăng ký đất đai tỉnh Bạc Liêu cấp ngày 17/11/2023
cho ông Trần Văn T; Huỷ chỉnh lý biến động ngày 16/10/2024 tại trang 3 của giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất cho bà Phan Thị Hồng N; Huỷ chỉnh lý biến động
ngày 21/11/2024 tại trang 4 của giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho ông Lê
Xuân Q, bà Đỗ Hồng Linh G. Tại Văn bản trình bày ý kiến của người đại diện theo
uỷ quyền của nguyên đơn lập ngày 25/9/2025 yêu cầu: Hủy hợp đồng chuyển
nhượng đất ngày 08/4/2014 giữa ông Trần Văn M, bà Ngô Thị Cẩm T và ông Tống
Minh Đ; Hủy Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản
khác gắn liền với đất số DN030013 được Văn phòng Đăng ký đất đai tỉnh Bạc Liêu
cấp ngày 17/11/2023 cho ông Trần Văn T; Huỷ chỉnh lý biến động ngày 16/10/2024
tại trang 3 của giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho bà Phan Thị Hồng N; Huỷ
chỉnh lý biến động ngày 21/11/2024 tại trang 4 của giấy chứng nhận quyền sử dụng
đất cho ông Lê Xuân Q, bà Đỗ Hồng Linh G, đối với các yêu cầu khác thì xin rút
khởi kiện. Xét thấy, việc rút một phần khởi kiện của nguyên đơn trên tinh thần tự
nguyện, không ai ép buộc, phù hợp với quy định của pháp nên căn cứ khoản 2 Điều
244 của Bộ luật tố tụng dân sự đình chỉ giải quyết đối với nội dung rút khởi kiện của
nguyên đơn.
9
[2.2] Xét yêu cầu khởi kiện hủy hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất
giữa ông Trần Văn M, bà Ngô Thị Cẩm T với ông Tống Minh Đ lập ngày 08/4/2014
tại Văn phòng công chứng Lâm Văn Tuấn, nhận thấy:
Theo Biên bản xem xét thẩm định tại chỗ lập ngày 15/5/2024 thể hiện vị trí
đất tranh chấp như sau:
+ Hướng Đông giáp đất ông Nguyễn Thành Nhân đang quản lý, sử dụng;
+ Hướng Tây giáp với phần đất ông Trần Văn M, bà Ngô Thị Cẩm T đang
quản lý, sử dụng;
+ Hướng Nam đất ông Nguyễn Thành Nhân đang quản lý, sử dụng;
+ Hướng Bắc giáp với phần đất ông Trần Văn M, bà Ngô Thị Cẩm T đang
quản lý, sử dụng;
Hiện trạng trên đất một phần là đất trống, một phần có nửa căn nhà của ông
M, bà T, diện tích 6,7m x 3,8m = 25,46m
2
. Kết cấu: cột bê tông, cây gỗ địa phương,
vách lá, ván gỗ, nền đất + xi măng, mái tol + xi măng. Đất do ông M, bà T trực tiếp
quản lý, sử dụng.
[2.2.1] Về nguồn gốc đất tranh chấp: Các đương sự thống nhất phần đất
tranh chấp là của vợ chồng ông Trần Văn M, bà Ngô Thị Cẩm T và được cấp giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất số BM 733633, thửa số 501, tờ bản đồ số 9 (sau khi
được cấp đổi bản đồ chính quy là thửa 785 tờ bản đồ số 8), diện tích 5.974m², đất
toạ lạc tại ấp Cái Tràm A2, xã L, huyện V, tỉnh B (nay là ấp Cái Tràm A2, xã Hoà
Bình, tỉnh Cà Mau). Đây là tình tiết không cần phải chứng minh theo quy định tại
Điều 92 của Bộ luật tố tụng dân sự.
[2.2.2] Theo nguyên đơn xác định: Năm 2014, do cần tiền để nuôi tôm nên
vợ chồng ông M, bà T được người quen giới thiệu vay tiền của ông Tống Minh Đ
với số tiền 40.000.000 đồng vào ngày 08/4/2014, lãi suất mỗi tháng 2.000.000
đồng, không làm biên nhận vay tiền. Khi vay ông Đ yêu cầu vợ chồng ông M, bà T
đến Văn phòng công chứng để ký hợp đồng chuyển nhượng thửa đất số 501, tờ bản
dồ số 9, diện tích 5.974m
2
đất tọa lạc tại ấp Cái Tràm A2, xã L, huyện V, tỉnh B để
làm tin mới đưa tiền. Ông M, bà T đã trả lãi đến năm 2021 thì ngưng không trả nữa
do dịch bệnh. Năm 2022, ông M, bà T dự định thanh toán nợ gốc và cho ông Đ
nhưng ông Đ đã chuyển tên giấy chứng nhận qua tên ông Đ và ông Đ kêu vợ
chồng ông ký thủ tục để ông Đ cập nhật bản đồ chính quy thì chuyển tên lại cho vợ
chồng ông M, bà T và ông Đ có làm giấy cam kết sang tên trả lại cho vợ chồng ông
M, bà T. Theo bị đơn ông Tống Minh Đ xác định: ngày 08/4/2014, ông M, bà T có
vay của ông số tiền 40.000.000 đồng, lãi suất 2%/tháng, ông M, bà T phải làm thủ
tục chuyển nhượng quyền sử dụng đất tại 501, tờ bản đồ số 9 (nay là thửa 785, bản
đồ số 8) cho ông, đến khi nào ông M, bà T trả hết tiền gốc vay và lãi suất cho ông
thì làm thủ tục chuyển nhượng quyền sử dụng đất từ tên ông sang cho ông M, bà T
nhưng các bên không giao nhận đất gì với nhau. Do ông M, bà T chưa trả tiền gốc,
lãi nên ông đã làm thủ tục chuyển nhượng cho ông Lâm Chí N.
[2.2.3] Nhận thấy, trên cơ sở tài liệu chứng cứ do chính bị đơn Tống Minh Đ
cung cấp là giấy cam kết của bà Ngô Thị Cẩm T lập ngày 04/10/2022 có thể hiện
nội dung: “tôi Nguyễn Thị Cẩm Tú, sinh năm 1965 và chồng là ông Trần Văn M có
nợ ông Tống Minh Đ số tiền 40.000.000 đồng, cam kết trong vòng 2 tháng sẽ hoàn
trả lại” từ giấy cam kết này cho thấy vợ chồng ông M, bà T có nợ tiền ông Đ và

10
chính ông Đ cũng thừa nhận việc ông cho vợ chồng bà T, ông M vay số tiền
40.000.000 đồng và đã lập “Giấy cam kết” đề ngày 08/12/2022 với nội dung “Tôi
Tống Minh Đ sinh năm 1984, tôi đã sang tên số đất BM 733633, sẽ sang lại cho cô
Ngô Thị Cẩm T trong vòng 1 tháng kể từ ngày hôm nay đế ngày 15/10/2023”. Như
vậy, có căn cứ xác định: việc ký hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa
ông Đ với vợ chồng ông M, bà T là thế chấp quyền sử dụng đất để đảm bảo khoản
tiền vay 40.000.000 đồng. Thực tế không có việc chuyển nhượng quyền sử dụng
đất giữa ông M, bà T và ông Đ nên phần đất tranh chấp từ khi ký hợp đồng đến
nay đều do vợ chồng ông M, bà T quản lý, sử dụng như biên bản xem xét thẩm
định thể hiện. Do vậy, hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất lập ngày
08/4/2014 giữa bà Ngô Thị Cẩm T, ông Trần Văn M với ông Tống Minh Đ đối với
diện tích 5.974m
2
, thửa đất số 501, tờ bản đồ số 09 được công chứng tại Văn
phòng công chứng Tào Văn Phụng là hợp đồng giả tạo vì các bên xác lập giao dịch
dân sự một cách giả tạo nhằm che giấu một giao dịch dân sự khác ở đây tiền vay
giữa của vợ chồng ông M, bà T. Do đó, hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng
đất lập ngày 08/4/2014 giữa bà Ngô Thị Cẩm T, ông Trần Văn M với ông Tống
Minh Đ đối với diện tích 5.974m
2
, thửa đất số 501, tờ bản đồ số 09 được công
chứng tại Văn phòng công chứng Tào Văn Phụng là vô hiệu theo quy định tại
khoản 1 Điều 124 Bộ luật dân sự năm 2015. Do việc ký kết hợp đồng chuyển
nhượng nhằm che giấu cho một hợp đồng khác, giữa ông M, bà T và ông Đ vẫn
chưa thực hiện việc giao tiền và giao đất trên thực tế, không có thiệt hại xảy ra và
các bên không ai yêu cầu giải quyết hậu quả của hợp đồng chuyển nhượng vô hiệu
nên không đặt ra xem xét.
[2.3] Xét yêu cầu hủy Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà
ở và tài sản khác gắn liền với đất số DN030013 được Văn phòng Đăng ký đất đai
tỉnh Bạc Liêu cấp ngày 17/11/2023 cho ông Trần Văn T; Huỷ chỉnh lý biến động
ngày 16/10/2024 tại trang 3 của giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho bà Phan
Thị Hồng N; Huỷ chỉnh lý biến động ngày 21/11/2024 tại trang 4 của giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất cho ông Lê Xuân Q, bà Đỗ Hồng Linh G, nhận thấy:
[2.3.1] Theo ông Lâm Chí N xác định: ông có nhận chuyển nhượng quyền
sử dụng đất diện tích 5.974m
2
, thuộc thửa 785, tờ bản đồ số 8 của ông Tống Minh
Đ với giá 200.000.000 đồng, hai bên có lập hợp đồng chuyển nhượng được công
chứng tại Văn phòng công chứng Lâm Văn Tuấn với giá 300.000.000 đồng; ông Đ
có dẫn đến vị trí đất chỉ đất thực tế nhưng do trời tối nên không xác định được vị
trí cụ thể, sau đó ông cùng với người giới thiệu mua đất tên Khởi đi xem lại đất thì
hiện trạng là đất trống, trên đất chỉ có cây tạp không có công trình trên đất. Đến
ngày 06/02/2023, Ông N được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đối với
phần đất trên. Do cần tiền sử dụng nên ông vay tiền của ông T và ký hợp đồng
chuyển nhượng phần đất này cho ông Trần Văn T để thế chấp vay số tiền
200.000.000 đồng, ông có chỉ ông T vị trí đất mà ông Khởi đã chỉ cho ông để ông
T biết nhưng không giao nhận đất gì với nhau.
Theo ông Trần Văn T xác định có nhận chuyển nhượng phần đất của ông
Lâm Chí N như Ông N trình bày. Hợp đồng chuyển nhượng lập ngày 21/3/2023
được công chứng tại Văn phòng công chứng Lâm Văn Tuấn nhưng chỉ ký để thế
chấp số tiền vay 200.000.000 đồng, chứ hai bên không có nhận chuyển nhượng đất
11
gì với nhau. Trước khi ký chuyển nhượng thì Ông N có đưa ra phần đất thực tế để
chỉ, hiện trạng là đất trống và có 01 cái chòi tạm (để giữ vuông), khoảng 05 tháng
sau ông đến phần đất nhận chuyển nhượng thì có bà Hà ra ngăn cản nói đất của bà
Hà, không phải của Ông N, liên hệ Ông N nhiều lần nhưng đều từ chối nên ông đã
làm thủ tục chuyển nhượng lại cho ông Trương Thái S1 với giá 70.000.000 đồng
với điềuu kiện là ông S1 phải tự tìm đất, do ông không biết đất ở đâu.
Ông Trương Thái S1 xác định ngày 20/12/2023, ông có nhận chuyển nhượng
của ông Trần Văn T phần đất diện tích 5.974m
2
(là phần đất tranh chấp) với giá
70.000.000 đồng, có lập hợp đồng chuyển nhượng tại văn phòng công chứng Cao
Thị Niềm. Khi chuyển nhượng thì chỉ chuyển nhượng trên giấy tờ, không có giao
đất, cũng không xác định đất ở đâu, do thấy giá rẻ nên mua. Khi làm thủ tục
chuyển nhượng thì ông nhờ em vợ tên Phan Thị Hồng N đứng tên dùm. Sau đó,
ông đã chuyển nhượng phần đất này cho vợ chồng ông Lê Xuân Q, bà Đỗ Hồng
Linh G với giá 150.000.000 đồng, có lập hợp đồng chuyển nhượng được công
chứng tại văn phòng công chứng Cao Thị Niềm; tương tự cũng thỏa thuận chuyển
trên giấy tờ không có giao đất thực tế.
[2.3.2] Căn cứ biên bản xem xét thẩm định tại chỗ tài sản lập ngày
15/5/2024 thể hiện: theo sự chỉ ranh vị trí đất chuyển nhượng của ông Lâm Chí N
tại ấp Cái Tràm A2, xã L, huyện V, tỉnh B mà ông Tống Minh Đ chuyển nhượng
cho ông có vị trí hướng đông giáp với phần đất ông Nguyễn Thanh Hà, Hướng tây
giáp đất bà Nguyễn Ngọc Hà, hướng nam giáp đất ông Nguyễn Văn Thoa và
hướng bắc giáp phần đất ông Hồ Hải. Qua chỉ vị trí đất bà Ngô Thị Cẩm T xác
định vị trí Ông N xác định trên là không phải đất của bà, của ai thì bà không biết,
đất vợ chồng bà cách đây khoảng 2 km và ý kiến của bà Nguyễn Ngọc Hà, bà có
chứng kiến Ông N chỉ vị trí đất đất nêu trên, bà xác định vị trí đất Ông N chỉ là đất
của bà đang quản lý sử dụng và hiện trạng là đất trống. Phần Ông N xác định ông
Đ chỉ vị trí đất cho ông là vị trí này, không còn vị trí nào khác. Như vậy, từ lời
trình bày của những người chứng kiến trong biên bản xem xét thẩm định tại chỗ tài
sản là cho thấy Ông N chuyển nhượng phần đất trên thực tế không đúng với phần
đất trên giấy chứng nhận, đều này phù hợp với lời khai của ông Trần Văn T khi
nhận chuyển nhượng đất từ Ông N.
[2.3.3] Như vậy ngay từ đầu, xuất phát từ việc vay tiền nên ông Tống Minh
Đ mới lập hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa ông với vợ chồng ông
Trần Văn M, bà Ngô Thị Cẩm T để đảm bảo khoản vay nên giữa hai bên không có
việc chuyển nhượng đất và giao nhận đất trên thực tế mà đây là giao dịch giả tạo.
Đến khi ông Đ đem phần đất do ông M, bà T đứng tên giấy chứng nhận để chuyển
nhượng cho Ông N, cũng như Ông N chuyển nhượng cho Trường và kéo theo
những người khác đều không chỉ đúng vị trí phần đất chuyển nhượng trên thực tế
như biên bản ngày 15/5/2024 đã thể hiện và giao dịch chuyển nhượng quyền sử
dụng đất giữa ông Tống Minh Đ với vợ chồng ông Trần Văn M, bà Ngô Thị Cẩm T
được xác định là đây là giao dịch dân sự giả tạo nên các hợp đồng chuyển nhượng
quyền sử dụng đất giữa những người đã nêu trên cũng bị vô hiệu theo. Mặt khác,
các đương sự trong vụ án đều thống nhất huỷ giấy chứng nhận quyền sử dụng đất
theo yêu cầu của ông M, bà T. Như nhận định ở trên, hợp đồng chuyển nhượng
quyền sử dụng đất giữa vợ chồng ông Trần Văn M, bà Ngô Thị Cẩm T với ông Tống

12
Minh Đ được công chứng tại Văn phòng công chứng Tào Văn Phụng vô hiệu từ khi
xác lập do giả tạo quy định tại Điều 124 của Bộ luật dân sự. Do đó, giấy chứng nhận
cấp cho ông Tống Minh Đ cũng như giấy chứng nhận cấp cho những người nhận
chuyển nhượng diện tích đất 5.974m
2
cũng đều bị hủy theo quy định do các hợp
đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất này đều bị vô hiệu nên việc Ông N, ông T,
bà N, ông Q, bà G được cơ quan có thẩm quyền cấp giấy chứng nhận quyền sử
dụng, điều chỉnh biến động quyền sử dụng đất là chưa phù hợp và ảnh hưởng đến
quyền và lợi ích của ông M, bà T nên cần phải huỷ theo yêu cầu của nguyên đơn
ông M, bà T.
[2.4] Về hậu quả của giao dịch dân sự vô hiệu: Do việc ký kết hợp đồng
chuyển nhượng nhằm che giấu cho một hợp đồng khác là giao dịch vay tiền, giữa
ông Đ và ông M, bà T vẫn chưa thực hiện việc giao tiền và giao đất trên thực tế nên
không có thiệt hại xảy ra, không ai yêu cầu giải quyết hậu quả pháp lý. Đối với hợp
đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa ông Tống Minh Đ với ông Lâm Chí N;
giữa ông Lâm Chí N với ông Trần Văn T; giữa ông Trần Văn T với ông Trương
Thái S1 (do bà N đứng tên) và giữa ông Trương Thái S1 với ông Lê Xuân Q, bà Đỗ
Hồng Linh G, không ai đặt ra yêu cầu giải quyết hậu quả pháp lý của hợp đồng vô
hiệu trong vụ án này nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét, khi nào cần thiết
các đương sự có quyền khởi kiện trong vụ án khác khi cần thiết.
[3] Đối với giao dịch vay tiền của vợ chồng ông M, bà T, trong quá tình là
việc ông Tống Minh Đ có trình bày sẽ nộp đơn yêu cầu Tòa án giải quyết như đến
khi vụ án đưa ra xét xử ông Đ cũng không có đơn khởi kiện đối với số tiền vợ chồng
ông M, bà T đã vay. Do đó, đối với giao dịch vay mượn tiền giữa ông Đ với vợ
chồng ông M sẽ được xem xét, giải quyết trong vụ án khác khi có yêu cầu.
[4] Từ những phân tích nêu trên, có cơ sở chấp nhận yêu cầu khởi kiện của
nguyên đơn, chấp nhận ý kiến phát biểu của Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh
Cà Mau.
[5] Về chi phí tố tụng: Tổng chi phí xem xét, thẩm định tại chỗ số tiền
750.000 đồng và bị đơn ông Tống Minh Đ phải chịu toàn bộ. Nguyên đơn ông M,
bà T đã dự nộp xong nên buộc bị đơn ông Tống Minh Đ phải có nghĩa vụ hoàn trả
ông M, bà T số tiền 750.000 đồng.
[6] Về án phí sơ thẩm không giá ngạch: Do yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn
được chấp nhận nên nguyên đơn ông M, bà T không phải chịu án phí; bị đơn ông
Tống Minh Đ phải chịu án phí không giá ngạch số tiền 300.000 đồng.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ khoản 3 Điều 26, khoản 4 Điều 34, điểm a khoản 1 Điều 37, Điều 217,
Điều 218, khoản 2 Điều 227, khoản 1 và 3 Điều 228, Điều 244 của Bộ luật Tố Tụng
dân sự năm 2015; khoản 4 Điều 32 Luật Tố tụng Hành chính; Điều 124 của Bộ luật
Dân sự năm 2015; Điều 203 của Luật đất đai 2013; Luật đất đai 2024; Nghị quyết
326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về
mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Tuyên xử:
13
1. Đình chỉ một phần khởi kiện của nguyên đơn ông Trần Văn M, bà Ngô
Thị Cẩm T đối với bị đơn ông Lâm Chí N về việc yêu cầu hủy hợp đồng chuyển
nhượng quyền sử dụng đất lập ngày 29/12/2022 giữa ông Tống Minh Đ, bà Nguyễn
Thị Kim Th với ông Lâm Chí N đối với phần đất tại thửa 785 tờ bản đồ số 8, diện
tích 5.974m², đất toạ lạc tại ấp Cái Tràm A2, xã L, huyện V, tỉnh B, được chứng
thực tại Văn Phòng Công chứng Lâm Văn Tuấn; Huỷ Giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất số DK 331769 do Sở tài nguyên và môi trường tỉnh Bạc Liêu cấp ngày
06/02/2023 cho ông Lâm Chí N đối với phần đất tại thửa 785 tờ bản đồ số 8, diện
tích 5.974m², đất toạ lạc tại ấp Cải Tràm A2, xã Long Thạnh, huyện Vĩnh Lợi, tỉnh
Bạc Liêu; Huỷ Hợp chuyển nhượng giữa vợ chồng ông Lâm Chí N, bà Nguyễn
Huỳnh Bích P với ông Trần Văn T ngày 21/3/2023 đối với phần đất tại thửa 785 tờ
bản đồ số 8, diện tích 5.974m², đất toạ lạc tại ấp Cái Tràm A2, xã L, huyện V, tỉnh
B, được chứng thực tại Văn Phòng Công chứng Lâm Văn Tuấn.
2. Chấp nhận một phần khởi kiện của nguyên đơn ông Trần Văn M, bà Ngô
Thị Cẩm T đối với bị đơn ông Tống Minh Đ, ông Trần Văn T về việc yêu cầu hợp
đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất lập ngày 08/4/2014 giữa bà Ngô Thị Cẩm
T, ông Trần Văn M với ông Tống Minh Đ đối với diện tích 5.974m
2
, thửa đất số
501, tờ bản đồ số 09 được công chứng tại Văn phòng công chứng Tào Văn Phụng;
Hủy Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn
liền với đất số DN030013 được Văn phòng Đăng ký đất đai tỉnh Bạc Liêu cấp ngày
17/11/2023 cho ông Trần Văn T đối với thửa đất số 785 tờ bản đồ số 8, diện tích
5.974m², đất toạ lạc tại ấp Cái Tràm A2, xã L, huyện V, tỉnh B (nay là ấp Cái Tràm
A2, xã Hoà Bình, tỉnh Cà Mau); Huỷ chỉnh lý biến động ngày 16/10/2024 tại trang
3 của giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho bà Phan Thị Hồng N; Huỷ chỉnh lý
biến động ngày 21/11/2024 tại trang 4 của giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho
ông Lê Xuân Q, bà Đỗ Hồng Linh G.
2.1. Vô hiệu hợp đồng chuyển quyền sử dụng đất lập ngày 08/4/2014 giữa
bà Ngô Thị Cẩm T, ông Trần Văn M với ông Tống Minh Đ đối với diện tích
5.974m
2
, thửa đất số 501, tờ bản đồ số 09 được công chứng tại Văn phòng công
chứng Tào Văn Phụng.
2.2. Hủy Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản
khác gắn liền với đất số DN030013 được Văn phòng Đăng ký đất đai tỉnh Bạc Liêu
cấp ngày 17/11/2023 cho ông Trần Văn T đối với thửa đất số 785 tờ bản đồ số 8,
diện tích 5.974m², đất toạ lạc tại ấp Cái Tràm A2, xã L, huyện V, tỉnh B (nay là ấp
Cái Tràm A2, xã Hoà Bình, tỉnh Cà Mau); Huỷ chỉnh lý biến động ngày 16/10/2024
tại trang 3 của giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho bà Phan Thị Hồng N; Huỷ
chỉnh lý biến động ngày 21/11/2024 tại trang 4 của giấy chứng nhận quyền sử dụng
đất cho ông Lê Xuân Q, bà Đỗ Hồng Linh G.
2.3. Ông Trần Văn M, bà Ngô Thị Cẩm T được quyền liên hệ cơ quan có
thẩm quyền kê khai, đăng ký quyền sử dụng đất đối với phần đất tại thửa 785 tờ
bản đồ số 8, diện tích 5.974m², đất toạ lạc tại ấp Cái Tràm A2, xã L, huyện V, tỉnh
B (nay là ấp Cái Tràm A2, xã Hoà Bình, tỉnh Cà Mau) theo quy định.
3. Về chi phí tố tụng: Tổng chi phí xem xét, thẩm định tại chỗ số tiền 750.000
đồng và bị đơn ông Tống Minh Đ phải chịu toàn bộ. Nguyên đơn ông M, bà T đã dự
14
nộp xong nên buộc bị đơn ông Tống Minh Đ phải có nghĩa vụ hoàn trả ông M, bà T
số tiền 750.000 đồng.
4. Về án phí sơ thẩm không giá ngạch:
- Buộc bị đơn ông Tống Minh Đ phải chịu 300.000 đồng, nộp tại Thi hành án
Dân sự tỉnh Cà Mau.
- Nguyên đơn ông Trần Minh Đáng, bà Ngô Thị Cẩm T không phải chịu án
phí; ông M, bà T đã dự nộp 300.000 đồng theo biên lai thu số 0008465 ngày
02/3/2023 và 300.000 đồng theo biên lai thu số 0002642 ngày 08/5/2024 tại Chi cục
Thi hành án dân sự thành phố Bạc Liêu (nay Phòng Thi hành án dân sự khu vực 6)
được hoàn lại đủ.
5. Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật
thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự
có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án
hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án
dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành
án dân sự.
Án xử sơ thẩm công khai, đương sự có mặt có quyền kháng cáo bản án trong
thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án; đương sự vắng mặt có quyền kháng cáo bản
án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày bản án được tống đạt hoặc niêm yết theo quy
định của pháp luật.
Nơi nhận:
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ SƠ THẨM
- TPT TANDTC tại TP. Hồ Chí Minh;
- VKSND tỉnh Cà Mau;
- THADS tỉnh Cà Mau;
- Các đương sự;
- Lưu HS, Tổ HCTP.
THẨM PHÁN - CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
Đã ký
Giang Thị Cẩm Thúy
15
Tải về
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án/ Quyết định cùng đối tượng
1
Ban hành: 26/11/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
2
Ban hành: 12/11/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
3
Ban hành: 06/11/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
4
Ban hành: 06/11/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
5
Ban hành: 14/10/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
6
Ban hành: 30/09/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
7
Ban hành: 30/09/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
8
Ban hành: 30/09/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
9
Ban hành: 30/09/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
10
Ban hành: 30/09/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
11
Ban hành: 30/09/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
12
Ban hành: 30/09/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
13
Ban hành: 29/09/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
14
Ban hành: 29/09/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
15
Ban hành: 29/09/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
16
Ban hành: 29/09/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
17
Ban hành: 29/09/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
18
Ban hành: 29/09/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
19
Ban hành: 29/09/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm